Bản án số 843/2025/DS-PT ngày 09/09/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về chia tài sản chung

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 843/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 843/2025/DS-PT ngày 09/09/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về chia tài sản chung
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản chung
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 843/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp tài sản chung, tranh chấp đòi tài sản, yêu cầu tuyên bố kết quả bán đấu giá tài sản là vô hiệu, tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 843/2025/DS-PT
Ngày 31-7-2025
V/v Tranh chấp tài sản chung,
tranh chấp đòi tài sản, yêu cầu
tuyên bố kết quả bán đấu giá tài
sản hiệu, tranh chấp bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Ch tọa phiên
tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Trần Thị Thắm.
Ông Nguyễn Văn Tài;
Bà Ngô Thị Bích Diệp.
- Thư phiên tòa: Ông Phan Hoàng Khang - Thư Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia
phiên tòa: Bà Trần Thị Phước – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 22, 25 ngày 31 tháng 7 năm 2025, tại trụ sở Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (sở B) xét xử phúc thẩm công khai ván
dân sự phúc thẩm số 81/2025/TLPT-DS ngày 19/02/2025 về việc “Tranh chấp
tài sản chung, tranh chấp đòi tài sản, yêu cầu tuyên bkết quả bán đấu giá tài
sản là vô hiệu, tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
Do Bản án dân sự thẩm số 175/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương (nay Tòa án nhân dân Khu vực 18 -
Thành phố Hồ Chí Minh) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra t xử phúc thẩm số 224/2025/QĐXXPT-
DS ngày 22 tháng 4 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa số 305/2025/QĐ-PT
ngày 19 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị H, sinh năm 1966; địa chỉ: khu phố P,
phường P, thành phố B, tỉnh Bình Dương (nay phường P, Thành phố Hồ Chí
Minh).
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Cao Thế L, sinh năm
1978; địa chỉ: số D A, B, Khóm B, phường G, Thành phố B, tỉnh Bạc Liêu
(nay là phường B, tỉnh Mau); người đại diện theo ủy quyền (theo văn bản
ủy quyền ngày 13/6/2023), có mặt.
2
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn
Hoài N Luật sư của công ty L3 thuộc đoàn luật sư Thành phố H, có mặt.
- Bị đơn:
1. Trần Thanh T, sinh năm 1982; địa chỉ: Khu phố R, phường A, thành
phố B, tỉnh Bình Dương (nay là phường T, Thành phố Hồ Chí Minh).
2. Công ty Đ1; địa chỉ: số B H, thị trấn Y, huyện G, Thành phố Nội
(nay là P, Thành phố Nội). Người đại diện hợp pháp: Ông Công L1,
chức vụ: Tổng giám đốc, là người đại diện theo pháp luật, có mặt.
3. Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần H5; địa chỉ: số E N, phường L, quận
Đ, Thành phố Hà Nội (nay là phường L, Thành phố Hà Nội).
Người đại diện hợp pháp: Huỳnh Thị Như N1, sinh năm 1978; địa chỉ:
số A đường Đ, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (nay là phường T, Thành
phố Hồ C Minh), người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền ngày
26/8/204), có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần Đức L2, sinh năm 1996; địa chỉ: khu phố P, phường T, thành
phố Đ, tỉnh Bình Phước (nay là phường B, tỉnh Đồng Nai), có mặt.
2. Văn phòng C, tỉnh Bình Dương; địa chỉ: Đường T, khu phố T, phường
Đ, thành phố D, tỉnh Bình Dương (nay phường Đ, Thành phố Hồ Chí Minh),
có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Ông Đặng Quang V, sinh năm 1982; địa chỉ: địa chỉ: khu phố R, phường
A, thành phố B, tỉnh Bình Dương (nay phường T, Thành phố Hồ Chí Minh),
có đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Trần Thị Huyền T1, sinh năm 1992; địa chỉ: Ấp B, T, huyện D,
tỉnh Bình Dương (nay là xã T, Thành phố Hồ Chí Minh), có đơn xin xét xử vắng
mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn Công ty Đ1 Ngân Hàng Thương Mại Cổ
Phần H5.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm:
Tại đơn khởi kiện ngày 28/12/2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày
12/5/2022, ngày 18/11/2022 ngày 21/6/2023, quá trình tố tụng tại phiên
tòa, đại diện nguyên đơn trình bày:
Ngày 02/4/2018 bà H đặt cọc để nhận chuyển nhượng của Nguyễn
Thị H1, ông Nguyễn Minh Đ trọn thửa đất số 64, tờ bản đồ số 41, tọa lạc tại ấp
Đ, Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương. Sau đó các bên đã hoàn tất thủ tục công
chứng, sang tên tại cơ quan chức năng có thẩm quyền, bà H cũng đã giao đủ tiền
3
cho vợ chồng ông Đ, H1 theo thỏa thuận các bên không tranh chấp
với nhau.
Trong thời gian mua đất thì Trần Thanh T (là người quen biết với
H nhiều năm, cùng quê A) đặt vấn đề cùng hùn tiền với H để chia lại một
phần đất H đã mua, T sẽ khai khác cạo cao su, bán cừ tràm trên phần
đất hùn được hai bên phân chia ranh, cắm trụ bên tông mốc giới. Thời điểm đó
H cũng cần thêm vốn đđầu tư nhà vườn tại thành phố B, Đ, tỉnh Lâm Đồng
nên T đề nghị cho Trần Thanh T được đứng tên hợp đồng trực tiếp với
gia đình bà Nguyễn Thị H1, ông Nguyễn Minh Đ, vấn đề này được bà H đồng ý.
Sau đó T được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện D cấp Giấy
chng nhn quyn s dụng đất quyền shữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất số C0 0581157, số vào s cp GCN s CS01936 ngày 15/8/2018 việc giao
dịch, thỏa thuận giữa các bên được thể hiện qua “Giấy mua bán đất thỏa thuận
cam kết” ngày 10/8/2018 do Trần Thanh T chồng Đặng Quang V lập,
nhân chứng Ngọc H2; “Giấy hùn mua đất” ngày 1/8/2020 do Trần
Thanh T lập. Sau khi nhận chuyển nhượng đất từ tháng 8 m 2018 thì H
quản lý, sử dụng phần đất thuộc quyền sử dụng của mình theo ranh mốc các bên
đã định cho đến nay (diện tích đất đo đạc thực tế 7.079,4m
2
), gia đình H
thuê nhân công khai thác cao su, chăm sóc, lấy củi vườn tràm, cao su… với
số lượng khoảng 300 cây cao su, khoảng 100 cây tràm (lúc mua 05 năm tuổi,
nay 02 loại cây đã 10 năm tuổi) không gặp bất sự ngăn cản, tranh chấp
nào của bất kì ai liên quan đến phần đất đã chuyển nhượng.
Sau khi T được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất thì T
vay vốn ngân hàng thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên để
đảm bảo việc vay vốn. Do bà T vi phạm thỏa thuận, cam kết về giải ngân, trả
tiền vay, thanh lý hợp đồng với ngân hàng để làm thủ tục tách thửa đất của bà H
như đã hứa nên bà H đã khởi kiện T ra Tòa án sau khi các bên hòa giải nhiều
lần tại xã Đ nhưng không thành, vụ kiện được Tòa án thụ số 601/2020/LTST-
DS ngày 31/12/2020. Sau khi thụvụ án thì Tòa án nhân dân huyện D và bà H
đã nhiều đơn từ, văn bản, thông báo gửi cho Ủy ban nhân dân Đ, Ủy ban
nhân dân huyện D, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện D, bị đơn T
và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là Ngân hàng TMCP H5
thông tin về việc phần đất thuộc thửa đất số 64, tờ bản đồ số 41, tọa lạc tại ấp Đ,
Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương đang tranh chấp, đề nghị ngăn chặn để
chờ Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay qua hồ sơ do
Tòa án thu thập được từ Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện D, và Văn
phòng C, tỉnh Bình Dương thì thửa đất trên đã bị Ngân hàng giao tổ chức bán
đấu giá, đã đấu giá thành vào ngày 22/12/2021 các bên đã làm thủ tục
sang tên cấp giấy chứng nhận cho ông Trần Đức L2 vào ngày 08/08/2022. Như
vậy, mặc thửa đất đang tranh chấp, Ngân hàng TMCP H5 là một bên
quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, T bị đơn trong vụ án nhưng khi xử
tài sản thế chấp để bàn giao tài sản cho đơn vị đấu giá tổ chức đấu giá thì
Ngân hàng đã không thông báo cho bà T (bên đi vay) biết, không thông báo cho
Tòa án những người quyền nghĩa vụ liên quan đến tài sản vay biết.
4
Việc làm này của Ngân hàng vi phạm quy định vxtài sản bảo đảm để
thu hồi nợ, vi phạm quy định của Bộ luật dân sự về quyền của chủ tài sản khi thế
chấp, vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng vay hợp đồng thế chấp tài sản, vi
phạm Luật đất đai, Bộ luật tố tụng dân sự. Ngân hàng đã cố tình cung cấp
thông tin gian dối, xử lý tài sản trái quy định gây thiệt hại đến quyền lợi ích
hợp pháp của các đương sự, cụ thể Nguyễn Thị H nguyên đơn trong
vụ án.
Đối với Công ty Đ1 - Chi nhánh M1, Công ty Đ1 khi tiến hành các thủ
tục liên quan đến tài sản đấu giá đã không tìm hiểu thông tin về tình trạng tài
sản, quyền sử dụng đất tại các quan chức năng, tài sản trên đất cây cao su
đang khai thác, và cừ tràm gần 10 năm tuổi tổng cộng gần 1.000 gốc nhưng
không xác định ai chủ sử dụng, chủ sở hữu tài sản (cây trồng) trên đất này,
không định giá tài sản này để đưa vào hồ sơ đấu giá tiến hành đấu giá đất
trống, không kiểm tra hiện trạng tài sản bán đấu giá về ranh giới diện tích,
không thực hiện đúng đủ các quy định, thông báo về việc đấu giá cho chủ tài
sản, người liên quan theo quy định, không tiến hành các thủ tục bàn giao tài sản
trúng đấu giá theo đúng quy định. Việc làm này của Công ty Đ1 chi nhánh M1,
Công ty Đ1 đã vi phạm nghiêm trọng Luật đấu giá tài sản, Nghị định số
62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều và biện pháp thi hành Luật đấu giá tài sản, vi phạm Luật đất đai, và Bộ luật
dân sự về xlý tài sản thế chấp, vgiao dịch dân sự đối với tài sản đấu giá, từ
đó đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà T, bà H.
Đối với các quan chức năng chính quyền địa phương đã sự vi
phạm nghiêm trọng pháp luật đất đai khi xác nhận hồ đăng giao dịch về
quyền sử dụng đất, xác nhận hồ sơ chuyển thuế, hiện trạng sử dụng đất, cấp
giấy chứng nhận trong khi đất đang có tranh chấp và vụ việc đang do Tòa án thụ
vi phạm khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ, thiếu trách nhiệm. Việc làm này
ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án nên cần biện
pháp khắc phục, ngăn chặn kịp thời trong thời gian Tòa án giải quyết vụ án,
tránh gây thêm hậu quả không thể khắc phục. Tòa án cũng đã ra quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với phần đất có tranh chấp nêu trên.
Chính vì vy, các giao dịch, định đoạt trái pháp lut ca ch th không
tuân thủ các trình tự, thủ tục pháp luật đã quy định phi b tuyên b hiu,
phải bị hủy b theo quy định của B lut dân s 2015; đồng thời người hành
vi vi phạm phải bồi thường thit hại đã gây ra do việc định đot, chiếm hu, s
dng trái pháp luật theo quy định điều 584, 587, 589, 597, 598 B lut Dân s
2015
T nhng ni dung trình bày trên nay bà H yêu cu Tòa án xem xét gii
quyết c th như sau:
1. Công nhận phần đất có din tích đất là 7.079,4m
2
thuộc một phần thửa
đất s 64, tbản đồ số 41, tọa lạc tại ấp Đ, Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương
thuộc quyền sử dụng của Nguyễn Thị H và kiến nghị Sở Tài nguyên Môi
5
trường tỉnh B, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện D, tỉnh Bình Dương
thu hồi Giy chng nhn quyn s dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác
gắn liền với đất số DG801723, số vào s cp GCN: CS06963 do Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện D cấp ngày 08/08/2022 (tên chủ sdụng: Trần
Đức L2) và thu hồi Giấy chng nhn quyn s dụng đất quyền shữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất s C0 0581157, số o s cp GCN s CS01936 do
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện D cp ngày 15/8/2018 (tên chủ sử
dụng: Trần Thanh T) đgiải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
bà H đối với diện tích 7.079,4m
2
thuộc một phần thửa đất s 64, tờ bản đồ số 41,
tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ được công nhận theo yêu cầu khởi kiện nêu trên.
2. Buộc Trần Thanh T phải trả cho H số tiền 100.000.000 đồng
(một trăm triệu đồng) và lãi suất chậm trả từ tháng 09 năm 2018 cho đến khi tòa
xét xử 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng). Đây số tiền T còn thiếu
khi nhận chuyển nhượng của H một phần đất trong số 13.366m
2
thuộc thửa
đất s 64, tờ bản đồ số 41, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương.
3. Yêu cu Tòa tuyên hợp đồng mua bán tài sn bán đấu giá ngày ….
tháng ….. năm 2022 (không ghi ngày tháng) được Văn phòng C, tỉnh Bình
Dương chứng nhận ngày 09/6/2022, số công chứng 013103; và tha thun/biên
bản bàn giao tài sản trúng đấu giá ngày 16/01/2022 giữa Ngân hàng Thương mại
Cổ phần H5 ông Trần Đức L2; T2 thuận/biên bản đấu giá tài sản số
2212/2021/BBĐG ngày 22/12/2021 ca Công ty Đ1 chi nhánh M1, Công ty Đ1
và Ngân hàng Thương mại Cổ phần H5 với ông Trần Đức L2, ông Nguyễn
Xuân M đối với quyền sdụng đt din tích là: 13.366m
2
thuộc thửa đất s 64,
tờ bản đồ số 41, tọa lạc tại ấp Đ, Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương là vô hiu,
yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Đối với yêu cầu của ông L2 yêu cầu H phải gỡ bỏ áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời đối với thửa đất s 64, tờ bản đồ số 41 bồi thường số tiền
800.000.000 đồng thì nguyên đơn không đồng ý vì yêu cầu này hoàn toàn không
có căn cứ.
- Tại biên bản lấy lời khai ngày 13/01/20221, quá trình tố tụng tại
phiên tòa, bị đơn bà T trình bày:
Vào ngày 02/4/2018 T H cùng nhau hùn tiền để nhận chuyển
nhượng phần đất 13.419m
2
, thửa đất số 64, tbản đồ số 41, phần đất tọa lạc tại
ấp Đ, Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương, phần đất này bà H mua của Nguyễn
Thị H1 với giá là 1.600.000.000 đồng. Bà H đã đứng ra đặt cọc cho bà H1. Ngày
10/8/2018 bà T có nhận chuyển nhượng lại từ bà H ½ diện tích thửa đất nêu trên
với giá 800.000.000 đồng, T đã trả được cho H số tiền 700.000.000
đồng, số tiền còn lại 100.000.000 đồng. Do cần tiền làm ăn nênT có xin bà H
cho bà T đứng tên cả thửa đất nêu trên để đi thế chấp vay tiền ngân hàng. Do tin
tường và là hàng xóm với nhau nên bà H đã đồng ý để bà T hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trực tiếp với H1. Việc thỏa thuận này giữa H
T lập biên bản vào ngày 10/8/2018 chồng T ông Đặng Quang
6
V. Sau đó T được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO
0581157, số vào sổ CS 01936 vào ngày 15/8/2018. Sau khi nhận chuyển nhượng
đất thì T quản lý, sử dụng ½ diện tích thửa đất; bà H quản lý, sử dụng ½ diện
tích đất. Sau đó, bà T đã vay tiền tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5 và thế
chấp thửa đất nêu trên để đảm bảo số tiền vay 3.370.000.000 đồng. Do hoàn
cảnh khó khăn làm ăn thua lỗ nên bà T vi phạm nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng,
Ngân hàng đã thanh hợp đồng đã bán đấu giá tài sản quyền sử dụng đất
nêu trên thông qua Công ty Đ1 chi nhánh M1, người trúng đấu giá Trần Đức
L2. Việc Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5 bán đấu giá phần đất này không
thông báo với T nên làm ảnh hưởng đến quyền lợi của T. Nay trước yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bà T có ý kiến như sau:
- Trần Thanh T đồng ý trả cho H số tiền 100.000.000 đồng (một
trăm triệu đồng) lãi suất từ tháng 09 năm 2018 cho đến khi tòa xét xử
60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng).
- T đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu công nhn
phần đt din tích đt là 7.079,4m
2
thuộc một phần thửa đất s 64, tờ bản đồ
số 41, tọa lạc tại ấp Đ, Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương thuộc quyền sử dụng
của Nguyễn Thị H kiến nghị Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B, Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện D, tỉnh Bình Dương thu hồi Giy
chng nhn quyn s dụng đất quyền shữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất số DG801723, số o s cp GCN: CS06963 do Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai huyện D cấp ngày 08/08/2022 (tên chủ sử dụng: Trần Đức L2) và thu
hồi Giấy chng nhn quyn s dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất s C0 0581157, số o s cp GCN s CS01936 do Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai huyện D cp ngày 15/8/2018 (tên chủ sử dụng: Trần
Thanh T) đgiải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho H đối
với diện tích 7.079,4m
2
thuộc một phần thửa đất s 64, tờ bản đồ số 41, tọa lạc
tại ấp Đ, xã Đ
- T đồng ý tuyên hợp đồng mua bán tài sn bán đấu giá ngày ….
tháng ….. năm 2022 (không ghi ngày tháng) được Văn phòng C, tỉnh Bình
Dương chứng nhận ngày 09/6/2022, số công chứng 013103; và tha thun/biên
bản bàn giao tài sản trúng đấu giá ngày 16/01/2022 giữa Ngân hàng Thương mại
Cổ phần H5 ông Trần Đức L2; T2 thuận/biên bản đấu giá tài sản số
2212/2021/BBĐG ngày 22/12/2021 ca Công ty Đ1 chi nhánh M1, Công ty Đ1
và Ngân hàng Thương mại Cổ phần H5 với ông Trần Đức L2, ông Nguyễn
Xuân M đối với quyền sdụng đt din tích là: 13.366m
2
thuộc thửa đất s 64,
tờ bản đồ số 41, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương là vô hiu.
- Tại đơn khởi kiện độc lập ngày 10/3/2023, quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông L2 trình bày:
Ông L2 người mua đất hợp pháp tviệc bán đấu giá, hiện ông L2 đã
được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi ông L2 được nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất thì ông L2 đã chuyển nhượng lại
7
cho bà Trần Thị Huyền T1 với giá là 10.000.000.0000 đồng (mười tỷ đồng), ông
L2 đã nhận đặt cọc của T1 số tiền T1 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng)
và cam kết sẽ thực hiện việc công chứng chứng thực hợp đồng vào ngày
06/03/2023 nhưng do thửa đất nêu trên bị bà H ngăn chặn nên không thể chuyển
nhượng được cho T1 nên ông L2 phải trả lại tiền cọc 2.000.000.000 đồng
(hai tỷ đồng) phạt cọc cho T1 với số tiền 800.000.000 đồng (tám trăm
triệu đồng). Nay trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì ông L2 ý kiến
như sau:
Ông L2 không đồng ý công nhận phần đất din tích đt là 7.079,4m
2
thuộc một phần thửa đất s 64, tờ bản đồ số 41, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện D,
tỉnh Bình Dương thuộc quyền sử dụng của bà Nguyễn Thị H kiến nghị Sở
Tài nguyên Môi trường tỉnh B, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện
D, tỉnh Bình Dương thu hồi Giấy chng nhn quyn s dụng đất quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất s DG801723, số o s cp GCN:
CS06963 do Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện D cấp ngày
08/08/2022 (tên chủ sử dụng: Trần Đức L2) và thu hồi Giấy chng nhn quyn
s dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất s C0 0581157,
số vào s cp GCN s CS01936 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện
D cp ngày 15/8/2018 (tên chủ sử dụng: Trần Thanh T) để giải quyết cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho H đối với diện tích 7.079,4m
2
thuộc một
phần thửa đất s 64, tờ bản đồ số 41, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ.
Ông L2 không đồng ý tuyên hợp đồng mua bán tài sn bán đấu giá ngày
…. tháng ….. năm 2022 (không ghi ngày tháng) được Văn phòng C, tỉnh Bình
Dương chứng nhận ngày 09/6/2022, số công chứng 013103; và tha thun/biên
bản bàn giao tài sản thi hành án trúng đu giá ngày 16/01/2022 giữa Ngân hàng
Thương mại Cổ phần H5 ông Trần Đức L2; T2 thuận/biên bản đấu gtài
sản số 2212/2021/BBĐG ngày 22/12/2021 ca ng ty Đ1 chi nhánh M1, Công
ty Đ1 và Ngân hàng Thương mại Cổ phần H5 với ông Trần Đức L2, ông
Nguyễn Xuân M đi với quyền sử dụng đất din tích là: 13.366m
2
thuộc thửa
đất s 64, tbản đồ số 41, tọa lạc tại ấp Đ, Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương là
vô hiu.
Trần Thanh T phải trả cho H số tiền 100.000.000 đồng (một trăm
triệu đồng) lãi suất 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng) thì ông L2 không
có ý kiến gì H và bà T tự giải quyết với nhau.
Ông L2 yêu cầu bà H phải gỡ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
đối với thửa đất số thửa đt s 64, tờ bản đồ số 41, tọa lạc tại ấp Đ, Đ, huyện
D, tỉnh Bình Dương.
Tại phiên tòa, ông L2 rút lại yêu cầu khởi kiện độc lập về việc yêu cầu
bà H bồi thường số tiền 800.000.000 đồng (tám trăm triệu đồng).
- Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt ngày 21/4/2024, người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông V trình bày: Thống nhất với ý kiến của bà T.
8
- Tại bản tự khai ngày 23/8/2024, quá trình tố tụng tại phiên tòa,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà T1 trình bày:
T1 có nhận chuyển nhượng thửa đất số 64, tờ bản đồ số 41 từ ông L2
với giá trị 10.000.000.000 đồng (mười tỷ đồng), T1 đã đặt cọc cho ông L2
được số tiền 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng), khi đang chờ ông L2 làm thủ tục
để hợp đồng chuyển nhượng thì phần đất này bị ngăn chặn. Việc mua bán
giữa T1 với ông L2 hiện đã tthương lượng với nhau, nên nay T1 không
liên quan đến vụ việc tranh chấp. Đối với vụ án này thì T1 ý kiến
thống nhất với ý kiến của ông L2.
- Tại biên bản lấy lời khai ngày 28/9/2022 người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là Công ty Đ1 có ý kiến:
Trình tự thủ tục đấu giá đối với phần đất thuộc thửa đất số 64, tờ bản đồ
41 được thực hiện đúng quy định pháp luật. Theo luật đấu giá thì khi tổ chức
đấu giá tài sản thì công ty Đ1 không thông báo cho người đúng tên tài sản biết,
công ty đấu giá thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nay với
yêu cầu khởi kiện của H thì Công ty đấu giá đề nghị Tòa án giải quyết theo
quy định pháp luật.
- Tại bản tự khai ngày 20/12/2022 tại phiên tòa người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng TMCP H5 trình bày:
Bà T có vay của ngân hàng TMCP H5 chi nhánh B số tiền 3.370.000.000
đồng (ba tỷ ba trăm bảy mươi triệu đồng), thời hạn vay 300 tháng, mục đích
vay là đắp 01 phần chi phí mua bất động sản của thửa đất số 64, tờ bản đồ số
41, phần đất tọa lạc tại ấp Đ, Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương theo Hợp đồng
vay vốn số 79/2018/HĐCV ngày 24/8/2018. Để đảm bảo số tiền vay thì T
ông V đã với Ngân hàng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
79/2018/HĐTC ngày 24/8/2018, tài sản thế chấp quyền sử dụng đất tại Thửa
đất số 64, tờ bản đồ số 41, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 581157,
số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CS 01936 do Văn phòng đăng
đất đai huyện D cấp ngày 15/8/2018 cho Trần Thanh T. Việc thế chấp tài
sản nêu trên đã được đăng giao dịch bảo đảm thực hiện đúng quy định pháp
luật. Tuy nhiên, bà T đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền cho Ngân hàng, Ngân hàng đã
nhiều lần yêu cầu T thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng T vẫn không thực
hiện. Ngày 15/10/2020 dưới sự chứng kiến của đại diện Ủy ban nhân dân Đ,
Ngân hàng TMCP H5 đã thu giữ tài sản thế chấp nêu trên theo đúng quy định tại
Hợp đồng thế chấp theo quy định pháp luật để xử thu hồi nợ. Nay với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn thì Ngân hàng không đồng ý.
- Tại Công văn số 194/VPCCTTV ngày 18/6/2024 người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là Văn phòng C có ý kiến:
Việc công chứng chứng thực hợp đồng mua bán tài sản đấu giá số công
chứng 013103, quyển số 05/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/6/2022 giữa
Ngân hàng Thương mại cổ phần H5 ông Trần Đức L2 đúng trình tự pháp
luật, đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của luật công chứng và các văn bản
9
pháp luật khác có liên quan. Trình tự, thủ tục công chứng tuân thủ theo quy định
Điều 40, 41 Luật Công chứng 2014. Sau khi nghe Công chứng viên giải thích,
các bên đã hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình, ý nghĩa và hậu
quả pháp của việc công chứng. Trước khi ký, điểm chỉ, đóng dấu vào hợp
đồng, các bên nêu trên đã tự đọc lại cùng đồng ý toàn bộ nội dung của hợp
đồng.
Tại Bản án dân sự thẩm số 175/2024/DS-ST ngày 18/9/2024, Tòa án
nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương (nay Tòa án nhân dân khu vực 18-thành
phố Hồ Chí Minh) đã quyết định:
1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Trần Đức L2 đối với nguyên đơn bà Nguyễn Thị H về việc “tranh
chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của số tiền 800.000.000 đồng (tám
trăm triệu đồng).
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị H đối với bị đơn
Trần Thanh T về việc “tranh chấp tài sản chung”.
- Buộc Trần Thanh T phải có nghĩa vụ thanh toán cho Nguyễn Thị
H số tiền 4.327.640.000 đồng (bốn tỷ ba trăm hai mươi bảy triệu sáu trăm bốn
mươi ngàn đồng).
3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị H đối với bị đơn
Trần Thanh T về việc “tranh chấp đòi tài sản”:
- Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn bà Trần Thanh T trả cho nguyên đơn
Nguyễn Thị H số tiền 160.000.000 đồng (một trăm sáu mươi triệu đồng).
4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị H đối
vi b đơn là Công ty Đ1Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5 về việc “tranh
chấp yêu cầu tuyên bố kết quả đấu giá tài sản là vô hiệu”.
- Tuyên Hợp đồng mua bán tài sn bán đấu giá” ngày …. tháng …..
năm 2022 giữa Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5 với ông Trần Đức L2 do
Văn phòng C chứng thực vào ngày 29/6/2022, số công chứng 013103, quyển số
05/2022 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu.
- Tuyên “Biên bản bàn giao tài sản trúng đấu giá” ngày 18/01/2022 giữa
Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5 và ông Trần Đức L2 là vô hiệu;
- Tuyên “Biên bản đấu giá tài sản số 2212/2021/BBĐG” ngày
22/12/2021 của Công ty Đ1 là vô hiu.
- Buộc Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5 phải có nghĩa vụ trả lại cho
Công ty đầu giá hợp danh Thành A số tiền 3.347.400.000 đồng (ba tỷ ba trăm
bốn mươi bảy triệu bốn trăm ngàn đồng) .
- Buộc Công ty Đ1 trả lại ông Trần Đức L2 số tiền 3.347.400.000 đồng
(ba tỷ ba trăm bốn mươi bảy triệu bốn trăm ngàn đồng)
10
- Buộc Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5 bồi thường cho ông Trần
Đức L2 số tiền 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng).
- Buộc Công ty Đ1 bồi thường cho ông Trần Đức L2 số tiền
2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng).
- Kiến nghị s tài Nguyên Môi Trường tỉnh B thu hồi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số DG 801723, số vào sổ cấp giấy chứng nhận QSD đất
CS 06963 vào ngày 08/8/2022 cho ông Trần Đức L2.
Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5, Công ty Đ1 cùng với Trần
Thanh T phải nghĩa vliên hệ với quan thẩm quyền để được cấp lại
giấy chứng nhận quyền sdụng đất thuộc thửa đất số 64, tờ bản đồ số 41, phần
đất tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương theo quy định pháp luật.
5. Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
12/2022/QĐ-BPKCTT ngày 22 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện
D, tỉnh Bình Dương cho đến khi Quyết định khác hiệu lực pháp luật thay
thế.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo
của các đương sự.
Ngày 23/9/2024, Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5 kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm.
Ngày 16/12/2024, Công ty Đ1 đơn kháng cáo toàn bộ bản án, đề nghị
cấp phúc thẩm tuyên huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đồng
thời nêu ý kiến: H đồng ý mua lại phần đất của T để T điều kiện
thực hiện nghĩa vụ của mình đối với khoản nợ phải trả cho Ngân hàng khi xử
đấu giá tài sản 3.347.400.000 đồng số tiền gốc, lãi phát sinh còn lại
106.909.000 đồng (tổng cộng: 3.454.309.000 đồng), để Ngân hàng thực hiện
được nghĩa vụ hoàn trả tiền cho ông Trần Đức L2 đã nộp khi trúng đấu giá cũng
như trả phần tiền cho Công ty Đ1 khi xử hậu quả về kết quả đấu giá bị tuyên
bố hiệu. Bị đơn T đồng ý với yêu cầu khởi kiện của H, đồng ý chuyển
nhượng phần thuộc sở hữu của T cho H theo kết quả định giá của Ngân
hàng. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần
H5, Công ty Đ1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Quá trình thu giữ tài sản của Ngân hàng H5 đối với tài sản thế chấp
thửa đất số 64, tờ bản đồ số 41, giấy chứng nhận quyền sdụng đất số CO
581157, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CS 01936 do Văn
phòng đăng đất đai huyện D cấp ngày 15/8/2018 cho Trần Thanh T đến
quá trình đấu giá tài sản của Công ty Đ1 là không đúng trình tự, thủ tục. Bà T
ông V người tài sản nhưng không biết việc Ngân hàng thu giữ tài sản để
đấu giá, việc làm của Ngân hàng công ty Đ1 là vi phạm pháp luật. Hơn nữa,
11
thửa đất nêu trên đang được Tòa án thụ giải quyết tranh chấp giữa T
H nhưng vẫn bị Ngân hàng thu giữ vẫn bị Công ty Đ1 đem tài sản bán đấu
giá. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoàn toàn căn cứ, đề nghị
Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên tòa phúc thẩm,
H đồng ý mua lại phần đất thuộc sở hữu của T theo giá do Ngân hàng đã
xác định khi đưa tài sản ra đấu gT đồng ý nên đề nghị Hội đồng xét xử
ghi nhận sự thỏa thuận giữa nguyên đơn Nguyễn Thị H với bị đơn Trần
Thanh T.
Đối với yêu cầu độc lập của ông L2 thì tại phiên tòa ông L2 đã rút yêu
cầu khởi kiện độc lập nên Tòa án đình chỉ theo quy định. Tuy nhiên, quá trình
xét xử thẩm ông Trần Đức L2 không yêu cầu bồi thường thiệt hại trong
trường hợp Tòa án tuyên Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá hiệu nhưng Tòa
án cấp thẩm lại buộc Ngân hàng Công ty Đ1 phải bồi thường thiệt hại cho
ông L2 giải quyết vượt quá phạm vi và yêu cầu khởi kiện, yêu cầu độc lập của
đương sự. Hơn nữa, căn cứ hồ đấu gthì ông L2 cũng sai phạm nghiêm
trọng về trình tự, thủ tục tham gia đấu giá như: hồ đấu giá dấu hiệu làm
khống, không hợp lệ nên xem như ông L2 đều lỗi ngang nhau với Ngân hàng
Công ty Đ1 dẫn đến hợp đồng hiệu. Do vậy, thiệt hại xảy ra họ phải tự
chịu trách nhiệm như nhau, tương ứng với lỗi của mình theo quy định tại Điều
131 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của H thì bị đơn
T phải chịu án phí tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà H phải chịu án phí dân
sự sơ thẩm có giá ngạch 112.327.640 đồng là không đúng.
Yêu cầu khởi kiện của H được Tòa án chấp nhận, nên Tòa án cấp
thẩm tiếp tục duy t biện pháp khẩn cấp tạm thời s 12/2022/QĐ-BPKCTT
ngày 22/12/2022 nhằm đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự
có căn cứ.
Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng
lại không tuyên xử lý, giải tỏa đối với số tiền nộp quỹ bảo đảm 850.000.000
đồng của H theo quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số
12/2022/QĐ-BPBĐ ngày 22/11/2022 (BL112) ngay khi bản án hiệu lực
chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn khi yêu cầu khởi kiện của họ
đã được Tòa án chấp nhận.
Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giải tỏa đối với s
tiền ký quỹ của bà H khi tuyên án để phù hợp với quy định tố tụng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý
kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng tham gia tố tụng tại Tòa
án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Việc T vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng Thương
Mại Cổ Phần H5 được quyền thu giữ tài sản đảm bảo của T bán đấu giá đ
12
thu hồi nợ. Tuy nhiên, quá trình thu giữ tài sản Ngân hàng, đơn vị t chức đu
giá không tiến hành định giá tài sản trên đất cây cao su không đưa vào để
bán đấu giá làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của người tài sản
thế chấp và của bà H.
Từ những phân tích trên, nhận thấy, Ngân hàng Công ty Đ1 đã vi
phạm trình tự, thủ tục trong quá trình thu giữ tài sản đảm bảo vi phạm trình
tự, thủ tục đấu giá tài sản nên Tòa án cấp thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của bà H về việc tuyên vô hiệu Hợp đồng nêu trên là có căn cứ.
Đối với ý kiến của T đồng ý trả cho H số tiền còn thiếu
130.000.000 đồng sự tự nguyện nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Tại
phiên tòa ông L2 rút yêu cầu khởi kiện độc lập về việc yêu cầu bà H bồi thường
số tiền 800.000.000 đồng tnguyện nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ
theo quy định. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 điều 308 Bộ luật
Tố tụng dân sự giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các
đương sự, Luật sư và ý kiến của Kiểm sát viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Thương Mại Cổ
Phần H5 và Công ty Đ1 kháng cáo trong hạn luật định, đơn kháng cáo nội
dung hình thức phù hợp với quy định của pháp luật nên đủ điều kiện để thụ lý và
xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C;
ông Đặng Quang V, Trần Thị Huyền T1 vắng mặt đơn yêu cầu giải
quyết vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 296
của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Nội dung vụ án: Xét kháng cáo của bị đơn Công ty Đ1 và Ngân Hàng
Thương Mại Cổ Phần H5, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Về phạm vi khởi kiện:
Tại đơn khởi kiện và các đơn khởi kiện bổ sung, nguyên đơn Nguyễn
Thị H chỉ yêu cầu Toà án công nhận phần đất din tích đất là 7.079,4m
2
thuộc một phần thửa đất s 64, tờ bản đồ số 41, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện D,
tỉnh Bình Dương thuộc quyền sử dụng của Nguyễn Thị H, không yêu cầu
về tài sản trên đất, tuy nhiên tại phần Quyết định của bản án sơ thẩm lại buộc bà
Trần Thanh T phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị H số tiền
4.327.640.000 đồng gồm giá trị quyền sử dụng đất có diện tích 7.079,4m
2
giá
trị 320 cây cao su trên đất vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện của đương s
theo Điều 5 của BLTTDS năm 2015.
13
Ngoài ra, tại “Giấy mua bán đất thoả thuận cam kết” ngày 10/8/2018
do Trần Thanh T và ông Đặng Quang V cam kết với H nội dung
“..Tôi Trần Thanh T được đứng tên trên giấy tờ nhưng miếng đất đó là của bà H
một nửa (thửa đất diện tích 13.419m
2
)…”. Như vậy, H chỉ sở hữu ½ diện
tích đất trên, tương đương 6.709,6m
2
nhưng Toà án cấp thẩm lại chấp nhận
yêu cầu của H buộc T thanh toán giá trị của phần đt din tích đt là
7.079,4m
2
là không đúng thoả thuận giữa hai bên.
[2.2] Về xác định chứng cứ:
Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào những tài liệu do H cung cấp gồm:
“Giấy đặt cọc sang nhượng đất” ngày 20/4/2018 giữa Nguyễn Thị H1
Trần Thị H3; “Giấy mua bán đất thoả thuận cam kết” ngày 10/8/2018 do bà
Trần Thanh T ông Đặng Quang V và “Giấy hùn mua đất” ngày 01/8/2020
do T để nhận định “phần đất diện tích 13.366m
2
thuộc thuộc đất số 64,
tờ bản đồ số 41, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 581157 do Sở Tài
Nguyên Môi Trường tỉnh B cấp ngày 15/8/2018 tài sản chung của H3
và bà Tđể chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; tuy nhiên, các tài liệu
này đều bản phô tô, Toà án cấp thẩm không yêu cầu nguyên đơn nộp bản
chính hoặc đối chiếu bản chính vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo
Điều 95, 96 của Bộ luật Ttụng dân sự năm 2015 về thu thập, đánh giá chứng
cứ.
[2.3] Về việc đưa người tham gia tố tụng:
Tại đơn yêu cầu độc lập, ông Trần Đức L2 yêu cầu nguyên đơn H3
bồi thường số tiền 200.000.000 đồng do ông L2 đã phải bồi thường cho người
mua y cao su trên đất 600.000.000 đồng bồi thường tiền phạt cọc. Kèm
theo đơn, ông L2 có cung cấp “Hợp đồng mua bán vườn cây cao su thanh lý” ký
ngày 01/02/2023 giữa Trần Thị Huyền T1 (người đại diện của ông L2)
Nguyễn Thị H4. Tại bản tự khai ngày 23/8/2024 (BL 289) T1 xác định đã
nhận lại tiền bồi thường thiệt hại 800.000.000 đồng cung cấp “Hợp đồng
đặt cọc” ngày 06/11/2022 giữa T1 ông L2. Toà án không lấy lời khai để
làm T1 nhận số tiền 800.000.000 đồng có bao gồm tiền bồi thường cho
H4 chưa và không triệu tập bà H4 để làm rõ người nào đã bồi thường tiền cho bà
H4 khi xem xét yêu cầu độc lập của ông L2 xác minh thu thập đầy đủ tài liệu
chứng cứ đưa thiếu người tham gia tố tụng, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng, không đúng quy định tại khoản 4 Điều 68, Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2.4] Về xác định nghĩa vụ chịu án phí:
Toà án cấp thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị
đơn T phải nghĩa vụ thanh toán cho H3 số tiền 4.327.640.000 đồng
ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn T trả cho nguyên đơn H3 số tiền
160.000.000 đồng. Căn cứ Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà T phải chịu án phí, tuy
14
nhiên Tòa cấp thẩm lại xử buộc H3 phải chịu 112.327.640 đồng không
đúng quy định của pháp luật.
[3] Từ những phân tích nêu trên nhận thấy Bản án thẩm vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của
đương sự cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, vì vậy kháng cáo của
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5
Công ty Đ1 là có cơ sở chấp nhận.
[4] Ý kiến của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh tại phiên tòa về việc đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm là chưa phù hợp.
[5] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ tại cấp phúc thẩm: Ông Trần
Đức L2 phải chịu 5.000.000 đồng (đã thực hiện xong).
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do hủy bản án thẩm nên người
kháng cáo không phải chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 148, khoản 3 Điều 308 Điều 313 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 3 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy
định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ pTòa
án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5Công ty Đ1.
2. Hủy toàn bộ Bản án dân sự thẩm số 175/2024/DS-ST ngày
18/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương (nay Tòa án nhân
dân Khu vực 18 - Thành phố Hồ Chí Minh) .
Giao hồ vụ án về cho Tòa án nhân dân Khu vực 18 Thành phố Hồ
Chí Minh giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
3. Vchi phí xem xét, thẩm định tại chỗ tại cấp phúc thẩm: Ông Trần
Đức L2 phải chịu 5.000.000 đồng (đã thực hiện xong).
4. Về án phí dân sự phúc thẩm:
4.1. Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5 không phải chịu. Hoàn trả cho
Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần H5 số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã
nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000571 ngày 08/10/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương (nay Phòng Thi
hành án dân sự Khu vực 18 – Thành phố Hồ Chí Minh).
15
4.2. Công ty Đ1 không phải chịu. Hoàn trả cho Công ty Đ1 số tiền
300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0007269 ngày 17/01/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D,
tỉnh Bình Dương (nay là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 18 Thành phố Hồ
Chí Minh).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND Thành phố Hồ Chí Minh;
- TAND Khu vực 18 – TP.HCM;
- Phòng THADS Khu vực 18 – TP.HCM;
- Các đương sự (để thi hành);
- Lưu: Hồ sơ, Tổ hành chính tư pháp,
Tòa DS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Thắm
Tải về
Bản án số 843/2025/DS-PT Bản án số 843/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 843/2025/DS-PT Bản án số 843/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất