Bản án số 839/2023/KDTM-PT ngày 15/08/2023 của TAND TP. Hồ Chí Minh về các tranh chấp trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 839/2023/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 839/2023/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 839/2023/KDTM-PT ngày 15/08/2023 của TAND TP. Hồ Chí Minh về các tranh chấp trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Các tranh chấp trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hồ Chí Minh |
Số hiệu: | 839/2023/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/08/2023 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán tiền nợ theo hợp đông tín dụng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 839/2023/
KDTM-PT
Ngày 15 tháng 8 năm 2023
V/v: “
Tranh chấp hợp đồng tín
dụng và bồi thường thiệt hại”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Hoàng Thị Bích Thảo
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thu Chinh
Ông Ngô Thanh Nhàn
- Thư ký phiên tòa: Bà Võ Thị Thu Hà – Thư ký Tòa án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: Ông Trần
Hồng Long – Kiểm sát viên.
Ngày 15/8/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét
xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại phúc thẩm thụ lý số
53/2023/TLPT-KDTM ngày 06/4/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng
và bồi thường thiệt hại”.
Do Bản án sơ thẩm số 05/2023/KDTM-ST ngày 11/01/2023 của Tòa án
nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2308/2023/QĐ-PT ngày
29 tháng 6 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 8846/2023/QĐ-PT ngày
19/7/2023 giữa:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S
Địa chỉ trụ sở: 266-268 Nam Kỳ Khởi N, Phường A, Quận B, Thành phố
H.
Đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D- Tổng Giám Đốc
Đại diện theo ủy quyền:
- Ông Phạm Trọng H, sinh năm 1980; Địa chỉ 113 Hồ Văn H, Phường A,
quận P, TP. H; (Giấy ủy quyền số 240/2023/GUQ-CNQ12 ngày 11/7/2023), (có
mặt).
2
- Ông Kiều Minh D, sinh năm 1982; Địa chỉ 4/14 ấp 1 xã T, huyện H,
Thành phố H. (Giấy ủy quyền số 101/2023/GUQ-PGDCC ngày 04/7/2023), (có
mặt).
- Ông Trần Quý B, sinh năm 1973; Địa chỉ: 83/10 Hòa H, Phường A,
Quận B, Tp. H (Quyết định ủy quyền số 3272/2022/QĐ-PL ngày 26/12/2022),
(có mặt).
- Ông Nguyễn Trọng N, sinh năm 1992; địa chỉ: Ấp Bình Q, huyện C,
tỉnh T; (Giấy ủy quyền số 204/2023/GUQ-CNQ12 ngày 11/7/2023 (có mặt).
2. Bị đơn:
2.1. Công ty TNHH MTV H.
Địa chỉ: 267/4B Khu phố A, phường T, Quận B, Thành phố H.
Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm H-Giám đốc (có mặt).
2.2. Ông Phạm H, sinh năm 1979 (có mặt).
Địa chỉ: 267/4B Khu phố A, phường T, Quận B, Thành phố H.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Trần Thị Kim H, sinh năm 1956 (vắng mặt).
3.2. Bà Phạm Hiến L, sinh năm 1988 (vắng mặt).
3.3. Trẻ Nguyễn Cát Mộc Đ, sinh năm 2020
Đại diện theo pháp luật: Bà Phạm Hiến L, sinh năm 1988 (vắng mặt).
Địa chỉ: 267/4B Khu phố A, phường T, Quận B, Thành phố H.
4. Người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng: Ông Lê Dương T, sinh năm 1983
Địa chỉ: C141 Khu phố A, phường T, Quận C, Tp. H. (xin vắng mặt).
* Người kháng cáo: Bị đơn là Công ty TNHH MTV H
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tóm tắt nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm như sau:
Theo đơn khởi kiện, đơn phản tố cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ
và lời trình bày của các đương sự:
* Ngân hàng TMCP S (sau đây gọi tắt là Ngân hàng S) do người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Công ty TNHH MTV H có ký với Ngân hàng S Hợp đồng cấp tín dụng
hạn mức số LD1807300512 ngày 14/3/2018; Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp
đồng tín dụng số LD1807300512 - 01 ngày 27/3/2019 và Thỏa thuận sửa đổi, bổ
sung hợp đồng tín dụng số LD1807300512 - 02 ngày 17/3/2020. Hạn mức tín
dụng 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng. Mục đích: Bổ sung vốn kinh doanh. Thời hạn
hiệu lực của hạn mức tín dụng: 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng. Lãi suất được
3
quy định trong từng văn kiện tín dụng cụ thể trên cơ sở năm có 365 ngày Ngân
hàng S có quyền quyết định điều chỉnh lãi suất cấp tín dụng trong hạn được quy
định trong văn kiện tín dụng cụ thể và thông báo cho bên được cấp tín dụng.
Phương thức thanh toán: Lãi trả hàng tháng, gốc trả cuối kỳ theo từng giấy nhận
nợ.
Cá nhân ông Phạm H và Ngân hàng S đã ký Hợp đồng tín dụng số
201924889106 ngày 03/01/2020 vay số tiền 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng
tại Ngân hàng TMCP S – Chi nhánh Quận 12 – Phòng Giao dịch Chợ Cầu. Mục
đích sử dụng vốn: Bổ sung vốn kinh doanh – Phát triển kinh tế gia đình. Thời
hạn cấp tín dụng: 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng; Lãi suất cho vay được xác
định cho từng lần giải ngân theo thỏa thuận của các bên, phù hợp với quy định
của pháp luật và được ghi cụ thể trên từng giấy nhận nợ. Lãi suất cho vay của
toàn bộ các giấy nhận nợ sẽ do Ngân hàng S quyết định điều chỉnh hoặc không
điều chỉnh trong từng thời kỳ và phù hợp với quy định của ngân hàng nhà nước
về lãi suất cho vay. Phương thức thanh toán: Lãi trả hàng tháng, gốc trả cuối kỳ
theo từng giấy nhận nợ.
Để đảm bảo nợ vay, Công ty TNHH MTV H đã dùng tài sản tại thửa đất số
1530-51 Tờ bản đồ số 2A (Sơ đồ nền), địa chỉ: 267/4B Khu phố A, phường T,
Quận B, Thành phố H, thuộc sở hữu của ông Phạm H và bà Phạm Hiến L theo
Hợp đồng thế chấp số 66/2018/HĐTC/CNGV-PGDCC ngày 15/3/2018, số công
chứng 04755, quyển số 03 do Văn phòng Công chứng Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh chứng nhận ngày 15/3/2018. Đồng thời tài sản trên cũng được bảo đảm cho
các khoản vay sau:
+ Thẻ tín dụng của ông Phạm H: 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng theo
Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 10/4/2015 được ký kết giữa
Ngân hàng TMCP S – Chi nhánh Quận 12 – PGD C và ông Phạm H.
+ Thẻ tín dụng của bà Phạm Hiến L: 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng
theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 22/7/2014 được ký kết
giữa Ngân hàng TMCP S - Chi nhánh Quận A– PGD C và bà Phạm Hiến L.
- Khoản vay của ông Phạm H: 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng theo
Hợp đồng tín dụng số 201924889106 ngày 03/01/2020 được ký giữa Ngân hàng
TMCP S Chi nhánh Quận A – PGD C và ông Phạm H; Hợp đồng thế chấp tài
sản số 01/2020/HĐTC/CNQ12-PGDCC được ký kết giữa Ngân hàng TMCP S -
Chi nhánh Quận A – PGD Chợ Cầu và ông Phạm H, bà Phạm Hiến L.
Căn cứ Khoản 1.3 Điều 1 Phụ lục các điều khoản chung về cấp tín dụng
của Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức được dẫn chiếu nêu trên, hiện tại Công ty
TNHH MTV H đang có chất lượng tín dụng xấu (CICB nhóm 3) tại Ngân hàng
TMCP Q, Ngân hàng TMCP Đ Chi nhánh T và (CICB nhóm 2) tại Ngân hàng S
– Chi nhánh Quận A – PGD C.
Căn cứ điểm c, Khoản 2 Điều 6 của Hợp đồng thế chấp tài sản số
01/2020/HĐTC/CNQ12-PGDCC được dẫn chiếu nêu trên.
Căn cứ các Thông báo ngày 07/10/2020, ngày 13/10/2020, ngày
4
16/11/2020 và các biên bản làm việc với Công ty TNHH MTV H, ông Phạm H
và bà Phạm Hiến L về việc thu hồi nợ trước hạn và qua nhiều lần làm việc, nhắc
nhở nhưng Công ty H, ông Phạm H, bà Phạm Hiến L vẫn chưa thanh toán.
Tạm tính đến ngày 30/12/2022 số tiền Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa
án giải quyết buộc bị đơn trả như sau:
Đối với Công ty H yêu cầu trả số tiền tạm tính đến ngày 30/12/2022 là
1.899.662.343 (Một tỷ, tám trăm chín mươi chín triệu, sáu trăm sáu mươi hai
ngàn, ba trăm bốn mươi ba) đồng, trong đó: nợ gốc: 1.442.100.000 (Một tỷ, bốn
trăm bốn mươi hai triệu, một trăm ngàn) đồng; lãi quá hạn: 456.168.456 (Bốn
trăm năm mươi sáu triệu, một trăm sáu mươi tám ngàn, bốn trăm năm mươi sáu)
đồng; Lãi chậm trả là: 1.393.886 (Một triệu, ba trăm chín mươi ba ngàn, tám
trăm tám mươi sáu) đồng và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã thỏa thuận
từ ngày 31/12/2022 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.
Đối với cá nhân ông H theo Hợp đồng tín dụng số 201924889106 Ngân
hàng yêu cầu trả số tiền tạm tính đến ngày 30/12/2022 là 654.332.044 (Sáu trăm
năm mươi bốn triệu, ba trăm ba mươi hai ngàn, không trăm bốn mươi bốn)
đồng. Trong đó: nợ gốc: 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng; Lãi quá hạn:
153.604.109 (Một trăm năm mươi ba triệu, sáu trăm lẻ bốn ngàn, một trăm lẻ
chín) đồng; Lãi chậm trả: 727.934 (Bảy trăm hai mươi bảy ngàn, chín trăm ba
mươi bốn) đồng.
Thẻ tín dụng của ông H tạm tính đến ngày 27/12/2022 là 289.687.178
(Hai trăm tám mươi chín triệu, sáu trăm tám mươi bảy ngàn, một trăm bảy mươi
tám) đồng.
Đối với thẻ tín dụng của bà Hiến L tính đến ngày 03/01/2023: nợ gốc 0
đồng. Do hiện nay bà L không còn dư nợ tại thẻ tín dụng do đó Ngân hàng rút
yêu cầu khởi kiện đối với bà Phạm Hiến L.
Ngân hàng khởi kiện là do khách hàng thực hiện không đúng nghĩa vụ
trong hợp đồng, quá hạn của Ngân hàng khác. Quá hạn của Ngân hàng S 02 kỳ,
kỳ tháng 11 và 12 năm 2020 và quá hạn của Ngân hàng Đ và Quốc Tế, từ
31/3/2020 quá hạn tại Ngân hàng Q theo quy định Ngân hàng phải thu hồi nợ
trước hạn.
Buộc bị đơn phải thanh toán toàn bộ các chi phí tố tụng mà trước đó Ngân
hàng đã tạm ứng và thực hiện các thủ tục tố tụng bao gồm: Chi phí xem xét
thẩm định tại chỗ, chi phí đo vẽ là 23.608.510 (Hai mươi ba triệu, sáu trăm lẻ
tám ngàn, năm trăm mười) đồng.
Trường hợp xử lý tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ thì buộc bị đơn
tiếp tục thanh toán số tiền còn thiếu cho Ngân hàng.
* Công ty TNHH MTV H trình bày:
Công ty TNHH MTV H (sau đây gọi tắt là Công ty H) không đồng ý với
nội dung khởi kiện của nguyên đơn bởi các lý do sau đây:
5
Lý do Ngân hàng viện dẫn Công ty có nợ xấu, viện dẫn điều khoản trong
hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên Ngân hàng yêu cầu Công ty phải trả vào tháng 10
năm 2020 đó là thời điểm dịch bệnh xảy ra, viện dẫn điều luật để yêu cầu thu hồi
nợ trước hạn vì khi đó khoản nợ của Công ty không phải là khoản nợ đã quá hạn
thanh toán.
Sau khi dịch bệnh, Nhà nước có những chủ trương để hỗ trợ doanh nghiệp
bị khó khăn sau dịch bệnh như Thông tư 01 năm 2020 hướng dẫn các Ngân hàng
hỗ trợ cho các doanh nghiệp đi vay, cơ cấu nợ, Ngân hàng không làm đúng
Thông tư trong khi Thông tư còn hiệu lực.
Tòa án đã tiến hành thẩm định giá tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản
vay của Công ty thì theo giá trị của tài sản này Công ty H đủ dư trả nợ, vì Ngân
hàng đơn phương chấm dứt thực hiện việc cấp tín dụng làm công ty Công ty
không có tiền mua hàng hóa để chuẩn bị cho các hợp đồng, có những biên bản
làm việc với Ngân hàng Công ty đang có phương án kinh doanh rất khả thi,
Ngân hàng cần cơ cấu nợ nhưng lại kiên quyết việc đòi nợ đối với những doanh
nghiệp đang khó khăn sau dịch. Công ty đã chứng minh có khả năng sản xuất
khi cho cơ cấu nợ, Ngân hàng không xuất trình quy trình nào chứng minh Công
ty có rủi ro, các Ngân hàng phải báo cáo Ngân hàng nhà nước đối với các khoản
nợ có rủi ro, không có quy định nào nói Công ty có rủi ro. Công ty đã rất thiện
chí nhưng Ngân hàng không hỗ trợ, không cấp phát hành Chứng thư bảo lãnh để
Công ty có điều kiện trả nợ. Ngân hàng đã thu hồi và thực hiện một số biện pháp
như phong tỏa tài khoản nhưng đã có hợp đồng vay và hợp đồng thế chấp, Ngân
hàng xác định Công ty nợ đúng hay sai, tại sao lại phong tỏa trái phép hợp đồng
tín dụng và hợp đồng thế chấp, làm cho công ty không hoạt động được, phong
tỏa bất ngờ làm Công ty không thanh toán được cho đối tác. Công ty không
đồng tình vì không có cơ sở nào nói Công ty vi phạm. Ngân hàng không có
chứng minh rủi ro, sai lầm đó ảnh hưởng đến những sai lầm khác. Ngân hàng
thu hồi vốn chưa kể những cách thức xử lý Ngân hàng không làm đúng theo
trình tự thủ tục mà đưa ra công bố nợ xấu thu hồi nợ làm ảnh hưởng không nhỏ
đến Công ty H.
Đối với nội dung đơn phản tố, Công ty TNHH MTV H trình bày:
Ngân hàng thu hồi nợ trước hạn ảnh hưởng đến Công ty H trong quá trình
ký kết và thực hiện hợp đồng với đối tác. Theo hợp đồng tín dụng Công ty H
được cấp hạn mức tín dụng 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng, Công ty H đã sử dụng
1.800.000.000 (Một tỷ, tám trăm triệu) đồng còn 200.000.000 (Hai trăm triệu)
đồng, trong thời điểm tháng 8/2020 Công ty H có ký hợp đồng hơn
9.000.000.000 (Chín tỷ) đồng. Hợp đồng thỏa thuận chỉ cần có chứng thư bảo
lãnh của Ngân hàng nên Công ty H đã yêu cầu Ngân hàng S cấp chứng thư bảo
lãnh, những năm trước Ngân hàng S đã phát hành thư bảo lãnh nhưng lần này
Ngân hàng S từ chối. Chủ trương của nhà nước đề nghị cơ cấu lại nợ, Công ty H
hoàn toàn có điều kiện khả thi Công ty H đã nộp tiền ký quỹ 100% để phát hành
chứng thư bảo lãnh, nếu được Công ty H đã được ứng 1.900.000.000 (Một tỷ,
chín trăm triệu) đồng để cơ cấu nợ và có tiền hoạt động. Vì vậy Công ty H tiến
6
hành nhờ Ngân hàng khác nhưng vấn đề đặt ra là đối tác yêu cầu Vietcombank
làm đúng mẫu trước đó của Ngân hàng S mà mỗi Ngân hàng mẫu khác nhau nên
không được cấp. Vì sao Vietcombank sẵn sàng cho Công ty H đóng tiền vào và
phát hành thư bảo lãnh mà Ngân hàng Slại không cấp.
Vì vậy Công ty H mất hợp đồng, Công ty H yêu cầu Ngân hàng S phải bồi
thường thiệt hại vì để có được hai hợp đồng đó Công ty H đã chuẩn bị quá trình
lâu dài trước đó như khảo sát, chuẩn bị hồ sơ đấu thầu. Công ty H đã cung cấp
đầy đủ chứng cứ để chứng minh đủ năng lực thực hiện hợp đồng.
Trong giai đoạn này Công ty có ký hợp đồng bia C Việt Nam trị giá
903.320.000 đồng (Chín trăm lẻ ba triệu ba trăm hai mươi ngàn đồng chẵn)
nhưng không thực hiện được do Ngân hàng phong tỏa tài khoản của Công ty H
trước đó và Công ty H đã phải trả chi phí nhân viên, hợp đồng không thực hiện
được Công ty H đã mua hàng và các chi phí công tác đi lại đã tổn thất.
Việc đó dẫn đến Công ty H không thực hiện được các hợp đồng sau đó
nữa.
Công ty H đã xây dựng thương hiệu 15 năm, muốn làm lại phải xây dựng
thương hiệu từ đầu. Công ty H là thế mạnh với đối tác nước ngoài, Công ty H có
thương hiệu trong nước. Việc đình trệ của Ngân hàng S dẫn đến nợ xấu trên hệ
thống với các Ngân hàng khác và bị ảnh hưởng theo dẫn tới buộc xử lý các
khoản nợ khác nữa.
Xe Công ty H cũng phải bán để trả nợ thiệt hại kinh doanh xe ô tô.
Ngân hàng S cho Công ty H đầu tư trên trụ sở của Công ty H, công văn
của Sacombak gửi đến Tài nguyên & Môi trường và Quản lý đô thị đồng ý cho
nâng cấp căn nhà của ông H và bà Hiến L. Công ty H, ông H và bà Hiến L đã
gửi công văn xin phép sửa chữa, đầu tư trang thiết bị xây dựng nhưng tháng
10/2020 Ngân hàng S khóa tài khoản nên không xây dựng được.
Tổn thất nữa của Công ty H là mất hợp đồng trong 5 năm đối với toàn bộ
ngành sản xuất nước giải khát. Các Công ty Suntory P là sau khi vi phạm hợp
đồng thì phải 5 đến 10 năm mới chấp nhận cho Công ty H tham gia đấu thầu.
Công ty H yêu cầu Ngân hàng S bồi thường các thiệt hại nêu trên cụ thể
như sau:
Bồi thường thiệt hại Hợp đồng giữa Công ty H và Công ty TNHH nước
giải khát Suntory P Việt Nam là 3.500.000.000 (Ba tỷ, năm trăm triệu) đồng.
Trong đó cụ thể: Chi phí chuyên gia khảo sát, tư vấn đại tu là 580.000.000 (Năm
trăm tám mươi triệu) đồng; Chi phí công tác phí 450.000.000 (Bốn trăm năm
mươi triệu) đồng; Chi phí nhập hàng chuẩn bị sẵn 400.000.000 (Bốn trăm triệu)
đồng; Chi phí chuẩn bị đội lắp đặt 250.000.000 (Hai trăm năm mươi triệu) đồng;
Lợi nhuận sẽ nhận là 1.820.000.000 (Một tỷ, tám trăm hai mươi triệu) đồng.
Bồi thường thiệt hại Hợp đồng giữa Công ty H và Công ty bia C Việt
Nam là 425.000.000 (Bốn trăm hai mươi lăm triệu) đồng, trong đó: Hàng tồn tại
kho là 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng; Chi công tác phí là 75.000.000 (Bảy
7
mươi lăm triệu) đồng; Lợi nhuận đáng lẽ có là 150.000.000 (Một trăm năm
mươi triệu) đồng.
Bồi thường thiệt hại hư hao vật tư tồn kho là 2.500.000.000 (Hai tỷ, năm
trăm triệu) đồng.
Bồi thường tổn thất thương hiệu công ty ngành dây chuyền sản xuất rượu,
bia, nước giải khát xây dựng trong 10 năm từ năm 2010 đến năm 2020; Chi phí
quảng cáo, tài liệu dịch thuật, quản lý 18.000.000 (Mười tám triệu) đồng/tháng x
12 tháng là 216.000.000 (Hai trăm mười sáu triệu) đồng/năm x 10 năm =
2.160.000.000 (Hai tỷ, một trăm sáu mươi triệu) đồng.
Bồi thường tổn thất tinh thần 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng.
Bồi thường thiệt hại doanh thu ngành xe là 20.000.000 (Hai mươi triệu)
đồng/tháng x 05 xe = 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng/tháng = 1.200.000.000
(Một tỷ, hai trăm triệu) đồng/01 năm. Chi phí chiết khấu hao thanh lý xe: 03 xe
x 400.000.000 (Bốn trăm triệu) đồng/xe = 1.200.000.000 (Một tỷ, hai trăm triệu)
đồng. Tổng là 2.400.000.000 (Hai tỷ, bốn trăm triệu) đồng.
Bồi thường thiệt hại doanh thu từ việc cho thuê nhà 25.000.000 (Hai mươi lăm
triệu) đồng/một tháng x 12 tháng x 3 năm = 900.000.000 (Chín trăm triệu) đồng.
Bồi thường thiệt hại mất hợp đồng 05 năm ngành thiết bị (Công ty bị cho nợ
xấu, không thể vay vốn phục vụ kinh doanh ngành thiết bị trong 05 năm)
2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng/năm x 6 năm = 12.000.000.000 (Mười hai tỷ) đồng.
Tổng số tiền thiệt hại yêu cầu là 24.385.000.000 (Hai mươi bốn tỷ, ba
trăm tám mươi lăm triệu) đồng.
Theo quy định tại Điều 302 của Bộ luật dân sự năm 2015 về bồi thường
thiệt hại là có tổn thất thực tế xảy ra. Các hành vi của Ngân hàng gây ảnh hưởng
và thiệt hại cho Công ty H nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu phản
tố của Công ty H.
Về vấn đề khởi kiện của Ngân hàng yêu cầu Công ty H phải trả nợ trước
hạn là không đúng quy định và tinh thần của pháp luật. Nhà nước đã ban hành
rất nhiều văn bản nhằm mục đích cho các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi sau
dịch. Đặc biệt là vấn đề giảm lãi và gia nợ hạn. Ngân hàng chưa hề có một văn
bản nào nộp cho Tòa án về việc giảm lãi cho Công ty H. Công ty H đã nộp rất
nhiều thuế cho Nhà nước, tạo công ăn việc làm cho nhiều người, hàng tháng
đóng rất nhiều tiền lãi cho Ngân hàng. Nhà nước cấp tiền cho Ngân hàng nhưng
Ngân hàng lại không giảm lãi cho doanh nghiệp. Đề nghị Tòa án xem xét tiền lãi
mà Ngân hàng khởi kiện Công ty H vì Ngân hàng không hề giảm lãi theo quy
định của Nhà nước trong khi Công ty H rất nhiều gánh nặng. Giữa tháng
10/2020 Chính phủ yêu cầu giãn cách xã hội, rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh
tốt, Công ty H cũng vậy. Thời điểm này chính đại diện của Ngân hàng ban hành
văn bản cho Công ty H đồng ý cho xây dựng trụ sở để ổn định kinh doanh,
nhưng khi Công ty H đã chuẩn bị sẵn sàng, mua vật liệu để xây dựng lại trụ sở
thì Ngân hàng lại không đồng ý cấp chứng thư bảo lãnh cho Công ty H mà
8
không có bất kỳ một lý do gì. Ngân hàng S căn cứ vào khoản 1.3 của Hợp đồng
tín dụng để cho rằng Công ty H nợ xấu. Trong khi không có gì chứng minh
Công ty H vi phạm tại Ngân hàng S. Các Ngân hàng mà Công ty H vay vốn họ
vẫn tạo điều kiện cho Công ty H được ổn định và trả nợ dần dần, không hề kiện
Công ty H tại Tòa án. Công ty H không đồng ý việc Ngân hàng S căn cứ vào
Điều 9 của thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 về phân loại nợ, có
nhiều nhóm nợ. Đây là thông tư của Nhà nước, trong Thông tư có nêu rõ nợ
nghi ngờ là nhóm 4. Công ty H nợ của Ngân hàng khác chứ không phải nợ xấu
của Ngân hàng S. Do đó, khi bên Ngân hàng S không nêu rõ xác định bên Công
ty H thuộc nhóm nào là nợ nghi ngờ/nợ xấu thì có từ nhóm 3 đến nhóm 5 là
nhóm nợ nghi ngờ/nợ xấu, Công ty H sẽ hiểu là bên Công ty H sẽ được hưởng
thuộc nhóm 5 mới là nợ nghi ngờ/nợ xấu. Do đó Công ty H thuộc nhóm 3 chứ
không phải nhóm 5 tại Ngân hàng khác không thuộc trường hợp nhóm nợ nghi
ngờ/nợ xấu như Ngân hàng S khởi kiện Công ty H vì vậy không chấp nhận lập
luận của nguyên đơn cho rằng Công ty H thuộc trường hợp nợ xấu.
Tại Khoản 6 Điều 404 của Bộ luật dân sự năm 2015 cũng quy định rõ:
Các điều khoản trong Hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ với nhau,
sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng.
Do đó nguyên đơn không thể hiểu là Công ty H nợ xấu với Ngân hàng khác thì
sẽ là nợ xấu với nguyên đơn. Theo Điều 308 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy
định về tạm ngừng hợp đồng. Có quy định rõ trừ trường hợp miễn trách nhiệm
về tạm ngừng hợp đồng, một bên vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng, từ khi
Công ty H giao kết hợp đồng với Ngân hàng chưa hề vi phạm bất kỳ một thỏa
thuận nào.
Khoản nợ vay của Công ty H chưa tới hạn trả nợ nhưng Ngân hàng S đã
khởi kiện đòi trả trước hạn như vậy là sai, Công ty H không đồng ý.
Về vấn đề phong tỏa tài khoản:
Khi các bên ký hợp đồng tín dụng thì là hợp đồng mẫu do Ngân hàng S tự
soạn thảo. Nếu Ngân hàng thu hồi nợ trước hạn và muốn phong tỏa tài khoản thì
phải thông báo cho Công ty H biết. Ngân hàng cho rằng tài sản là tiền gửi của
Công ty H cũng là tài sản thế chấp do đó Ngân hàng được tự ý trừ tiền trong tài
khoản của Công ty H để thanh toán nợ của Công ty H là sai. Bởi vì tài sản đảm
bảo chỉ là bất động sản, tiền trong tài khoản của Công ty H sẽ không bị thu hồi
khi mà tài sản thế chấp chưa bị xử lý. Phải xử lý tài sản thế chấp trước. Ngân
hàng có tài liệu nào chứng minh Công ty H phá sản mà lại tự ý đi khởi kiện đòi
nợ trước hạn. Vấn đề phong tỏa tài khoản chỉ có Thẩm phán và Chấp hành viên
bên Thi hành án mới được phong tỏa, Ngân hàng không có quyền phong tỏa tài
khoản của Công ty H. Vì tiền trong tài khoản là tiền hợp pháp của Công ty H.
Ngày 26/8/2020 Ngân hàng cho phép Công ty H xây dựng sửa chữa lại trụ
sở của mình nhưng đến ngày 17/9/2020 thì không chấp nhận cấp chứng thư bảo
lãnh cho Công ty H. Ngày 07/10/2020 đơn phương chấm dứt hợp đồng vay tài
sản và thu hồi nợ trước hạn sau đó khởi kiện tại Tòa án. Ngày 02/12/2020 đã
chuyển khoản nợ của Công ty H sang nợ quá hạn, ngày 10/12/2020 khởi kiện
9
Công ty H tại Tòa án và tước quyền cấp vốn cho Công ty H. Từ ngày chấp thuận
cho Công ty H được sửa chữa trụ sở và 10 ngày sau thì không cấp chứng thư bảo
lãnh cho Công ty H, nếu Ngân hàng cho rằng Công ty H có nguy cơ nợ xấu thì
phải thông báo để không xây dựng. Khoản tiền Công ty H bị Ngân hàng phong
tỏa là trái pháp luật. Cụ thể các hành vi sau đây của Ngân hàng là không có căn
cứ và không hợp lý: Lẽ ra Ngân hàng phải áp dụng Khoản 2.2 Điều 2 của Hợp
đồng tín dụng LD1807300512 ngày 14/3/2018; Hành vi thu hồi nợ trước hạn;
Không giải ngân hết hạn mức tín dụng; Đơn phương phong tỏa tài khoản của
Công ty H; Không cấp chứng thư bảo lãnh. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và
áp dụng các văn bản sau đây để đảm bảo quyền lợi cho Công ty H: Thông tư 02;
Thông tư 01/2020 của Ngân hàng Nhà nước; Thông tư 14/2021 của Ngân hàng
Nhà nước; Thông tư 03/2021 của Ngân hàng nhà nước vì đây là những Thông tư
mà Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước yêu cầu thực hiện cho doanh nghiệp
trong thời gian dịch bệnh.
*Bị đơn ông Phạm H trình bày:
Ông không nhớ chính xác nên ông yêu cầu Ngân hàng cung cấp sao kê
chứng thực số nợ vay và số tiền tài khoản thẻ tín dụng vì số này là số động, theo
như ông biết thẻ tín dụng của ông tại Ngân hàng S thì ông chỉ dùng 165.000.000
(Một trăm sáu mươi lăm triệu) đồng. Ông không đồng ý với số tiền phát sinh trong
thẻ tín dụng của ông như Ngân hàng trình bày. Ông xác nhận ông có vay
500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng với tư cách cá nhân nhưng thẻ tín dụng báo
mỗi tháng vẫn báo rất nhiều loại lãi, ông rút 165.000.000 (Một trăm sáu mươi lăm
triệu) đồng trong thẻ tín dụng, ngày thu hồi thẻ của ông chỉ có dùng 165.000.000
(Một trăm sáu mươi lăm triệu) đồng. Nay Ngân hàng khởi kiện ông số tiền cao như
vậy, ông yêu cầu cung cấp lại sao kê và ông không đồng ý với trình bày về số tiền
trong phần thẻ mà Ngân hàng yêu cầu ông phải trả.
Thẻ tín dụng là vay với tư cách cá nhân ông. Đối với khoản vay cá nhân
ông là 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng, giá căn nhà của ông và bà hiến L là
hơn 7.000.000.000 (Bảy tỷ) đồng. Chưa tới thời hạn thanh toán ông mới vay
được 5 đến 6 tháng. Ngân hàng đơn phương chấm dứt hợp đồng, tài sản ông rất
nhiều, ông có thể vay thêm được, ông không vi phạm gì do đó không chấp nhận
việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của Ngân hàng.
Ông có rất nhiều thẻ tín dụng dựa trên uy tín cá nhân, uy tín cá nhân ông
rất tốt mà ông chưa sử dụng hết hạn mức, do dịch diễn ra nên ông mới sử dụng
thẻ chứ trước đó ông không sử dụng.
Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện về thẻ tín dụng, vì thẻ tín dụng
là cấp riêng trên uy tín cá nhân ông. Về khoản vay là 500.000.000 (Năm trăm
triệu) đồng trên tài sản 7.000.000.000 (Bảy tỷ) đồng giữa mùa dịch mà Ngân
hàng đòi thu hồi tiền việc đó ảnh hưởng đến ông rất nhiều nên ông có yêu cầu
phản tố ngay tại toàn hôm nay như sau:
Yêu cầu Ngân hàng cung cấp sao kê, CIC của ông. Hạn mức của ông lúc
đầu là 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng mà ông mới dùng 200.000.000 (Hai
10
trăm triệu) đồng vì ông sợ lỡ ông quên hoặc làm mất thẻ có ai họ nhặt được họ
cà thẻ của ông.
Truyền thống gia đình ông là gia đình kinh doanh từ thời ông bà, cha ông
là du học sinh nước ngoài, 28 tuổi ông đã thành lập doanh nghiệp riêng, 15 năm
trên thương trường công ty ông hoạt động đa ngành nghề. Pepsico có 5 nhà máy
hoạt động thì có 4 nhà máy hợp tác với ông. Ông đã có hai doanh nghiệp một
công ty ông thành lập 2007 và một công ty năm 2017. Trước 2014 ông có 5 trụ
sở, hiện tại còn 3 trụ sở. Ông còn là đại diện của tập đoàn công nghiệp nhẹ Thuỷ
Chung, vấn đề đưa ông ra tòa của Ngân hàng làm đối tác truy lùng ông mà mùa
dịch, đòi nợ ông đột ngột như thế.
Ông có uy tín trên thị trường kinh doanh, Ngân hàng kiện ông làm ông
mất uy tín, ảnh hưởng toàn bộ hoạt động kinh doanh. Ông tính được những thiệt
hại với ngành nghề khác, tổn thất tinh thần là 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng.
Ngành dịch thuật ông không còn tiền kinh doanh, dồn tiền trong việc xây
nhà, tài sản của ông còn có thể vay tại Ngân hàng khác với số tiền vay có thể lên
tới 5.000.000.000 (Năm tỷ) đồng đến 6.000.000.000 (Sáu tỷ) đồng. Thiệt hại
ngành dịch thuật yêu cầu bồi thường từ tháng 01/2021 đến tháng 01/2023 là 2
năm mỗi năm 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng tổng là 4.000.000.000 (Bốn tỷ) đồng.
Đối với ngành xuất nhập khẩu:
Cũng bồi thường từ tháng 01/2021 đến tháng 01/2023, ông có ngành nghề
đó ai cần nhập hàng gì thì ông làm hồ sơ chứng từ xuất nhập khẩu. Mỗi năm
2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng, hai năm là 4.000.000.000 (Bốn tỷ) đồng.
Về phần đại diện cho nước ngoài: Yêu cầu 5.000.000.000 (Năm tỷ) đồng
cho 2 năm là 10.000.000.000 (Mười tỷ) đồng.
Tổng ông yêu cầu bồi thường 18.020.000.000 (Mười tám tỷ, không trăm
hai mươi triệu) đồng tại phiên tòa hôm nay.
Sau khi có yêu cầu bồi thường mới tại phiên tòa xong ông đề nghị không
tiếp tục yêu cầu trong vụ án này, ông sẽ khởi kiện Sacombank bằng một vụ án
khác.
* Bà Phạm Hiến L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Bà giải trình số tiền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong đơn Phản tố của bà
như sau:
Bà thật sự bất ngờ và cảm thấy bị xúc phạm, mất uy tín và danh dự khi trở
thành bị đơn trong vụ kiện của Ngân hàng TMCP S. Từ sau khi biết mình trở thành
bị đơn bà cảm thấy thực sự bất an và lo lắng không biết bà đã làm gì để đến nỗi
Ngân hàng phải rút thẻ tín dụng đã cung cấp cho bà sử dụng.
Sao kê Ngân hàng tài khoản cá nhân số tài khoản 060041782202 mang
tên Phạm Hiến L mở tại Ngân hàng TMCP S của bà trong thời gian ba năm từ
ngày 01/01/2017 đến ngày 31/12/2019 là 14.359.165.009 (Mười bốn tỷ, ba trăm
năm mươi chín triệu, một trăm sáu mươi lăm ngàn, không trăm lẻ chín) đồng.
11
Sao kê giao dịch cá nhân tại tài khoản 060041782202 mang tên Phạm Hiến L
mở tại Ngân hàng TMCP S của bà trong thời gian từ 01/01/2020 đến 23/3/2022
là 4.493.720.204 (Bốn tỷ, bốn trăm chín mươi ba triệu, bảy trăm hai mươi ngàn,
hai trăm lẻ bốn) đồng.
Từ năm 2017 đến nay tổng số tiền giao dịch trong tài khoản cá nhân của
bà mở tại Ngân hàng TMCP S là hơn 18.000.000.000 (Mười tám tỷ) đồng.
Riêng trong thời gian xảy ra dịch bênh Covid-19 là năm 2020 đến nay tổng số
giao dịch cá nhân của bà tại Ngân hàng TMCP S là hơn 4.000.000.000 (Bốn tỷ)
đồng, hiện nay bà vẫn đang sử dụng tài khoản cá nhân giao dịch này và tài
khoản này vẫn còn số dư.
Đối với thẻ tín dụng hạn mức 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng, Ngân
hàng TMCP S yêu cầu tất toán đóng thẻ thanh lý hợp đồng trong vụ án mà bà là
bị đơn thì tổng mức giao dịch là 7.450.639.000 (Bảy tỷ, bốn trăm năm mươi
triệu, sáu trăm ba mươi chín ngàn) đồng.
Bà là đồng sở hữu căn nhà một trệt hai lầu diện tích 100 m
2
tại Trung tâm
Quận A gần Công viên phần mềm Q, địa chỉ 267/4B Khu phố A, phường T,
Quận B, Thành phố H với giá thị trường là 9.000.000.000 (Chín tỷ) đồng. Học
vị hiện tại của bà là Cử nhân xuất nhập khẩu trường Cao đẳng K Thành phố H,
Cử nhân Quản trị kinh doanh trường Đại học K Thành phố Hồ Chí Minh, Thạc
sỹ kinh tế Kinh doanh quốc tế trường Đại học K Thành phố Hồ Chí Minh.
Với tài sản, công việc hiện tại học hàm, học vị Thạc sỹ Kinh tế và lịch sử
giao dịch trong tài khoản hơn chục tỷ đồng thì bà là khách VIP của nhiều Ngân
hàng và thực tế tại Ngân hàng Ngân hàng S bà được cấp thẻ ưu tiên phòng chờ
hạng thương gia của hãng V Airline và quà tặng theo các năm của Ngân hàng S
của khách hàng VIP, hiện tại bà không vi phạm gì tại Ngân hàng S và các Ngân
hàng khác.
Việc thẻ tín dụng và hạn mức thẻ tín dụng là căn cứ trên uy tín và năng
lực thực sự của cá nhân bà. Hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng cung cấp
thẻ tín dụng và kiện bà ra Tòa án nhân dân Quận 12 để yêu cầu phải trả ngay số
dư trên thẻ tín dụng là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng cung cấp thẻ tín
dụng đối với cá nhân và đồng thời hành vi này cũng làm bà bị mất uy tín, danh
dự, tổn hại về tinh thần. Đặc biệt là trong giai đoạn dịch bệnh Covid và bà vừa
sinh em bé ngày 28/9/2020. Khủng hoảng chất chồng khi bà luôn là niềm tin tự
hào của gia đình và cho đến nay chưa từng vi phạm điều gì.
Theo điều khoản chấm dứt sử dụng thẻ được quy định tại điều kiện sử
dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S trên Website thì bà không thuộc bất cứ
trường hợp nào chấm dứt sử dụng thẻ.
Từ khi bà mang bầu tháng thứ 7, tháng thứ 8, bà có đến Ngân hàng để xin
cấp chứng thư bảo lãnh cho Công ty H. Việc này làm bà mất nhiều thời gian đi
lại, đi lại liên tục gây nhiều áp lực cho bản thân bà trong công việc nên bà đã
sinh non. Áp lực của một người nhân viên, do trước đây các việc đó bà làm từ
12
đầu đến cuối nên không thể giao cho người khác thay thế bà được. Bà bị áp lực
trực tiếp từ Ngân hàng nên Ngân hàng phải chịu trách về việc bà sinh non.
Theo Nghị quyết 70/2018/QH14 ngày 09/11/2018 về Luật Bảo hiểm xã
hội và Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 về chế độ nghỉ thai sản của chị em phụ
nữ, áp dụng đối với những phụ nữ mang thai, bà được áp dụng chế độ thai sản 6
tháng nghỉ. Một lần sinh con là một lần cửa tử. Vậy mà Ngân hàng S đã bức tử
bà 03 lần.
Lần thứ nhất: Khi bà mang thai, Ngân hàng đã làm sai quy định về cấp
chứng thư bảo lãnh cho Công ty H đã gây cho bà nhiều áp lực trong công việc
dẫn đến tinh thần bà bất an và bà đã sinh non con của bà.
Lần thứ 2: Khi bà nhận được thư thu hồi nợ được bà và Ngân hàng ký kết
ngày 14/3/2018, căn cứ thu hồi nợ là thu hồi tài sản thế chấp mà bà và anh trai
bà là ông H đứng tên trong giấy chứng nhận. Tại sao Ngân hàng lại căn cứ vào
hợp đồng thế chấp của bà mà đòi nợ bà.
Giữa bà và Ngân hàng chỉ ký Cam kết cấp thẻ chứ không ký Hợp đồng tín
dụng vay vốn của Ngân hàng. Trên tay bà có cầm bản Điều khoản và điều kiện
phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng S, tại Điều 13 có quy
định về tạm ngưng, chấm dứt sử dụng thẻ. Nếu bà trễ hạn nộp tiền thì mới được
quyền khởi kiện bà nên bà không trễ hạn thì bà không vi phạm. Việc Ngân hàng
khởi kiện bà là là cảm tính của Ngân hàng.
Ngày bà nhận được thư của Ngân hàng khi đó bà mới sinh được 10 ngày,
bà mải chăm con, chăm ba mẹ già. Bà chỉ lo bà bị trầm cảm sẽ không ai chăm
sóc con, không ai chăm ba mẹ bà. Sau 06 tháng thai sản đó bà không làm được
gì. Bà vào Công ty H làm việc, đó là Công ty của anh trai bà, bà vẫn phải làm
việc để còn giúp anh bà. Do bà bị thu hồi nợ nên không còn sức khỏe, năng lực
tạo ra sản phẩm và lương nữa. Tại sao khi khởi kiện bà số tiền là 200.000.000
(Hai trăm triệu) đồng mà nay còn hơn 54.000.000 (Năm mươi tư triệu) đồng. Số
tiền còn như vậy là do bà đã bán toàn bộ vàng cưới của bà. Bà nghĩ rằng anh bà
đã nợ xấu thì bản thân bà phải cố gắng để không còn nợ xấu nữa để sau này còn
đường làm ăn. Cả hai anh em cùng nợ xấu thì làm sao còn đường làm ăn nữa.
Nên bà đã bán toàn bộ vàng cưới, bản thân bà có gì bán hết. Năm 2021 cả gia
đình bà bị Covid, bệnh nặng nhưng vẫn cố gắng đóng tiền đóng mãi mà vẫn còn
54.000.000 (Năm mươi tư triệu) đồng.
Tại sao trong sao kê tài khoản của bà in từ ngày 23/11/2022, khi đó bà đã
đi làm nhưng thi thoảng mới được lương 1.000.000 (Một triệu) đồng đến
2.000.000 (Hai triệu) đồng, nhiều khi bà nghĩ bà không làm ra tiền bằng tiền ở
khách sạn. Ngân hàng trình bày rằng Ngân hàng ân hạn cho bà thì bà thuộc
chính sách nào mà được ân hạn. Bà được chính sách là bà có Thế giới điểm
thưởng đổi. Bản thân bà được tặng rất nhiều quà, có khi bà còn được tặng quả
cầu giá trị hơn 3.000.000 (Ba triệu) đồng. Nếu bà vi phạm đã bị Ngân hàng khóa
thẻ chứ không thể được tặng tại Thế giới điểm thưởng được. Đó là bà tự được
hưởng chứ không cần Ngân hàng ân hạn.
13
Vì những lẽ trên nên bà yêu cầu Tòa án nhân dân Quận 12 xem xét, giải
quyết cho bà yêu cầu sau đây:
1. Yêu cầu Ngân hàng TMCP S tiếp tục thực hiện hợp đồng cung cấp thẻ
tín dụng hạn mức 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng;
2. Yêu cầu Ngân hàng TMCP S bồi thường uy tín danh dự của bà bằng
10% tổng số giao dịch trong tài khoản cá nhân của bà trong khoảng thời gian từ
ngày 01/01/2017 đến 22/3/2022 tổng số tiền là 2.300.000.000 (Hai tỷ, ba trăm
triệu) đồng.
3. Yêu cầu bồi thường 1.000.000.000 (Một tỷ) đồng tiền tổn thất tinh thần
và thiệt hại phát sinh do việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng sử dụng
thẻ gây ra. Tất cả được liệt kê bằng bảng giải trình như sau:
Tiền viện phí sinh non 34,5 tuần tại Bệnh viện phụ sản Mekong:
31.000.000 (Ba mươi mốt triệu) đồng;
Tiền viện phí từ 9-2020 đến 8-2022: 45.000.000 (Bốn mươi lăm triệu) đồng;
Tiền chi phí ăn uống bệnh viện: 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng;
Bồi thường tổn thất lương từ tháng 4-2021 đến tháng 8-2022: 16 x
30.000.000 = 480.000.000 (Bốn trăm tám mươi triệu) đồng (bảng lương xác
nhận làm thẻ tín dụng tại Ngân hàng S);
Chi phí cơ hội bên ngoài: 16 x 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng =
1.600.000.000 (Một tỷ sáu trăm triệu) đồng (dựa vào bảng kê thu nhập theo tài
khoản Ngân hàng S hàng tháng);
Chi phí tổn thất nuôi cha bị bệnh: 16 x 10.000.000 (Mười triệu) đồng =
160.000.000 (Một trăm sáu mươi triệu) đồng;
Chi phí tổn thất nuôi mẹ bệnh tim hở van 4 lá trở nặng : 16 x 9.000.000
(chín tỷ) đồng = 144.000.000 (Một trăm bốn mươi bốn triệu) đồng;
Chi phí cơ hội kinh doanh xuất nhập khẩu thêm: 16 x 50.000.000 (năm
mươi triệu) đồng = 800.000.000 (Tám trăm triệu) đồng.
Tổng cộng là 3.300.000.000 (Ba tỷ, ba trăm triệu) đồng.
Ngoài ra, tại phiên tòa hôm nay bà yêu cầu thêm: Yêu cầu cá nhân ông
Bảo phải công khai xin lỗi bà tại Tòa án và khu phố của bà ở.
Tại phiên tòa ngày 28/12/2022 ông H là đại diện ủy quyền cho Ngân hàng
trình bày rằng đã tạm khóa thẻ của bà, như vậy là bức tử bà lần thứ 3. Ngân
hàng có biết rằng số tiền bà giảm thiểu nộp trong thẻ là bà đã cố gắng hết sức
mình, đóng lãi mỗi tháng 5.000.000 (Năm triệu) đồng. Bà bán toàn bộ vàng
cưới, rút tiền tiết kiệm trong sổ tiết kiệm. Đó là tiền đám cưới bà được người ta
mừng. Do Ngân hàng thông báo tạm khóa thẻ của bà nên bà yêu cầu được khởi
kiện bồi thường thêm.
Bà yêu cầu được phản tố ngay tại phiên tòa do hành vi đơn phương chấm
dứt hợp đồng của Ngân hàng S và hành vi khóa thẻ tại phiên tòa, gây thiệt hại
14
toàn bộ quá trình cố gắng của bà để giảm dư nợ xuống mức thấp nhất. Toàn bộ
tiền từ sổ tiết kiệm, 03 cây vàng cưới dùng để đóng lãi cho Ngân hàng. Cụ thể
bà yêu cầu như sau : Bồi thường cho bà số tiền gồm 03 cây vàng cưới,
99.000.000 (Chín mươi chín triệu) đồng. Tổng số tiền là 250.000.000 (Hai trăm
năm mươi triệu) đồng. Bà yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần về trường hợp
bức tử lần thứ 3 này cho Ba bà 76 tuổi, mẹ bà 66 tuổi, con bà 02 tuổi và bà mỗi
người 2.000.000 (Hai triệu) đồng. Tổng cộng cho yêu cầu phản tố bổ sung là
258.000.000 (Hai trăm năm mươi tám triệu) đồng.
Bản án kinh doanh thương mại số 05/2023/KDTM-ST ngày 11/01/2023
của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ vào Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 317, 318, 319, 320, 321, 322, 323, 299, 463, 466, 584
của Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ
sung năm 2017;
Căn cứ Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Căn cứ Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội;
Căn cứ vào các Điều 2, 6, 7, 9, 30 Luật Thi hành án dân sự;
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
1. Buộc Công ty TNHH Một thành viên H phải trả cho Ngân hàng TMCP S
số tiền phải thanh toán khoản nợ vay của Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức số
LD1807300512 ngày 14/3/2018, thỏa thuận sửa đổi bổ sung hợp đồng tín dụng số
LD1807300512 - 01 ngày 27/3/2019 và thỏa thuận sửa đổi bổ sung hợp đồng tín
dụng số LD1807300512-02 ngày 17/3/2020 tạm tính đến ngày 30/12/2022 là
1.899.662.343 (Một tỷ, tám trăm chín mươi chín triệu, sáu trăm sáu mươi hai ngàn,
ba trăm bốn mươi ba) đồng, trong đó: Dư nợ gốc: 1.442.100.000 (Một tỷ, bốn trăm
bốn mươi hai triệu, một trăm ngàn) đồng; lãi suất nợ quá hạn: 456.168.456 (Bốn
trăm năm mươi sáu triệu, một trăm sáu mươi tám ngàn, bốn trăm năm mươi sáu)
đồng; Lãi chậm trả là: 1.393.886 (Một triệu, ba trăm chín mươi ba ngàn, tám trăm
tám mươi sáu) đồng và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã thỏa thuận nêu trên từ
ngày 31/12/2022 cho đến khi Công ty TNHH MTV H thanh toán xong hết nợ gốc và
lãi. Công ty TNHH MTV H phải thực hiện nghĩa vụ này ngay khi bản án có hiệu lực
thi hành. Việc giao nhận do các đương sự tự nguyện thực hiện hoặc thực hiện qua Cơ
quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
2. Buộc ông Phạm H phải thanh toán khoản nợ vay của Hợp đồng tín
dụng số 201924889106 ngày 03/01/2020 được ký giữa Ngân hàng TMCP S và
ông Phạm H; Hợp đồng thế chấp tài sản số 01/2020/HĐTC/CNQ12-PGDCC
15
được ký kết giữa Ngân hàng TMCP S và ông Phạm H, bà Phạm Hiến L.
Tổng cộng số tiền tạm tính đến ngày 30/12/2022 là 654.332.044 (Sáu
trăm năm mươi bốn triệu, ba trăm ba mươi hai ngàn, không trăm bốn mươi bốn)
đồng. Trong đó: Dư nợ gốc: 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng; Lãi quá hạn:
153.604.109 (Một trăm năm mươi ba triệu, sáu trăm lẻ bốn ngàn, một trăm lẻ
chín) đồng; Lãi chậm trả: 727.934 (Bảy trăm hai mươi bảy ngàn, chín trăm ba
mươi bốn) đồng lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã thỏa thuận từ ngày
31/12/2022 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ. Ông Phạm H phải thực hiện
nghĩa vụ này ngay khi bản án có hiệu lực thi hành. Việc giao nhận do các đương
sự tự nguyện thực hiện hoặc thực hiện qua Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm
quyền.
Trong trường hợp đến ngày bản án có hiệu lực thi hành mà Công ty
TNHH MTV H và ông Phạm H không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng TMCP S có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án
dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp là đất ở số 1530-51, Tờ bản đồ
số 2A (sơ đồ nền), diện tích 102,2m
2
, hình thức sử dụng riêng 102,2m
2
. Nhà ở
tại địa chỉ: 267/4B Khu phố A, phường T, Quận B, Thành phố H. Được Ủy ban
nhân dân Quận 12 cấp cho ông Phạm Ngọc L và bà Trần Thị Kim H theo số
giấy chứng nhận hồ sơ gốc là 2340 ngày 02/5/2003 và cập nhật thay đổi sang tên
ông Phạm H, bà Phạm Hiến L ngày 20/4/2014 để thu hồi nợ đối với các khoản
nợ vay của Công ty TNHH MTV H và ông Phạm H cho Ngân hàng TMCP S.
Trường hợp nếu đến ngày án có hiệu lực thi hành khi nguyên đơn có đơn
yêu cầu thi hành án mà bị đơn đã thanh toán hết số tiền nợ gốc, lãi, lãi phát sinh
tiếp tục đến ngày thanh toán thì nguyên đơn phải trả lại toàn bộ bản chính các
giấy tờ đang còn giữ cho các ông bà: Phạm Hải Linh, Phạm Hiến Linh.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty TNHH MTV H về việc
yêu cầu Tòa án buộc Ngân hàng TMCP S phải bồi thường các thiệt hại cho
Công ty TNHH MTV H với tổng số tiền là 24.385.000.000 (Hai mươi bốn tỷ, ba
trăm tám mươi lăm triệu) đồng.
4. Buộc Công ty TNHH MTV H và ông Phạm H phải có trách nhiệm liên
đới thanh toán trả lại cho Ngân hàng TMCP S chi phí tố tụng mà Ngân hàng S đã
nộp trong quá trình Tòa án thu thập chứng cứ bao gồm chi phí xem xét thẩm định
tại chỗ, chi phí đo vẽ tổng cộng là 23.608.510 (Hai mươi ba triệu, sáu trăm lẻ tám
ngàn, năm trăm mười) đồng.
Kể từ ngày nguyên đơn có đơn thi hành đối với khoản tiền này mà Công
ty TNHH MTV H và ông Phạm h chưa thanh toán cho nguyên đơn thì Công ty
TNHH MTV H và ông Phạm Hải L còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật
dân sự năm 2015.
5. Về án phí:
Buộc Công ty TNHH Một thành viên H phải chịu án phí kinh doanh
thương mại sơ thẩm về số tiền phải thanh toán cho Ngân hàng theo Hợp đồng tín
16
dụng LD1807300512 ngày 14/3/2018, thỏa thuận sửa đổi bổ sung hợp đồng tín
dụng số LD1807300512 -01 ngày 27/3/2019 và thỏa thuận sửa đổi bổ sung hợp
đồng tín dụng số LD1807300512-02 ngày 17/3/2020 là 68.989.870 (sáu mươi
tám triệu, chín trăm tám mươi chín ngàn, tám trăm bảy mươi) đồng. Nộp tại Chi
cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay khi bản án có hiệu lực thi hành.
Buộc Công ty TNHH Một thành viên H phải chịu án phí kinh doanh
thương mại sơ thẩm đối với phần yêu cầu bồi thường thiệt hại không được chấp
nhận là 132.385.000 (một trăm ba mươi hai triệu, ba trăm tám mươi lăm ngàn)
đồng. Công ty TNHH MTV H đã nộp tổng số tiền tạm ứng án phí như sau: Biên
lai thu tiền tạm ứng án phí của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 12 số 0023147
ngày 12/4/2022 là 57.070.803 (năm mươi bảy triệu, không trăm bảy mươi ngàn,
tám trăm lẻ ba) đồng và Biên lai thu tiền tạm ứng án phí của Chi cục Thi hành
án dân sự Quận 12 số 0023803 ngày 09/8/2022 là 63.121.697 (Sáu mươi ba
triệu, một trăm hai mươi mốt ngàn, sáu trăm chín mươi bảy) đồng. Tổng số tiền
Công ty TNHH MTV H đã nộp là 120.192.500 (Một trăm hai mươi triệu, một
trăm chín mươi hai ngàn, năm trăm) đồng. Cấn trừ đi số tiền này Công ty TNHH
MTV H còn phải nộp thêm số tiền 12.192.500 (Mười hai triệu, một trăm chín
mươi hai ngàn, năm trăm) đồng. Nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm
quyền ngay khi bản án có hiệu lực thi hành.
Buộc ông Phạm H phải chịu số tiền án phí đối với số tiền phải thanh toán
cho Ngân hàng theo Hợp đồng tín dụng số 201924889106 ngày 03/01/2020 là
30.173.282 (Ba mươi triệu, một trăm bảy mươi ba ngàn, hai trăm tám mươi hai)
đồng. Nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay khi bản án có
hiệu lực thi hành.
Đối với số tiền tạm ứng án phí đã nộp khi khởi kiện của Ngân hàng
TMCP S theo Biên lai thu tiền số 0105877 ngày 06/01/2021 là 55.500.000 (Năm
mươi lăm triệu, năm trăm ngàn) đồng sẽ được giải quyết tại các hồ sơ dân sự
khởi kiện về thẻ tín dụng của ông Phạm H và bà Phạm Hiến L được Tòa án tách
ra.
Số tiền tạm ứng án phí do bà Phạm Hiến L đã nộp theo Biên lai thu tiền
tạm ứng án phí số 0023152 ngày 12/4/2022 là 49.000.000 (Bốn mươi chín triệu)
đồng sẽ được giải quyết tại hồ sơ dân sự liên quan đến thẻ tín dụng cá nhân của
bà Phạm Hiến L được Tòa án tách ra.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về
nghĩa vụ thi hành án
và quyền kháng
cáo của các đương sự.
Ngày 17/01/2023
, Công ty TNHH MTV H kháng cáo toàn bộ bản án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo pháp luật của Công ty H trình bày:
Cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong suốt quá trình
giải quyết vụ án cụ thể:
Ngày 05/9/2022, tại phiên hòa giải thành phần phiên họp không có thư ký
ghi biên bản như quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự.
17
Sơ thẩm không đưa cá nhân ông H, bà Hiến L vào tham gia tố tụng với tư cách
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc tống đạt các văn bản tố tụng của sơ
thẩm không đúng quy định. Đề nghị ông Tôn phải có mặt tại phiên tòa tham gia
với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Cấp sơ thẩm sử dụng văn
bản của người đại diện Công ty H không đúng quy định vì bà Hiến L không
được ủy quyền. Sơ thẩm chưa làm rõ các vấn đề vi phạm của nguyên đơn mà bị
đơn đã trình bày trong đơn phản tố ngày 02/8/2022 cũng như việc nguyên đơn
thu hồi nợ trước hạn ngày 07/10/2020 và khởi kiện Công ty Công ty H khi chưa
vi phạm nghĩa vụ trả nợ tại Ngân hàng. Nguyên đơn tạm ngừng thực hiện hợp
đồng không giải ngân 100 triệu đồng để hết hạn mức; Ngân hàng tự phong tỏa
tài khoản 060118181818 của Công ty H chiếm giữ 488.000.000 đồng và tự ý sử
dụng 462.000.000 đồng của Công ty H. Ngân hàng chiếm giữ tài sản đảm bảo là
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất là căn nhà số 267/4B Khu phố A,
phường T, Quận B, Thành phố H. Ông cho rằng ông nợ nhóm 3 tại Ngân hàng
TMCP Q Việt Nam và nhóm 2 Ngân hàng TMCP Đ đều có tài sản bảo đảm mỗi
nơi là 02 chiếc xe Ford Transit 16 chỗ. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy
án sơ thẩm. Nếu có yếu tố hình sự thì chuyển hồ sơ sang Cơ quan điều tra khởi
tố hình sự.
Công ty H có tài sản tổng giá trị cả 10 tỷ đồng, trước khi tính đến tài sản
thế chấp phải tính đến tài sản của Công ty, không cần sử dụng căn nhà thế chấp.
Đại diện Ngân hàng trình bày: Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị
đơn Công ty H. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ngày 19/7/2023 bà
Hiến L có nộp cho Hội đồng xét xử phúc thẩm Đơn yêu cầu độc lập (cùng ngày)
đề nghị cấp phúc thẩm xem xét yêu cầu buộc Ngân hàng phải bồi thường thiệt
hại cho bà Hiến L tổng cộng 5.777.567.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Qua kiểm sát vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử
thấy Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định về thẩm quyền giải quyết vụ án,
Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử và gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên
cứu đúng thời hạn, cấp và tống đạt các văn bản tố tụng cho người tham gia tố
tụng và Viện kiểm sát theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa tiến hành
đúng trình tự pháp luật Tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý cũng
như tại phiên tòa nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa
thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty H. Điều chỉnh lại
án phí sơ thẩm của Công ty H. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều
308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ

18
thẩm số 05/2023/KDTM-ST ngày 11/01/2023 của Tòa án nhân dân Quận 12,
Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên
tòa, kết quả tranh tụng, quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét
xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
[1.1] Căn cứ vào đơn khởi kiện ngày 11/12/2020 nộp ngày 16/12/2020
của nguyên đơn; Căn cứ vào đơn phản tố ngày 29/3/2022 và đơn phản tố bổ
sung ngày 02/8/2022 của Công ty H cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ
thì việc khởi kiện của nguyên đơn là tranh chấp hợp đồng tín dụng, Đơn phản tố
của bị đơn là tranh chấp bồi thường thiệt hại. Căn cứ Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mã số doanh nghiệp
0305128043 đăng ký lần đầu ngày 09/8/2007, đăng ký thay đổi lần thứ 7 ngày
31/7/2018 thì Công ty TNHH một thành viên H có địa chỉ trụ sở chính 267/4B
Khu phố A, phường T, Quận B, Thành phố H, Tòa án nhân dân Quận 12 áp
dụng Điều 30, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự để thụ lý giải quyết là
đúng quy định, tuy nhiên cấp sơ thẩm cần ghi cụ thể Khoản 1 Điều 30, điểm b
Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì sẽ chính
xác hơn.
[1.2] Giai đoạn phúc thẩm, ông Phạm Ngọc L người đang cư trú tại nhà
267/4B Khu phố A, phường T, Quận B, Thành phố H đã chết ngày 26/4/2023
(theo Trích lục khai tử số 51/TLKT ngày 26/4/2023 của Ủy ban nhân dân
phường Tân Chánh H) nên Hội đồng xét xử không đưa ông L và không cần thiết
phải đưa người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông L vào tham gia tố tụng.
[1.3] Bà Trần Thị Kim H, bà Phạm Hiến L đã được triệu tập hợp lệ nhưng
vắng mặt, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ quy định tại Điều 296 Bộ luật tố
tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà Kim H, bà Hiến L.
[1.4] Đại diện Công ty H cho rằng sơ thẩm không đưa cá nhân ông Hải L, bà
Hiến L là người có tài sản thế chấp tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là vi phạm thủ tục tố tụng. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy
trong hồ sơ cấp sơ thẩm đã đưa ông Hải L tham gia với tư cách bị đơn, bà Hiến L
tham gia với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, do đó không cần thiết
phải đưa thêm ông Hải L tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan như ông đề nghị.
[1.5] Đối với yêu cầu đưa ông Lê Dương T vào tham gia tố tụng với tư
cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét
thấy ông T là nhân viên của Ngân hàng S, làm việc theo phân công của Ngân
hàng S, việc đưa cá nhân ông T vào tham gia tố tụng là không cần thiết nên đề
nghị này của đại diện Công ty H không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

19
Cấp sơ thẩm đưa ông T vào tham gia tố tụng với tư cách người làm
chứng, tại cấp phúc thẩm ông T có yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử
xử vắng mặt ông Tôn theo quy định tại Khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân
sự.
[1.6] Đại diện Công ty H cho rằng cấp sơ thẩm không tống đạt hợp lệ cho
Công ty nhưng thực tế trong các buổi làm việc tại sơ thẩm Công ty H có mặt,
quyền lợi của Công ty H không bị ảnh hưởng nên việc Công ty H cho rằng sơ
thẩm vi phạm thủ tục tố tụng cần hủy án là không có cơ sở.
[1.7] Bị đơn là Công ty H kháng cáo Bản án kinh doanh thương mại sơ
thẩm nên thẩm quyền giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa Kinh tế Tòa án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh căn cứ theo điểm b Khoản 3 Điều 38 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
[1.8] Bà Phạm Hiến L vắng mặt ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 30/01/2023
bà Hiến L nộp đơn kháng cáo đề ngày 19/01/2023. Tòa án nhân dân Quận 12
ban hành Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm số 08/TB-TA ngày
08/02/2023. Tuy nhiên bà Hiến L không đồng ý nội dung Thông báo nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm ghi bà với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan nên bà không đóng tiền và khiếu nại. Tòa án nhân dân Quận 12 chuyển
đơn khiếu nại của bà Hiến L đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Thông báo số 224/TB-TATP ngày 26/4/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh nêu rõ “Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm số 08/TB-
TA ngày 08/02/2023 bà Phạm Hiến L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là đúng với Bản án số 05/2023/KDTM-ST và Quyết định số 07/2023/QĐ-
SCBSBA (nêu trên). Việc xác định tư cách tham gia tố tụng trong vụ án cấp
phúc thẩm xem xét trong giai đoạn xét xử”.
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Trong đơn khởi kiện ngày
11/12/2020 nguyên đơn Ngân hàng S kiện Công ty H, ông H và bà Hiến L nên
căn cứ Khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân Quận 12
xác định bà Hiến L là bị đơn là đúng quy định.
Ngày 11/01/2023 Tòa án nhân dân Quận 12 nhận thấy yêu cầu khởi kiện về
thẻ tín dụng ngân hàng đối với cá nhân ông H và bà Hiến L là vụ án dân sự do đó
căn cứ Điều 42 Bộ luật Tố tụng dân sự tách từ 01 vụ án kinh doanh thương mại mà
Tòa án nhân dân Quận 12 thụ lý ban đầu thành 03 vụ án riêng biệt trong đó có vụ
án thứ ba nguyên đơn Ngân hàng S và bị đơn bà Phạm Hiến L. Vụ án này giải
quyết về thẻ tín dụng do Ngân hàng S kiện và yêu cầu bồi thường thiệt hại theo đơn
phản tố của bà l. Do đó cấp sơ thẩm xác định trong vụ án kinh doanh thương mại
Ngân hàng S khởi kiện Công ty H và cá nhân ông H thì bà Hiến L tham gia tố tụng
với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng quy định vì bà Hiến L là
đồng sở hữu tài sản đảm bảo cho khoản vay của Công ty H và cá nhân ông H.
Do bà Hiến L có đơn kháng cáo nhưng không nộp tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 276 Bộ luật Tố tụng dân sự thì được
xem là từ bỏ việc kháng cáo.

20
[1.9] Tại phiên tòa cấp phúc thẩm ngày 19/7/2023 bà Hiến L có nộp đơn
yêu cầu độc lập về bồi thường thiệt hại, phần yêu cầu độc lập này Tòa án nhân
dân Quận 12 đã thụ lý và đang xem xét, căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự
thì đơn yêu cầu độc lập của bà Hiến L không thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm
của Bản án số 05/2023/KDTM-ST ngày 11/01/2023.
[1.10] Trong các tài liệu ông H và bà Hiến L nộp cấp phúc thẩm có cả các
đơn tố cáo gửi các nơi và Phiếu chuyển, Phiếu hướng dẫn của các nơi gửi cho 02
ông bà. Do các đơn Tố cáo này không thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp phúc
thẩm nên Hội đồng xét xử không xét.
[2] Về nội dung kháng cáo của Công ty H:
[2.1] Nội dung cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong
suốt quá trình giải quyết vụ án cụ thể: Ngày 05/9/2022 tại phiên hòa giải thành
phần phiên họp không có thư ký ghi biên bản như quy định tại điểm b Khoản 1
Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự.
Hội đồng xét xử xét thấy trong hồ sơ không có biên bản hòa giải ngày
05/9/2022 mà chỉ có Biên bản hòa giải và Biên bản về việc kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cùng ngày 06/9/2022. Tại các biên bản này
đều có ghi cụ thể các tài liệu do nguyên đơn, bị đơn nộp và có ghi ý kiến của các
bị đơn. Trong biên bản có các đương sự, thẩm phán, thư ký ký tên, tuy nhiên nếu
trong trường hợp khi hòa giải thiếu sự có mặt của thư ký thì cũng không phải vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, là lý do để xem xét hủy án về sơ thẩm giải
quyết lại. Tuy nhiên, đây là thiếu sót cần được cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.
[2.2] Nội dung Nguyên đơn thu hồi nợ trước hạn ngày 07/10/2020 và khởi
kiện Công ty H khi chưa vi phạm nghĩa vụ trả nợ tại Ngân hàng.
Hội đồng xét xử xét thấy các căn cứ để Ngân hàng S thu hồi nợ trước hạn
và khởi kiện Công ty H được các bên ký thỏa thuận như sau:
Tại Phụ lục các điều khoản chung (đính kèm Hợp đồng cấp tín dụng hạn
mức số LD 1807300512 ngày 14/3/2018), tại Phần A: Quy định chung, tiểu mục
1.3 của mục 1: Điều chỉnh hạn mức tín dụng, ngưng cấp tín dụng, chấm dứt tín
dụng, thu hồi nợ trước hạn có nội dung: “Bên được cấp tín dụng đang có số dư
nợ cấp tín dụng tại Ngân hàng S và/hoặc tại các tổ chức tín dụng khác đã được
điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ, cơ cấu nợ hoặc nợ quá hạn”.
Tiểu mục 2.2 của mục 2: Thu nợ, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ
quá hạn, xử lý nợ có nội dung: “Khi phát sinh trường hợp Ngân hàng S phải
chấm dứt cấp tín dụng và hoặc thu hồi nợ trước hạn nêu trên, các khoản cấp tín
dụng hiện tại của bên được cấp tín dụng bao gồm nợ gốc, lãi và chi phí có liên
quan dù chưa đến hạn thanh toán cũng sẽ được Ngân hàng S xem như đến hạn
và bên được cấp tín dụng có trách nhiệm phải thanh toán ngay cho Ngân hàng S
nếu Ngân hàng S có yêu cầu”.
Công văn số 1320/TTTD-TTQL ngày 16/9/2022 của Trung tâm thông tin
tín dụng quốc gia Việt Nam về Thông tin dư nợ của khách hàng Công ty H thì
21
ngày 31/3/2020 Công ty H đã thuộc nhóm nợ 2 tại Ngân hàng TMCP Q Việt
Nam - Chi nhánh G. Công ty H chuyển nợ nhóm 3 từ ngày 30/9/2020. Đến ngày
30/11/2020 Công ty H chuyển nhóm nợ 02 tại Ngân hàng S –Chi nhánh Quận A;
nhóm nợ 03 tại Ngân hàng TMCP Q Việt Nam - Chi nhánh G; nhóm nợ 03
Ngân hàng TMCP Đ – Chi nhánh T
Ngay từ khi phát hiện Công ty H đang có dư nợ cần chú ý Ngân hàng S đã
làm việc với Công ty H cụ thể:
- Ngày 17/3/2020, bà Phạm Hiến L Phó giám đốc thay mặt Công ty H ký
Giấy cam kết “Chúng tôi cam kết thanh toán toàn bộ nợ xấu đang phát sinh tại
tất cả các tổ chức tín dụng ngay sau khi Ngân hàng S thực hiện tái cấp hạn mức
tín dụng.
Chúng tôi cam kết không để phát sinh nợ xấu tại tất cả các tổ chức tín
dụng bao gồm Ngân hàng S”.
- Ngày 22/4/2020, Ngân hàng S có Biên bản làm việc với Công ty H (bà
Hiến L Đại diện) về việc công ty thanh toán nợ tại Ngân hàng TMCP Q Việt
Nam để đưa về nợ nhóm 1. Công ty H yêu cầu Ngân hàng S tái cấp hạn mức tín
dụng để dùng tiền đó trả nợ cho Ngân hàng TMCP Q Việt Nam. Cùng ngày
22/4/2020 Công ty H có Biên bản làm việc với Ngân hàng S cho rằng Công ty H
đã thực hiện trả nợ đều đối với Ngân hàng S, nợ Ngân hàng TMCP Q Việt Nam
là nợ về xe du lịch mà dịch Covid thì không hoạt động được.
- Ngày 27/7/2020, bà Phạm Hiến L Phó giám đốc thay mặt Công ty H ký
Giấy cam kết “Chúng tôi cam kết thanh toán toàn bộ nợ xấu đang phát sinh tại tất
cả các tổ chức tín dụng trong vòng 03 ngày kể từ ngày Ngân hàng S thực hiện
giải ngân hạn mức tín dụng. Trong trường hợp chúng tôi không làm đúng như
cam kết, Ngân hàng S có quyền ngưng giải ngân vô điều kiện.
Chúng tôi cam kết không để phát sinh nợ xấu tại tất cả các tổ chức tín
dụng bao gồm Ngân hàng S ….trong tường hợp chúng tôi để phát sinh nợ xấu từ
nhóm II trở lên tại bất kỳ tổ chức tín dụng nào thì Ngân hàng S có quyền ngưng
giải ngân vô điều kiện”
- Ngày 13/8/2020 Ngân hàng S làm việc nhắc Công ty H về việc không
thực hiện như đã cam kết trả các khoản tiền đưa Công ty H về nhóm 1.
- Ngày 07/10/2020 Ngân hàng S gửi Công văn số 115/PGD-Chợ Cầu về
việc thu hồi nợ trước hạn của Công ty H. Hạn cuối phải nộp trước ngày
14/10/2020
- Ngày 13/10/2020 Ngân hàng S gửi Công văn số 119/ PGD-Chợ Cầu về
việc thu hồi nợ trước hạn của Công ty H. Hạn cuối phải nộp đến 11 giờ ngày
21/11/2020
- Ngày 02/12/2020 Ngân hàng S gửi Công văn số 141/ PGD-Chợ Cầu về
việc chuyển nợ quá hạn của Công ty H, ông H, bà Hiến L. Toàn bộ khoản vay
của Cty và 02 người trên chuyển nợ quá hạn. Tính đến 30/11/2020 Công ty H
đến hạn thanh toán cho Ngân hàng S đối với các khoản vay theo Giấy nhận nợ từ
22
ngày 05, 06, 12, 13/5/2020.
Ông H trình bày hợp đồng hạn mức và Hợp đồng tín dụng là hợp đồng
mẫu có những điều khoản bất lợi cho người tiêu dùng nên đề nghị Hội đồng xét
xử không chấp nhận.
Hội đồng xét xử xét thấy bà Hiến L đại diện Công ty H từ tháng 3, tháng
4, tháng 7 năm 2020 để thỏa thuận với Ngân hàng S nhưng ông H không có ý
kiến. Nay ông cho rằng bà L đại diện Công ty H khi không được ủy quyền là
không phù hợp.
Đại diện Công ty H cho rằng theo quy trình của Ngân hàng S đưa ra thì nợ
quá hạn 90 ngày Ngân hàng S mới được quyền khởi kiện, Ngân hàng S vi phạm
quy trình này. Đại diện Ngân hàng S trình bày theo Thông tư 02 thì nợ quá hạn
nhóm 3 đã là nợ 90 ngày, do đó Ngân hàng S khởi kiện là không vi phạm.
Từ các thỏa thuận trên đủ cơ sở để xác định Ngân hàng S ngưng giải ngân,
thu hồi nợ trước hạn và khởi kiện Công ty H là không vi phạm thỏa thuận sửa
đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng như đại diện Công ty H trình bày. Cấp sơ thẩm
nhận định hoàn toàn có cơ sở.
[2.3] Nội dung Nguyên đơn tạm ngừng thực hiện hợp đồng không giải
ngân 100.000.000 đồng để hết hạn mức, không phát hành thư bảo lãnh thực hiện
hợp đồng:
Hội đồng xét xử xét thấy:
- Ngày 30/8/2020, Công ty H ký Hợp đồng số LDMS.111.2020.0563 với Công
ty TNHH nước giải khát Suntory P Việt Nam.
- Ngày 15/9/2020, Công ty H liên hệ với Ngân hàng S đề nghị được phát
hành thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng trị giá 7.801.524.493 (Bảy tỷ, tám trăm lẻ
một triệu, năm trăm hai mươi bốn ngàn, bốn trăm chín mươi ba) đồng, số tiền
Công ty H cần Ngân hàng S hỗ trợ bảo lãnh tương đương 10% giá trị hợp đồng
(781.000.000 đồng) mà Công ty H đã ký với Công ty TNHH nước giải khát
Suntory P.
Theo Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức số LD1807300512 ngày 14/3/2018;
Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng số LD1807300512 - 01 ngày
27/3/2019 và Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng số LD1807300512
– 02 ngày 17/3/2020 (thời hạn hiệu lực đến 14/3/2021) thì Ngân hàng S đã giải
ngân cho Công ty H đủ 02 tỷ đồng, quá trình thực hiện hợp đồng Công ty H đã
hoàn trả 100.000.000 đồng, vậy hạn mức còn lại của hợp đồng cấp tín dụng hạn
mức trên chỉ là 100.000.000 đồng.
- Ngày 17/9/2020, Ngân hàng S có Biên bản làm việc với ông H đại diện
cho Công ty H về việc Công ty phải thanh toán toàn bộ dư nợ xấu tại tất cả các
tổ chức tín dụng và đưa nhóm nợ về nợ đủ tiêu chuẩn trên báo cáo CICB và
không phát sinh dư nợ xấu tại bất kỳ tổ chức tín dụng nào
Trường hợp phát hành chứng thư bảo lãnh bằng hình thức ký quỹ 100%
hoặc cầm cố sổ tiết kiệm thì khách hàng phải có đủ số tiền tương ứng bằng giá
23
trị chứng thư.
Trường hợp phát hành bảo lãnh dựa trên hạn mức tín dụng 02 tỷ đồng của
Công ty thì công ty phải giảm dư nợ hạn mức tín dụng hiện tại tương ứng giá trị
chứng thư bảo lãnh.
Tại thời điểm 31/8/2020 Công ty H đang ở nhóm nợ 2 của các tổ chức tín
dụng khác. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 của Thông tư số 07/2015/TT-
NHNN ngày 25/6/2015 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về quyền của bên
xác nhận bảo lãnh có nội dung: “Chấp nhận hoặc từ chối đề nghị xác nhận bảo
lãnh”. Do vậy, việc chấp nhận hay từ chối đề nghị xác nhận bảo lãnh hoàn toàn
phụ thuộc vào ngân hàng. Thời điểm này, Ngân hàng S cho rằng Công ty Hđang
lâm vào tình trạng rủi ro tín dụng tại các tổ chức tín dụng khác nên từ chối cấp
chứng thư bảo lãnh cho Công ty H thì không vi phạm quy định của pháp luật.
[2.4] Nội dung Ngân hàng tự phong tỏa tài khoản 060118181818 của
Công ty H chiếm giữ 488.000.000 đồng và tự ý sử dụng 462.000.000 đồng của
Công ty H.
Hội đồng xét xử xét thấy căn cứ vào Phụ lục các điều khoản chung (đính
kèm Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức số LD1807300512 ngày 14/3/2018), tại
tiểu mục 2.1 mục 2 Thu nợ, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn, xử lý
nợ có nội dung: “Khi đến ngày đến hạn hoặc đến kỳ hạn trả nợ, nếu Bên được
cấp tín dụng không trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và chi phí có liên quan) đầy đủ
và kịp thời, Sacombank được toàn quyền trích tài khoản tiền gửi của Bên được
cấp tín dụng mở tại Sacombank hoặc tại bất kỳ tổ chức tín dụng nào khác (nếu
có) để thu nợ”. Tại tiểu mục 2.7 mục 2 của bản Phụ lục này các bên cũng thỏa
thuận nội dung: “Bằng hợp đồng này, Bên được cấp tín dụng đồng ý vô điều
kiện không hủy ngang cho Sacombank được yêu cầu tạm khóa tài khoản, lập ủy
nhiệm thu để thu hồi nợ từ tài khoản tiền gửi của Bên được cấp tín dụng tại tổ
chức tín dụng khác mà không cần xác nhận của Bên được cấp tín dụng nhưng
phải thông báo cho Bên được cấp tín dụng”.
Theo thỏa thuận trên Công ty H đồng ý để Ngân hàng S được quyền trích
tài khoản tiền gửi của mình để thu hồi nợ và cũng đồng thời đồng ý để cho Ngân
hàng S tạm khóa tài khoản của mình để Sacombank thu hồi nợ từ tài khoản tiền
gửi của Bên được cấp tín dụng (tức Công ty H). Vì vậy hành vi tự trích tiền
trong tài khoản giao dịch số 060118181818 của Công ty H và hành vi tạm khóa
tài khoản này của Ngân hàng S là hoàn toàn đúng với thỏa thuận của các bên và
không vi phạm pháp luật. Tại phiên tòa đại diện Ngân hàng S xác nhận sử dụng
số tiền trong tài khoản này để trừ nợ gốc các khoản nợ đến hạn mà Công ty H
chưa thanh toán.
[2.5] Nội dung Ngân hàng chiếm giữ tài sản đảm bảo là quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền trên đất là căn nhà số 267/4B Khu phố A, phường T, Quận
B, Thành phố H.
Hội đồng xét xử xét thấy tại phiên tòa phúc thẩm, ông H xác nhận hiện
nay do ông và bà Hiến L quản lý và sử dụng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
24
liền trên đất là căn nhà số 267/4B Khu phố A, phường T, Quận B, Thành phố H.
Ông xác nhận giấy tờ sở hữu nhà và đất này đã giao cho Ngân hàng S ngay từ
khi thế chấp. Như vậy đủ cơ sở xác định Ngân hàng S không chiếm giữ tài sản
đảm bảo mà chỉ giữ giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp theo quy định tại
Khoản 6 Điều 323 Bộ luật dân sự. Do đó trình bày của đại diện Công ty H
không có cơ sở chấp nhận.
[2.6] Nội dung buộc Ngân hàng phải bồi thường thiệt hại cho Công ty H:
Tổng số tiền Công ty H yêu cầu Ngân hàng S bồi thường thiệt hại là
24.385.000.000 đồng, tuy nhiên trong số tiền này có phần yêu cầu thiệt hại
doanh thu từ việc cho thuê nhà là 900.000.000 đồng cấp sơ thẩm nhận định
Công ty H không có quyền khởi kiện vì nhà thuộc sở hữu cá nhân ông H và bà
Hiến L, do đó cần phải trừ số tiền này, vậy yêu cầu bồi thường thiệt hại của
Công ty H là 23.485.000.000 đồng.
Công ty H cho rằng Ngân hàng S khởi kiện Công ty H, khởi kiện cá nhân
ông H, cá nhân bà Hiến L chặn đứng mọi đường vay tiền ngân hàng của công ty,
khiến công ty gặp khó khăn, mất toàn bộ hợp đồng. Chính Ngân hàng S vi phạm
nội quy nội bộ của ngân hàng dẫn đến Công ty H bị thiệt hại.
Hội đồng xét xử xét thấy như cấp sơ thẩm đã phân tích trong quan hệ dân
sự muốn được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì phải hội tụ các căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại và nguyên tắc bồi thường thiệt hại
theo quy định tại Điều 584, Điều 585 của Bộ luật dân sự hoặc trong quan hệ
kinh doanh thương mại muốn được bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì phải
đủ các yếu tố theo Điều 303 Luật thương mại như: Có hành vi vi phạm hợp
đồng; Có thiệt hại thực tế, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp
gây ra thiệt hại. Tại cấp phúc thẩm Công ty H có nộp thêm một số tài liệu (bản
photo) để chứng minh từ thời điểm năm 2017 đến năm 2020 Công ty H vẫn hoạt
động, nguồn thu từ hoạt động kinh doanh đủ để chi trả cho Ngân hàng S, tuy
nhiên hạn mức tín dụng của Công ty H không đủ để cấp thư bảo lãnh theo yêu
cầu của Công ty H. Mặt khác, việc cấp thư bảo lãnh hay không cấp phải dựa trên
sự chấp thuận của Ngân hàng S, Ngân hàng S không thể phải chịu trách nhiệm
trong việc kinh doanh của Công ty H. Vì vậy Công ty H không đưa ra được
chúng cứ chứng minh hành vi vi phạm hợp đồng của Ngân hàng S là nguyên
nhân trực tiếp gây ra thiệt hại cho Công ty H nên yêu cầu bồi thường thiệt hại
của Công ty H cấp sơ thẩm không chấp nhận là có cơ sở.
[2.7] Nội dung nếu có yêu tố hình sự thì chuyển hồ sơ sang Cơ quan điều
tra khởi tố hình sự: Xét thấy quan hệ tín dụng của Công ty H hay cá nhân ông H
với Ngân hàng S là quan hệ kinh doanh thương mại được xác định ngay từ khi
cấp sơ thẩm thụ lý nên không có yêu tố hình sự để phải chuyển sang Cơ quan
điều tra khởi tố như yêu cầu của ông H đại diện Công ty H.
[2.8] Về khoản lãi còn phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng TMCP S
trong vụ án kinh doanh thương mại tại mục 1, mục 2 đoạn 2 và mục 4 đoạn 2
phần Quyết định của Bản án tuyên:
25
1. Buộc Công ty TNHH Một thành viên H phải trả cho Ngân hàng TMCP
S số tiền … là 1.899.662.343 đồng, ….; và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng
đã thỏa thuận nêu trên từ ngày 31/12/2022 cho đến khi Công ty TNHH MTV H
thanh toán xong hết nợ gốc và lãi .…
2. Buộc ông Phạm H phải thanh toán khoản nợ vay của Hợp đồng tín
dụng số 201924889106 ngày 03/01/2020 … là 654.332.044 đồng và lãi phát
sinh theo hợp đồng tín dụng đã thỏa thuận từ ngày 31/12/2022 cho đến khi
thanh toán xong khoản nợ.…
4….“Kể từ ngày nguyên đơn có đơn thi hành đối với khoản tiền này mà
Công ty TNHH MTV H và ông Phạm H chưa thanh toán cho nguyên đơn thì
Công ty TNHH MTV H và ông Phạm H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ
luật dân sự năm 2015”. Cấp sơ thẩm tuyên như trên là tuyên phần lãi kể từ ngày
nguyên đơn có đơn thi hành án đối với khoản tiền phải thi hành thì bị đơn phải
trả 02 lần lãi là chưa phù hợp với Điều 8, Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-
HĐTP ngày 11/01/2019 quy định về việc Quyết định lãi, lãi suất trong bản án,
quyết định của Tòa án, do đó cấp phúc thẩm điều chỉnh lại như sau: “Kể từ ngày
31/12/2022 Công ty TNHH MTV H và ông Phạm H còn phải tiếp tục thanh toán
cho Ngân hàng TMCP S các khoản tiền lãi trên nợ gốc chưa thanh toán theo
mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức số
LD1807300512 ngày 14/3/2018; Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng
số LD1807300512 - 01 ngày 27/3/2019 và Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp
đồng tín dụng số LD1807300512 – 02 ngày 17/3/2020; Hợp đồng tín dụng số
201924889106 ngày 03/01/2020 và các Giấy nhận nợ cho đến khi thanh toán
xong. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay
theo từng thời kỳ của Ngân hàng TMCP S thì lãi suất mà Công ty TNHH MTV
H và ông Phạm H phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng TMCP S theo quyết
định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất
Ngân hàng TMCP S” và cấp phúc thẩm điều chỉnh thêm phần Quyết định cho rõ
hơn trường hợp nếu phải phát mại tài sản.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đề nghị của đại
diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[4] Về án phí:
Về tiền án phí sơ thẩm của Công ty H đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại
không được chấp nhận là 23.485.000.000 đồng. Do đó cần điều chỉnh Công ty H
chỉ phải chịu án phí trên số tiền không được chấp nhận và sau khi cấn trừ thì
Công ty H phải nộp bổ sung. Các phần còn lại của án phí sơ thẩm giữ nguyên
Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo của Công
ty H không được chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm nên Công ty H phải
chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm căn cứ theo quy định tại Điều 148
Bộ luật Tố tụng dân sự.
26
Vì các lẽ trên,
Căn cứ Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH:
- Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH MTV H.
- Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 05/2023/KDTM-
ST ngày 11/01/2023 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
1. Buộc Công ty TNHH Một thành viên H phải trả cho Ngân hàng TMCP
S số tiền phải thanh toán khoản nợ vay của Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức số
LD1807300512 ngày 14/3/2018; Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng
số LD1807300512 - 01 ngày 27/3/2019 và Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp
đồng tín dụng số LD1807300512 – 02 ngày 17/3/2020 tạm tính đến ngày
30/12/2022 là 1.899.662.343 (Một tỷ, tám trăm chín mươi chín triệu, sáu trăm
sáu mươi hai ngàn, ba trăm bốn mươi ba) đồng, trong đó: nợ gốc: 1.442.100.000
(Một tỷ, bốn trăm bốn mươi hai triệu, một trăm ngàn) đồng; lãi quá hạn:
456.168.456 (Bốn trăm năm mươi sáu triệu, một trăm sáu mươi tám ngàn, bốn
trăm năm mươi sáu) đồng; Lãi chậm trả: 1.393.887 (Một triệu, ba trăm chín
mươi ba ngàn, tám trăm tám mươi bảy) đồng.
2. Buộc ông Phạm H phải thanh toán khoản nợ vay của Hợp đồng tín
dụng số 201924889106 ngày 03/01/2020 tạm tính đến ngày 30/12/2022 là
654.332.044 (Sáu trăm năm mươi bốn triệu, ba trăm ba mươi hai ngàn, không
trăm bốn mươi bốn) đồng. Trong đó: nợ gốc: 500.000.000 (Năm trăm triệu)
đồng; Lãi quá hạn: 153.604.109 (Một trăm năm mươi ba triệu, sáu trăm lẻ bốn
ngàn, một trăm lẻ chín) đồng; Lãi chậm trả: 727.935 (Bảy trăm hai mươi bảy
ngàn, chín trăm ba mươi lăm) đồng.
3. Kể từ ngày 31/12/2022 Công ty TNHH MTV H và ông Phạm H còn
phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng TMCP S các khoản tiền lãi trên nợ gốc
chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng cấp tín
dụng hạn mức số LD1807300512 ngày 14/3/2018; Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung
hợp đồng tín dụng số LD1807300512 - 01 ngày 27/3/2019 và Thỏa thuận sửa
đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng số LD1807300512 – 02 ngày 17/3/2020; Hợp
đồng tín dụng số 201924889106 ngày 03/01/2020 và các Giấy nhận nợ cho đến
khi thanh toán xong. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh mức
lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng TMCP S thì lãi suất mà Công
ty TNHH MTV H và ông Phạm H phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng
TMCP S theo Quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với
sự điều chỉnh lãi suất Ngân hàng TMCP S
Việc giao nhận tiền do các đương sự tự thực hiện hoặc qua Cơ quan Thi
hành án dân sự có thẩm quyền.
27
Trường hợp bị đơn đã tất toán hết số tiền nợ gốc, các loại lãi phát sinh đến
ngày thanh toán thì nguyên đơn có nghĩa vụ hoàn trả toàn bộ bản chính các giấy
tờ tài sản thế chấp cho ông Phạm H và bà Phạm Hiến L.
Trong trường hợp Công ty TNHH MTV H và ông Phạm H không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng TMCP S có
quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại toàn bộ tài
sản thế chấp sau để thu hồi nợ: Đất ở thửa đất số 1530-51, Tờ bản đồ số 2A (sơ
đồ nền), diện tích 102,2m
2
, hình thức sử dụng riêng 102,2m
2
, nhà ở tại địa chỉ:
267/4B Khu phố A, phường T, Quận B, Thành phố H được Ủy ban nhân dân
Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở cho ông Phạm Ngọc L và bà Trần Thị Kim H theo hồ sơ
gốc số 2340 ngày 02/5/2003 và cập nhật thay đổi sang tên ông Phạm H, bà
Phạm Hiến L ngày 25/4/2014. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác số
66/2018/HĐTC/CNGV-PGDCC ngày 15/3/2018 được Văn phòng công chứng
Quận 12 chứng thực cùng ngày, số công chứng: 04755, quyển số: 03/TP/CC-
SCC/HĐGD và Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Quận 12 chứng nhận
đăng ký giao dịch đảm bảo số 022695.TC006 ngày 16/3/2018; số
022695.TC007 ngày 06/7/2020 và Hợp đồng thế chấp tài sản số
01/2020/HĐTC/CNQ12-PGDCC ngày 03/01/2020 được Văn phòng công chứng
Quận 12 chứng thực cùng ngày, số công chứng: 00095, quyển số: 01/TP/CC-
SCC/HĐGD; Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Quận 12 chứng nhận đăng
ký giao dịch đảm bảo số 022695.TC008 ngày 06/01/2020.
Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản thế chấp đã thực hiện
xong nghĩa vụ trả nợ của Công ty TNHH MTV H và ông Phạm H mà vẫn còn
dư thì ông Phạm H, bà Phạm Hiến L được nhận số tiền dư này.
Trường hợp sau khi phát mại tài sản đảm bảo mà không đủ trả tiền gốc,
tiền lãi có liên quan thì Công ty TNHH MTV H và ông Phạm H có trách nhiệm
tiếp tục trả nợ cho Ngân hàng TMCP S cho đến khi trả xong.
4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty TNHH MTV H về việc
yêu cầu Tòa án buộc Ngân hàng TMCP S phải bồi thường các thiệt hại cho Công ty
TNHH MTV H với tổng số tiền là 23.485.000.000 đồng (Hai mươi ba tỷ, bốn trăm
tám mươi lăm triệu) đồng.
5. Về án phí:
5.1. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty TNHH Một thành viên H phải chịu án phí kinh doanh thương mại
sơ thẩm về số tiền phải thanh toán cho Ngân hàng theo Hợp đồng cấp tín dụng
hạn mức số LD1807300512 ngày 14/3/2018; Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp
đồng tín dụng số LD1807300512 - 01 ngày 27/3/2019 và Thỏa thuận sửa đổi, bổ
sung hợp đồng tín dụng số LD1807300512 – 02 ngày 17/3/2020 là 68.989.870
(Sáu mươi tám triệu, chín trăm tám mươi chín ngàn, tám trăm bảy mươi) đồng.
28
Công ty TNHH Một thành viên H phải chịu án phí kinh doanh thương mại
sơ thẩm đối với phần yêu cầu bồi thường thiệt hại không được chấp nhận là
131.485.000 (Một trăm ba mươi mốt triệu, bốn trăm tám mươi lăm ngàn) đồng.
Công ty TNHH MTV H đã nộp tổng số tiền tạm ứng án phí 120.192.500 (Một
trăm hai mươi triệu, một trăm chín mươi hai ngàn, năm trăm) đồng theo các
Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án của Chi cục Thi hành án dân sự Quận
12 số 0023147 ngày 12/4/2022 là 57.070.803 (Năm mươi bảy triệu, không trăm
bảy mươi ngàn, tám trăm lẻ ba) đồng và số 0023803 ngày 09/8/2022 là
63.121.697 (Sáu mươi ba triệu, một trăm hai mươi mốt ngàn, sáu trăm chín
mươi bảy) đồng. Cấn trừ số tiền đã nộp Công ty TNHH MTV H còn phải nộp
thêm số tiền 11.292.500 (Mười một triệu, hai trăm chín mươi hai ngàn, năm
trăm) đồng.
Buộc ông Phạm H phải chịu số tiền án phí đối với số tiền phải thanh toán
cho Ngân hàng theo Hợp đồng tín dụng số 201924889106 ngày 03/01/2020 là
30.173.282 (Ba mươi triệu, một trăm bảy mươi ba ngàn, hai trăm tám mươi hai)
đồng.
Đối với số tiền tạm ứng án phí đã nộp khi khởi kiện của Ngân hàng
TMCP S theo Biên lai thu tiền số 0105877 ngày 06/01/2021 là 55.500.000 (Năm
mươi lăm triệu, năm trăm ngàn) đồng sẽ được giải quyết tại các hồ sơ dân sự
khởi kiện về thẻ tín dụng của ông Phạm H và bà Phạm Hiến L được Tòa án tách
ra.
Số tiền tạm ứng án phí do bà Phạm Hiến L đã nộp theo Biên lai thu tiền
tạm ứng án phí số 0023152 ngày 12/4/2022 là 49.000.000 (Bốn mươi chín triệu)
đồng sẽ được giải quyết tại hồ sơ dân sự liên quan đến thẻ tín dụng cá nhân của
bà Phạm Hiến L được Tòa án tách ra.
5.2. Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:
Công ty TNHH MTV H
phải chịu án phí phúc thẩm 2.000.000 đồng (Hai
triệu đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là 2.000.000
đồng (Hai triệu đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
AA/2022/0005345 ngày 13/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 12,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Buộc Công ty TNHH MTV H và ông Phạm H phải có trách nhiệm liên đới
thanh toán trả lại cho Ngân hàng TMCP S chi phí tố tụng mà Ngân hàng S đã nộp
trong quá trình Tòa án thu thập chứng cứ bao gồm chi phí xem xét thẩm định tại
chỗ, chi phí đo vẽ tổng cộng là 23.608.510 (Hai mươi ba triệu, sáu trăm lẻ tám
ngàn, năm trăm mười) đồng.
6. Quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu thi hành án:
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9
29
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 luật thi hành án dân sự đã sửa đổi bổ sung năm 2014.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Tòa án nhân dân cấp cao tại TP HCM;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- VKSND Thành phố Hồ Chí Minh;
- Cục THA DS TPHCM;
- Chi cục THA DS Quận 12;
- TAND Quận 12;
- Các đương sự;
- Lưu VP, hồ sơ vụ án.
TM HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hoàng Thị Bích Thảo
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 15/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 12/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 08/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 23/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 15/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 08/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/07/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm