Bản án số 04/2024/KDTM-PT ngày 19/06/2024 của TAND TP. Hải Phòng về các tranh chấp trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 04/2024/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 04/2024/KDTM-PT ngày 19/06/2024 của TAND TP. Hải Phòng về các tranh chấp trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng
Quan hệ pháp luật: Các tranh chấp trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hải Phòng
Số hiệu: 04/2024/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/06/2024
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp kiện đòi tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 04/2024/KDTM-PT
Ngày 30-01-2024
V/v tranh chấp kiện đòi tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà V Thị Thu Hà
Các Thẩm phán: Bà V Thị Bích Diệp
Ông Nguyễn Văn Dương
- Thư ký phiên tòa: Nguyễn Hà Phương - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng: Ông Hà Văn Dỏn
- Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 17/2023/TLPT-
KDTM ngày 04 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp kiện đòi tài sản.
Do bản án kinh doanh thương mại thẩm s09/2023/KDTM-ST ngày 28
tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng bị
kháng cáo và kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử s41/2023/-PT ngày 04 tháng 12
năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 79/2023/QĐ-PT ngày 27 tháng 12 năm
2023 và Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên toà số 04/TB-TKT ngày 24
tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Thu Th, sinh năm 1961; địa chỉ: S7Đ22, phường Đ,
quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bị đơn: Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Xuất nhập khẩu S; địa chỉ trụ sở: S
116 BT01, ngõ 97, đường B, phường Hạ Lý, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn:
+ Ông Bùi Xuân Đ; sinh năm 1953; chức vụ: Giám đốc; địa chỉ: Số 116 BT01,
ngõ 97, đường B, phường Hạ Lý, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, là người
đại diện theo pháp luật của bị đơn; vắng mặt.
2
+ Ông Phạm Văn Q, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn Dụ Nghĩa, Thiện,
huyện An Dương, thành phố Hải Phòng ông Trịnh Quốc V, sinh năm 1986; địa
chỉ: T 24, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, là người đại diện
theo uỷ quyền của bị đơn ( Giấy uỷ quyền số 88/2023/UQ-SONGTOAN ngày
04/10/2023); đều có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ V Thị Ch; nơi ĐKHKTT: Tổ Đẩu Phượng 2, phường n Đẩu, quận
Kiến An, thành phố Hải Phòng; nơi hiện nay: Số 151C Trần Nhội, phường Văn
Đẩu, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của V Thị Ch: Ông Phạm Văn Q, sinh năm 1972;
địa chỉ: Thôn Dụ Nghĩa, xã Thiện, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng,
người đại diện theo uỷ quyền (Hợp đồng uỷ quyền ngày 05/12/2022); có mặt.
+ Ông Khổng Trung Nh, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn 1, Tam Cường,
huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; có mặt.
+ Ông Phạm Văn Q, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn Dụ Nghĩa, Thiện,
huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Người kháng cáo: Bị đơn Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Xuất nhập khẩu S
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và V Thị Ch.
- Viện Kiểm sát kháng nghị: Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành
phố Hải Phòng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm, nội dung kháng
cáo, kháng nghị:
Theo đơn khởi kiện các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn Lê Thu Th trình bày:
Thu Th V Thị Ch bạn lâu năm, năm 2016, Th bà V
Thị Ch gặp lại, Th biết bà Ch làm công việc tại ng ty mảng tạm nhập tái
xuất và cần tiền cược CONT để làm hàng. Sau đó, trong quá trình giao dịch, bà Ch
giới thiệu Th với ông Khổng Trung Nh là Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập
khẩu S (gọi tắt Công ty S), đại diện nhận tiền cược CONT với Th. Lúc đó bà Ch
đang Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty S. Thời gian đầu làm ăn suôn sẻ, mỗi
lần Th đưa tiền cược CONT thì ông Nh đều trả về cho bà Th phiếu cược CONT
đầy đủ. Sau đó, số tiền cược CONT càng ngày càng nhiều lên nhưng ông Nh không
đưa lại phiếu cược CONT đầy đủ hoặc phiếu cược CONT không ghi đsố tiền
Th đã đưa. Về sau phiếu cược CONT và số tiền Th đưa cho ông Nh không khớp
nhau, Th hỏi Ch, bà Ch trả lời phiếu cược CONT sẽ được chuyển về sau và
3
sẽ khớp với số tiền đã đưa. Tuy nhiên sau đó không thấy bà Ch chuyển phiếu cược
CONT lại cho bà Th nữa. Ngày 31-7-2017, Th đã gặp ông Nh để đối chiếu công
nợ. Ông Nh đã lập biên bản làm việc. Giữa Thông Nh cùng xác nhận Công ty
S nợ Th số tiền nợ gốc là 5.390.000.000 đồng, còn số tiền lãi do bà Ch sẽ trả.
Th gọi điện và đến trụ sở Công ty S rất nhiều lần để đòi nợ nhưng không gặp Ch,
Ch đã chặn số điện thoại của củaTh và hiện nay cũng không ở nơi cư trú.
vậy, bà Th khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc Công ty TNHH Xuất nhập
khẩu S thanh toán cho toàn bộ stiền nợ gốc là 5.390.000.000 đồng không
yêu cầu tính lãi.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu
S trình bày:
Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S là pháp nhân độc lập, cách pháp
độc lập với nhân V Thị Ch và ông Khổng Trung Nh. Do đó, những yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn chưa đầy đủ sở pháp đối với Công ty TNHH
Xuất nhập khẩu S. Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S với Th không bất kỳ thỏa
thuận nào về việc vay mượn tiền hoặc cược CONT. Việc vay mượn tiền của Ch
đối với Th hay ông Nh vay mượn nhân chứ không liên quan đến Công ty
TNHH Xuất nhập khẩu S. Vì vậy bà Th khởi kiện ra Tòa án thì phải kiện đối với
Ch hoặc ông Nh chứ không phải khởi kiện Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Khổng Trung Nh trình bày:
Ông Nh người làm thuê cho V Thị Ch và ông Phạm Văn Q từ năm 2009.
Ban đầu ông Nh làm thủ kho cho Công ty Phúc Lộc (Công ty do Ch ông Q
thành lập) làm tại thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Đến năm 2011 bà Ch
điều ông Nh về làm nhân viên giao nhận tại tỉnh Cao Bằng. Đến năm 2013 Ch
điều ông Nh vHải Phòng bổ nhiệm ông Nh làm giám đốc Công ty S với mức
lương 7.000.000 đồng/tháng và được nuôi ăn ở tại trụ sCông ty S đồng thời cũng
là nhà riêng của V Thị Ch (ông Q cũng ăn ở sinh hoạt tại đây). Công việc cụ thể
là quản lý giao nhận công hàng, quản lý xe, điều động lái xe dỡ hàng, trả tiền lái xe,
trả tiền cược cont…Đến năm 2016 Ch giới thiệu Th nói bạn làm ăn
với bà cùng ông Q từ trước. Ch có nói “từ nay trở đi đối với tiền cược Cont hàng
cháu báo cho cô Th để cô ấy đi cược Cont cùng với anh Triều lấy lệnh tại các hãng
tàu”. Ban đầu làm ăn thuận lợi ông Nh chỉ báo số ngày cược Cont cho Ch để bà
thanh toán tiền lãi với Th. Khi tạo dựng được niềm tin khoảng gần 01 năm giữa
ChTh có thỏa thuận đưa tiền cho ông Nh với tư cách là giám đốc Công ty
S nhận sau đó ông Nh chi cho hoạt động của ng ty dưới sự chỉ đạo của bà Ch, ông
Q. Bà Th đưa tiền cho ông Nh nhận nhiều lần trong một thời gian theo chứng cứ đã
gửi cho Tòa án công nợ lên đến 5.390.000.000 đồng. Đến khoảng tháng 7/2020
ông Nh không làm tại Công ty S nữa. Nay bà Th kiện Công ty S tại Tòa án, ông Nh
cho rằng khi ông làm giám đốc Công ty S mọi khoản tiền lấy từ bà Th, trước khi lấy
4
tiền ông Nh làm kế hoạch báo cáo Ch và Ch gọi điện cho bà Th đưa tiền
cho ông Nh bảo ông Nh nhận. Nay Ch ông Q cho rằng số tiền ông Nh
nhận tiền với bà Th là trách nhiệm cá nhân chứ không liên quan đến Công ty S
không căn cứ. ông Nh không quen biết Th cũng không tự nhiên Th
đưa tiền cho ông Nh và có ký nhận tiền mà không có tài sản đảm bảo. Ông Nh cam
đoan số tiền 5.390.000.000 đồng bà Th đã đưa cho ông Nh trong một thời gian năm
2017 là phục vụ hoạt động kinh doanh của Công ty S dưới sự chỉ đạo của bà Ch
ông Q.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà V Thị Ch trình bày:
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện ủy quyền của
Ch trình bày: Ch thành viên sáng lập của Công ty S, trong quá trình kinh
doanh Ch biết bà Thu Th nhưng giữa Th cũng như Công ty S
không ký kết bất kỳ thỏa thuận hợp tác kinh doanh nào. Do đó việc Th cho rằng
Ch người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án này là trái quy định
của pháp luật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của bà. Bởi vậy bà
Ch đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Thu Th.
Ch đề nghị xem xét về hành vi vi phạm pháp luật của Th, ông Nh chuyển
hồ sơ sang cơ quan công an để xử lý hình sự.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn Q trình bày:
Theo quy định pháp luật và quy định Công ty, khi Công ty S vay vốn cá nhân
thì Công ty phải họp Hội đồng thành viên để thống nhất việc Công ty vay vốn. Việc
giấy tờ tiền nhân giữa ông Khổng Trung Nh Lê Thu Th khoản vay
giữa hai cá nhân và không liên quan đến Công ty S, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Th.
Ngày 08/3/2023 Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng có
gửi Công văn số 19/TA-HB về việc đề nghị cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận
Hồng Bàng xem xét giải quyết vụ việc dấu hiệu hình sự về Tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản đối với hành vi chiếm đoạt của bà V Thị Ch.
Ngày 28/4/2023 quan cảnh sát điều tra ng an quận Hồng Bàng trả lời
bằng Công văn số 423 cụ thể: Không đủ căn cứ xác định việc Ch hành vi
chiếm đoạt số tiền của bà Th theo đơn tố giác.
* Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 20/7/2023:
- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Hội đồng xét xử buộc
Công ty S phải trả cho bà Th số tiền 5.390.000.000 đồng và không yêu cầu trả lãi.
- Bị đơn Công ty S, đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Không chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Thu Th cho rằng đây
khoản nợ nhân giữa Th, Ch và ông Nh. Đối với những người đã nhận tiền
5
và ký giấy nhận tiền của bà Lê Thu Th để làm việc cho Công ty S như bà Phạm Thị
Hường, bà Phạm Thị Vân Chi, ông V Triều. Những người này những người Công
ty S thuê không hợp đồng lao động để làm xong một việc cụ thể Công ty trả
tiền, vì vậy phía Công ty S không biết địa chỉ nơi ở của những người trên.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Khổng Trung Nh trình bày như trong quá trình giải quyết vụ án, ông
khẳng định giám đốc làm thuê do bà Ch ông Q dựng lên. Khi làm giám đốc
Công ty S ông được trả 7.000.000 đồng/tháng và sau này được nâng lên 10.000.000
đồng/tháng. Được nuôi ăn, không phải trả tiền tại trụ sở Công ty S nhà riêng của
bà V Thị Ch. Việc hoạt động của Công ty S hàng ngày ông Nh phải báo cáo bà Ch,
ông Q, việc vay tiền của bà Lê Thu Th được thu, chi ra sao đều dưới sự chỉ đạo của
Ch thậm chí trong bữa cơm hàng ngày ăn cùng bà Ch, ông Q, ông Nh cũng phải
báo cáo luôn. Vì vậy, ông Nh khẳng định khoản nợ 5.390.000.000 đồng là khoản nợ
của Công ty S đối với bà Lê Thu Th.
+ Ông Phạm Văn Q bày: Việc ký giấy tờ tiền cá nhân giữa ông Khổng Trung
Nh và bà Lê Thu Th là khoản vay giữa hai cá nhân, không liên quan đến Công ty S,
vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Th.
- Kiểm sát viên có ý kiến tại phiên tòa ngày 20/7/2023 như sau:
Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ, quá trình hỏi và tranh luận tại phiên
tòa; căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 259
Bộ Luật tố tụng dân sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử yêu cầu nguyên đơn Thu Th giao nộp các
phiếu cược Cont từ thời điểm 23/4/2017 đến ngày 31/7/2017 để chứng minh cho yêu
cầu khởi kiện của Th căn cứ. Yêu cầu đưa những người Phạm Thị
Hường, Trịnh Thị Vân Chi, ông V Triều, ông Bùi Xuân Đ tham gia tố tụng với
vai trò là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Ngày 26/7/2023 Viện kiểm sát quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng
Công văn số 01/YC-VKS-DS ngày 26/7/2023 về việc yêu cầu Tòa án nhân dân quận
Hồng Bàng xác minh, thu thập chứng cứ để có đủ chứng cứ giải quyết vụ án với nội
dung: Yêu cầu cơ quan thuế cung cấp báo cáo tài chính của Công ty S năm 2017, tờ
khai thuế của các tháng 3,4,5,6,7 năm 2017, bảng cân đối kế toán do doanh nghiệp
cung cấp cho cơ quan thuế khi quyết toán thuế; Yêu cầu Công ty S cung cấp tài liệu
nhập hàng Cont của các tháng 3,4,5,6,7 năm 2017; Yêu cầu bà Lê Thu Th cung cấp
phiếu cược Cont của các tháng 3,4,5,6,7 năm 2017; Làm nhân thân lịch của
những người như bà Phạm Thị Hường, bà Trịnh Thị Vân Chi, ông V Triều, ông Bùi
Xuân Đ. Những người này ký nhận tiền củaTh, do đó cần xác minh lý lịch, triệu
tập ghi lời khai để làm rõ vai trò, nhiệm vụ của những người này trong Công ty S là
gì. Đặc biệt ông Bùi Xuân Đ đang người đại diện theo pháp luật của Công ty S.
6
Cần phải ghi lời khai của ông Đ làm khoản tiền ông Đ nhận của Th vào
ngày 09/6/2017 (150.000.000 đồng) và ngày 30/6/2017 (90.000.000 đồng).
Hội đồng xét x cấp thẩm đã ra Quyết định tạm ngừng phiên tòa số
04/2023/QĐST-KDTM ngày 20/7/2023 và ấn định phiên tòa sẽ được xét xử lại vào
ngày 28/7/2023.
Sau khi Tòa án Tạm ngừng phiên tòa phía nguyên đơn bà Lê Thu Th đã cung
cấp các phiếu cược Cont và biên bản đối chiếu công nợ cho Tòa án.
* Tại phiên tòa ngày 28/7/2023:
Phía nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
Bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và tiếp tục khẳng
định không thể cung cấp địa chỉ và nơi của Phạm Thị Hường, bà Trịnh Thị Vân
Chi, ông V Triều.
Kiểm sát viên tiếp tục đề nghị tạm ngừng phiên tòa để thu thập toàn bộ tài liệu
như trong nội dung yêu cầu xác minh số 01 ngày 26/7/2023 của Viện kiểm sát để
căn cứ giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện.
Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 1, khoản 2 Điều 2, khoản 1 Điều 3 Luật
Thương mại; các điều 116,117,134,135 của Bộ luật dân sự; các Điều 48, 64 Luật
Doanh nghiệp năm 2014; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Thu Th đối với Công ty
TNHH Xuất nhập khẩu S:
Buộc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S phải trả cho bà Lê Thu Th số tiền là
5.390.000.000 (năm tỷ, ba trăm, chín mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật, Thu Th đơn yêu cầu thi
hành án cho đến khi thi hành án xong ng ty TNHH Xuất nhập khẩu S còn phải
chịu khoản tiền i của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về phần án phí quyền kháng cáo của các đương
sự.
Nội dung kháng cáo, kháng nghị:
7
- Ngày 12/8/2023, bđơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà V Thị Ch có đơn kháng cáo với nội dung: Kháng cáo toàn
bộ nội dung bản án của Toà án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng vì
vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục tố tụng dân sự cũng như các quy định pháp
luật dân sự khác;
- Ngày 11/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng ban hành Quyết
định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKS đối với Bản án kinh doanh thương mại
thẩm số 09/2023/KDTM-ST ngày 28/7/2023 của Toà án nhân dân quận Hồng
Bàng theo hướng: Huỷ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm nêu trên để yêu cầu
Toà án nhân dân quận Hồng Bàng thu thập bổ sung chứng cứ xét xử lại vụ án theo
đúng quy định của pháp luật.
Tại giai đoạn xét xphúc thẩm, Công ty Cổ phần Thương mại Hoàng Cầu
trình bày theo Biên bản xác minh ngày 23/01/2024 thể hiện do các phiếu cược
cont của Công ty S tên Công ty Hoàng Cầu: Công ty S đi cược thay cont cho
hàng hoá của Công ty Hoàng Cầu để được làm dịch vụ vận chuyển. Số tiền cược
cont do Công ty S tự chi ra thu về sau khi đã trả vỏ công. Công ty Hoàng Cầu
không liên quan đến các khoản tiền Công ty S bỏ ra để cược cont và không liên quan
đến việc vay nợ giữa bà Lê Thu Th Công ty S”. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Khổng Trung Nh cung cấp cho Toà án Vi bằng số 84/2024/VB-TPLHP
ngày 19/01/2014 trích từ tin nhắn Zalo giữa ông Nh Ch thể hiện nội dung hàng
ngày ông Nh có báo cáo bà Ch kế hoạch làm hàng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn Thu Th trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện nội
dung quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không
chấp nhận kháng cáo của bđơn; người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng
nghị của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng.
- Người đại diện theo uỷ quyền bị đơn ông Phạm Văn Q và ông Trịnh Quốc
V thống nhất trình bày: Về việc thu thập tài liệu chứng cứ tại cấp sơ thẩm, Toà án
cấp thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng tliên quan đến việc cược cont bản gốc
biên bản làm việc xác nhận nợ giữa Th và ông Nh. Về thẩm quyền ký kết và xác
lập thoả thuận, căn cứ theo quy định của Luật Dân sự 2005, Luật doanh nghiệp
2005, Điều lệ tổ chức hoạt động của Công ty S, bị đơn khẳng định ông Nh xác nhận
biên bản làm việc là vượt quá thẩm quyền, ông Nh không có thẩm quyền được xác
nhận nợ. Biên bản xác nhận nợ biên bản lập khống. Giữa Công ty S Th
không ký kết bất kì một Hợp đồng hợp tác kinh doanh nào. Đề nghị Hội đồng xét
xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên vô hiệu biên bản xác
nhận nợ do biên bản lập khống.
8
- Người đại diện theo uquyền người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan V
Thị Ch ông Phạm Văn Q trình bày: Giữ nguyên toàn bộ kháng cáo, đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật ttụng dân sự: Từ khi thụ lý cho đến khi tuyên án,
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư những người tham gia tố tụng đã chấp hành
đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về đường lối giải quyết vụ án: Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân
quận Hồng Bàng.
- Xét về việc giải quyết nội dung vụ án: Ngày 16/8/2019 giữa Th ông
Khổng Trung Nh với tư cách Giám đốc Công ty S Biên bản làm việc cùng chốt
công nợ, xác nhận Công ty S còn nợ bà Th tổng số tiền là 5.390.000.000 đồng. Tuy
nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm, bà Th không cung cấp
được tài liệu, chứng cứ thể hiện việc vay tiền hoặc góp vốn hợp tác giữa bà Th
Công ty S bằng văn bản. Các giao dịch nhận tiền giữa ông Nh và bà Th cũng không
được thể hiện là giao dịch, hoạt động của Công ty và không đượcCh, ông Q (các
thành viên khác của Công ty) thừa nhận. Ngoài công nợ được chốt theo biên bản làm
việc ngày 16/8/2019 giữa ông Nh (với cách Giám đốc đại diện cho ng ty S) với
Th về khoản nợ 5.390.000.000 đồng là căn cứ chính để Th khởi kiện đòi tiền;
thì cả Th ông Nh đều không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào để chứng
minh khoản tiền đó nhằm mục đích, phục vụ hoạt động kinh doanh của Công ty
S, bởi các khoản tiền được ông Nh nhận từ Th đều được quản lý, theo dõi, chi
tiêu riêng bởi cá nhân ông Nh không qua kế toán để hạch toán vào nguồn thu, chi
của Công ty.
Mặt khác, trong tổng stiền 5.390.000.000 đồng được bà Th chuyển giao cho
Công ty S vay (theo lời khai của Th), ngoài người nhận tiền là ông Nh, n
một số nhân khác cũng tham gia nhận tiền bà Phạm Thị Hường, bà Trịnh Thị
Vân Chi, ông V Triều, ông Bùi Xuân Đ nhưng quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ
thẩm những cá nhân này chưa được Tòa án xác minh, làmvà đưa vào tham gia tố
tụng để làm rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ của họ trong Công ty TNHH S việc nhận
tiền của họ tTh liên quan đến hoạt động của Công ty hay không. Th
cũng không xuất trình được các phiếu cược Cont từ khoảng thời gian tháng 4/2017
đến ngày 31/7/2017 tương ứng với số tiền bà Th đã ghi chép và có ký nhận tiền của
ông Nh, Hường, bà Chi, ông Triều, ông Đ. Đồng thời, tài liệu trong hồ sơ vụ án
thể hiện, nhiều giấy mượn Cont về kho riêng ghi bên mượn Công ty Cổ phần
thương mại Hoàng Cầu nhưng vai trò, mối liên hệ của Công ty này với nguyên đơn,
bị đơn, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng chưa được Tòa án cấp sơ
thẩm xác minh, làm rõ.
Tòa án cấp thẩm chỉ căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp
ngày 27/6/2016 có ghi nhận thành viên góp vốn của Công ty S gồm có bà V Thị Ch
chiếm 75% vốn điều lệ, ông Phạm Văn Q chiếm 20% vốn điều lông Khổng
Trung Nh chiếm 5% vốn điều lệ Biên bản làm việc ngày 16/8/2019 để khẳng định
9
việc vay, nhận tiền giữa ông Nh Th là hoạt động nhằm huy động vốn của ng
ty S, đồng thời các thành viên trong Công ty đều phải biết. Từ đó, buộc Công ty S
phải trách nhiệm trả cho Thu Th số tiền nợ gốc là 5.390.000.000 đồng
nhận định, đánh giá, khẳng định mang tính chủ quan, không đủ căn cứ vững chắc.
vậy, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng là căn cứ trên
cơ sở tài liệu phiên tòa sơ thẩm.
Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án đã thực hiện xác minh bổ sung thể
hiện toàn bộ tin nhắn giữa Ch ông Nh trong quá trình điều nh hoạt động
Công ty, ông Nh được thuê làm giám đốc nhưng mọi hoạt động đều do bà Ch chỉ
đạo ông Nh làm. Công ty Hoàng Cầu cũng xác định ng ty S là người bỏ tiền cược
Cont thay Công ty Hoàng Cầu để được nhận dịch vụ vận chuyển hàng, điều này phù
hợp với danh sách cược Cont của Công ty S, do Công ty Hoàng Cầu theo dõi từ năm
2016-2017. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nh, ông Q (đại diện theo ủy quyền của bà
Ch) khai nhận những người nhận tiền sổ của Th ông Đ, Chi, ông
Triều, Hường đều là những người được Công ty thuê để chạy lệnh theo vụ việc,
không hợp đồng lao động, khi tham gia giao dịch với các hãng tàu hoặc chủ hàng
thì có giấy giới thiệu của ông Nh hoặc qua quen biết bà Ch, ông Q để thực hiện, đến
nay họ đã nghỉ nên không xác định được địa chỉ. Tòa án đã yêu cầu đương sự cung
cấp nhân thân, địa chỉ của những người này nhưng nguyên đơn, bị đơn, người liên
quan không cung cấp được.
Những người đến nhận tiền của Th đều do Ch hoặc ông Nh gọi điện
thoại trao đổi trước, việc cược Cont thực hiện qua mã lệnh của Công ty Hoàng Cầu,
Công ty S không trực tiếp đặt cược Cont thực hiện giao dịch bằng tiền mặt nên
không có chứng từ tiền xuất ra, thu về Công ty S.
Do đó, căn cứ tài liệu xác minh tại giai đoạn phúc thẩm và lời khai đương sự
tại phiên tòa tCông ty S hoạt động kinh doanh dịch vụ và có hoạt động thuê Cont,
cược tiền thuê Cont của các hãng tàu, hoạt động do ông Nh điều hành, phù hợp với
việc vay tiền đặt cược Cont của bà Th với tư cách ng ty là có căn cứ.
Tại tất cả các lần nhận tiền, Th đều ghi sổ thể hiện Công ty S vay tiền hoặc
các nhân thuộc Công ty S nhận tiền nhận. Điều đó thể hiện các nhân
nhận tiền đều thuộc người do Công ty S cử đến, đại diện Công ty S đnhận tiền vay
từ bà Th. Trong đó có ông Bùi Xuân Đ hiện nay vẫn đang làm việc cho Công ty S.
Mặc không lời khai của những người này nhưng căn cứ vào sổ ghi chép của
Th và chữ ký nhận tiền của các cá nhân đều thể hiện việc nhận tiền vay cho Công
ty S.
Như vậy, ngày 16/8/2019, ông Khổng Trung Nh với cách đại diện theo
pháp luật của Công ty S lập biên bản để chốt lại số nợ giữa Công ty S vớiTh
phù hợp pháp luật, không trái với Điều lệ của Công ty như ý kiến của người đại diện
theo ủy quyền của Công ty S trình bày tại phiên tòa phúc thẩm.
- Xét về quan hệ tranh chấp: Giao dịch giữa Thu Th với Công ty TNHH
Xuất nhập khẩu S là giao dịch cho vay tiền giữa cá nhân và Công ty (theo đơn khởi
kiện của bà Th). Theo quy định khoản 1 Điều 28 BLTTDS thì tranh chấp thuộc quan
hệ kinh doanh thương mại phải bao gồm hai yếu tố có đăng ký kinh doanh và
10
mục đích lợi nhuận. Mặc dù Th khai cho vay có lấy lãi nhưng không đáp ứng đủ
điều kiện điều luật quy định nên bản án sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là kinh
doanh thương mại không có căn cứ. Tuy nhiên, việc xác định sai quan hệ tranh
chấp không ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên về xác định chủ thể phải trả nợ.
Do vậy, để ổn định bản án thẩm thì không cần thiết phải sửa theo hướng kháng
nghị của Viện kiểm sát.
Từ phân tích trên cho thấy, tài liệu, chứng cứ thu thập bổ sung tại giai đoạn
xét xử phúc thẩmkết quả làm tphiên tòa thẩmcăn cứ để xác định Công
ty S người vay tiền của Th thông qua các nhân đại diện. vậy, cần xác
định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng căn cứ, tuy
nhiên, cấp phúc thẩm đã khắc phục, bổ sung chứng cứ nên không cần thiết phải sửa
hoặc hủy án theo hướng Viện kiểm sát đã kháng nghị.
Xét kháng cáo của bị đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Kháng cáo
của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phù hợp với kháng nghị của Viện
kiểm sát nhân n quận Hồng Bàng nhưng do Viện kiểm sát nhân dân thành phố
thay đổi quan điểm kháng nghị nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên
các quyết định của bản án sơ thẩm.
Từ phân tích trên đề nghị Hội đồng xét x: Căn cứ khoản 1 Điều 308
BLTTDS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội: Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm: Chấp nhận kháng
nghị số 01/QĐ-VKS ngày 11/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng,
thành phố Hải Phòng và bác kháng cáo của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S và
V Thị Ch. Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số 09/2023/KDTM-ST ngày 28/7/2023
của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ trong hồ đã được xem xét tại
phiên tòa, kháng cáo của bị đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; kháng nghị
của Viện Kiểm sát nhân n quận Hồng Bàng, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý
kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa,
Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1] V quan h pháp lut thm quyn gii quyết: Tranh chp gia nguyên
đơn Thu Th b đơn Công ty TNHH Xut nhp khu S tranh chp phát
sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại gia mt nhân vi mt pháp nhân
có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhun (Công ty S vay tin ca bà Th
để phc v hoạt động kinh doanh ca Công ty, bà Th cho Công ty S vay nhm mc
đích phát sinh lợi nhuận hưởng lãi hàng tháng). Vì vy Tòa án nhân dân qun Hng
11
Bàng, thành ph Hi Phòng xác định quan h pháp lut tranh chp thuc v án kinh
doanh thương mại thm quyn gii quyết v án thuc Toà án nhân dân qun Hng
Bàng theo quy định tại khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự là có căn cứ.
[2] Đơn kháng cáo của b đơn Công ty TNHH Xut nhp khu S có ni dung
phù hợp quy định tại Điều 272 B lut T tng dân s, thc hin trong thi hn quy
định ti khoản 1 Điều 273 ca B lut T tng dân s nên đưc chp nhận đưa ra
xét x phúc thm.
- V ni dung:
Xét yêu cu kháng cáo ca b đơn Công ty TNHH Xut nhp khu S người
có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan bà V Th Ch:
[3] Về giao dịch kinh doanh thương mại giữa Thu Th Công ty S:
Theo nội dung khởi kiện của bà Thu Th, từ năm 2016, giữa Th Công ty S
thoả thuận về việc bà Th cho Công ty S vay vốn để cược CONT làm hàng. Căn
cứ vào Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp đăng thay đổi lần thứ 5 ngày
27/6/2016 của Công ty S xác định trong khoảng thời gian đó, Công ty S gồm 03
thành viên góp vốn V Thị Ch, ông Phạm Văn Q ông Khổng Trung Nh, người
đại diện theo pháp luật ông Khổng Trung Nh Chức danh: Giám đốc. Mặc
việc Th cho Công ty S vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh không được các bên
thoả thuận bằng văn bản, không ký hợp đồng cụ thể, tuy nhiên trong quá trình giải
quyết vụ án, lời khai của người cho vay là bà Th về giao dịch vay vốn giữa các bên
hoàn toàn phù hợp với lời khai của người đại diện theo pháp luật của Công ty S
ông Khổng Trung Nh. Mặt khác, tại Điều 16 của Điều lệ Công ty (do Sở Kế hoạch
và Đầu tư cung cấp) về các quyền và nhiệm vụ của Giám đốc quy định Giám đốc
các quyền nhiệm vụ sau đây: “Quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động
kinh doanh hằng ngày của Công ty; ký kết hợp đồng nhân danh Công ty, trừ trường
hợp thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng thành viên” Điều 20 về người đại
diện theo pháp luật của Công ty quy định:“Giám đốc người đại diện theo pháp
luật của Công ty, vì vậy, ông Nh hoàn toàn có quyền đại diện và nhân danh Công
ty để thực hiện giao dịch vay vốn với bà Th nhằm phục vụ mục đích sản xuất, kinh
doanh. Giao dịch này được người có thẩm quyền của các bên giao kết trên cơ sở tự
nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức hội nên làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch.
[4] Về nghĩa vụ trả nợ: Văn bản chốt ng nợ ngày 16/8/2019 được kết
giữa bà Lê Thu ThCông ty S nội dung xác nhận: Công ty S còn nợ bà Lê Thu
Th stiền 5.390.000.000 đồng, chữ của bên cho vay Thu Th chữ
của người đại diện theo pháp luật của Công ty S ông Khổng Trung Nh, đóng
dấu của bên vay Công ty S. Tại thời điểm chốt công nnói trên, ông Khổng Trung
Nh vẫn đang người đại diện theo pháp luật của Công ty, do đó ông Nh người
thẩm quyền đại diện Công ty xác nhận công nợ với Th văn bản chốt
12
công nợ ngày 16/8/2019 giữa Th Công ty S hợp pháp, buộc các bên phải
thực hiện. Vì vậy Toà án nhân dân cấp sơ thẩm căn cứ vào văn bản chốt công nợ đ
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc Công ty S phải trả cho bà Lê Thu
Th số tiền là 5.390.000.000 đồng là có căn cứ.
[5] Phía bị đơn Công ty S cho rằng Công ty S với bà Lê Thu Th không có bất
kỳ thỏa thuận nào về việc vay mượn tiền hoặc cược CONT, việc vay mượn tiền của
Ch đối với Th hay ông Nh vay mượn nhân chứ không liên quan đến Công
ty S: Hội đồng xét xnhận thấy theo theo Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp
đăng thay đổi lần thứ 5 ngày 27/6/2016 thành viên góp vốn của Công ty S gồm
V Thị Ch chiếm 75% vốn điều lệ, ông Phạm Văn Q chiếm 20% vốn điều lệ;
ông Khổng Trung Nh chiếm 5% vốn điều lệ. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng
như lời khai của ông Khổng Trung Nh tại phiên tòa thể hiện ông Nh người làm
thuê cho Ch ông Q được trả lương ban đầu 7.000.000 đồng/tháng, sau
này được tăng lên 10.000.000 đồng/tháng. Ông Nh được nuôi ăn tại trụ sở Công
ty S cũng đồng thời thời nhà riêng của Ch, việc vay mượn, thu chi hoạt động
của Công ty S được báo cáo hàng ngày cho Ch, ông Q. Mặt khác Thu Th
không quan hệ gì với ông Khổng Trung Nh, việc bà Th đưa tiền cho ông Nh phục
vụ hoạt động của Công ty S trên sở giới thiệu của V Thị Ch giới thiệu ông
Khổng Trung Nh là giám đốc Công ty S nhằm huy động vốn hoạt động kinh doanh.
Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, ông Khổng Trung Nh có cung cấp bổ sung cho Toà
án Vi bằng số 84/2024/VB-TPLHP ngày 19/01/2014 trích ttin nhắn Zalo giữa ông
Nh Ch thể hiện nội dung hàng ngày ông Nh o cáo Ch kế hoạch làm
hàng, mọi hoạt động kinh doanh của Công ty ông Nh đều phải báo cáo Ch như
tiền lấy lệnh, cược cont, phí đường bộ, ứng xe,…cả những khoản ông Nh ghi
“nhận Thcũng được thể hiện trong kế hoạch làm hàng đã gửi cho bà Ch. Do đó,
đủ căn cứ khẳng định hoạt động nhằm huy động vốn vay giữa Công ty S
Lê Thu Th, các thành viên trong Công ty S đều biết. vậy phía Công ty S từ chối
khoản nợ 5.390.000.000 đồng đối với yêu cầu của Thu Th không căn cứ.
- Xét kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố
Hải Phòng:
[6] Về nội dung kháng nghị xác định việc nhân Th cho Công ty S vay
tiền giao dịch dân sự: Như đã phân tích ở trên, tranh chấp được Toà án xác định
là tranh chấp kinh doanh thương mại là có căn cứ.
[7] Về nội dung kháng nghị việc Th không xuất trình được đầy đủ các phiếu
cược CONT tương ứng với số tiền bà Th ghi chép: Hội đồng xét xử xét thấy Toà án
cấp thẩm đã thu thập tài liệu chứng cứ là các giấy cược CONT do Th cung cấp
tiến hành xem xét, đánh giá các tài liệu này như một nguồn chứng cứ của vụ án
chứ không sử dụng làm căn cứ để xem xét chp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn. Các căn cứ được Toà án xem xét đchấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn tính hợp pháp của giao dịch vay vốn giữa Th Công ty S Giấy xác
nhận công nợ giữa các bên đã được phân tích tại mục [3] và [4].
13
[8] Về nội dung nhiều giấy mượn CONT ghi bên mượn Công ty Cổ phần
Thương mại Hoàng Cầu (Công ty Hoàng Cầu) mà chưa được Toà án cấp thẩm
làm : Hội đồng xét xử nhận thấy nội dung kháng nghị này của Viện Kiểm sát
căn cứ. Toà án cấp sơ thẩm thiếu sót trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ để làm
vai trò của Công ty Hoàng Cầu. Cần phải làm mối quan hệ giữa Công ty Hoàng
Cầu với nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để xác định vai
trò tố tụng của Công ty Hoàng Cầu trong vụ án. Tại Biên bản xác minh ngày
23/01/2024 của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng tại Trụ sở Công ty Hoàng
Cầu thể hiện do các phiếu cược CONT của Công ty S ghi tên Công ty Hoàng
Cầu : “Công ty S đi cược thay CONT cho hàng hoá của Công ty Hoàng Cầu để được
làm dịch vụ vận chuyển. Số tiền cược CONT do Công ty S tự chi ra thu về sau khi
đã trả vỏ công. Công ty Hoàng Cầu không liên quan đến các khoản tiền Công ty S
bỏ ra để cược CONT không liên quan đến việc vay nợ giữa Thu Th Công
ty S”. Do đó, căn cứ khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự, Công ty Hoàng Cầu
không được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này.
[9] Về nội dung kháng nghị Toà án cấp sơ thẩm không đưa những người gồm
bà Phạm Thị Hường, bà Trịnh Thị Vân Chi, ông V Triều, ông Bùi Xuân Đ vào tham
gia tố tụng với cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và ghi lời khai của
họ đlàm rõ vai trò, nhiệm vụ của những người này trong Công ty S, lý do nhận tiền
từ Th, sử dụng khoản tiền đã nhận vào việc gì: Về nội dung này, Hội đồng xét x
nhận thấy Công ty S có tư cách pháp nhân độc lập, dùng chính danh nghĩa của mình
để tham gia vào các giao dịch phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của pháp
nhân; giữa Công ty S những người nêu trên chỉ quan hệ phát sinh trong hoạt
động quản nội bcủa Công ty nên việc đưa những người này tham gia tố tụng với
cách là người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không cần thiết. Trong trường
hợp có căn cứ xác định những người trên thực hiện các giao dịch nhận tiền từ Th
làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của Công ty S thì Công ty quyền khởi kiện
những cá nhân này bằng một vụ án khác.
[10] Về nội dung kháng nghị Tán cấp sơ thẩm chưa làm việc ông Khổng
Trung Nh nhận tiền từ Th nhưng không giao nộp lại cho kế toán để hạch toán vào
nguồn thu, chi của Công ty chỉ lập bảng theo dõi diễn dải sử dụng tiền theo
sự chỉ đạo của bà Ch; bảng theo dõi diễn giải là bản phô tô đánh máy không có chữ
đóng dấu Công ty nên không khách quan: Xét thấy việc sau khi nhận được
tiền từ bà Th, ông Nh (với chức danh là Giám đốc Công ty) chỉ lập bảng để tự theo
dõi tiền cược CONT, sử dụng tiền theo sự chỉ đạo của bà Ch mà không giao lại cho
kế toán Công ty các vấn đề thuộc phạm vi điều hành, quản nguồn tài chính
mang tính nội bộ của Công ty S, nếu ông Nh sai phạm trong thực hiện chức năng,
nhiệm vụ được giao tại Công ty thì chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về
lao động và điều lệ Công ty, đây là hoạt động nội bộ của Công ty.
[11] Như vậy, tại thời điểm Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng kháng
nghị phần có căn cứ. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm,
14
Toà án đã thu thập và các đương sự đã cung cấp bổ sung các tài liệu, chứng cứ. Xét
thấy đã đủ căn cứ buộc bị đơn phải trả nguyên đơn số tiền 5.390.000 đồng và tranh
chấp được xác định là tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng đề nghị không huỷ,
không sửa mà giữ nguyên bản án sơ thẩm là căn cứ. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ
thẩm cần rút kinh nghiệm trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ.
[12] Về án phí: Căn cứ Điu 147, 148 B lut T tng dân s; Điều 26, Điều
29 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án:
[12.1] Án phí kinh doanh thương mại thẩm: Do yêu cầu khởi kiện được
chấp nhận nên Thu Th không phải nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S phải nộp tiền án phí kinh doanh thương mại
thẩm là 113.390.000 đồng.
[12.2] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do yêu cầu kháng o
của bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan V Thị Ch không được chấp nhận nên bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu
S và bà V Thị Ch phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điu 35; điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 148, Điều 273, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Ttụng dân sự; các điều
116, 117, 134, 135 của Bộ luật dân sự; khoản 3 Điều 1, khoản 2 Điều 2, khoản 1
Điều 3 Luật Thương mại; các Điều 48, 64 Luật Doanh nghiệp năm 2014;
Căn cứ Điều 26, Điều 29 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty Trách nhiệm Hữu hạn
Xuất nhập khẩu S người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan V Thị Ch, giữ nguyên
Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 09/2023/KDTM-ST ngày 28 tháng 7 năm
2023 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Cụ thể:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Thu Th đối với Công ty
TNHH Xuất nhập khẩu S:
Buộc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S phải trả cho bà Lê Thu Th số tiền là
5.390.000.000 (năm tỷ, ba trăm chín mươi triệu) đồng.
15
Kể từ ngày bà Lê Thu Th đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án
xong, Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân
sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí:
- Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S phải nộp tiền án phí kinh doanh thương mại
sơ thẩm là 113.390.000 (Một trăm mười ba triệu, ba trăm chín mươi nghìn) đồng.
Trả lại cho Thu Th số tiền tạm ứng án phí đã nộp 56.695.000 (năm mươi
sáu triệu, sáu trăm chín mươi lăm nghìn) đồng theo Biên lai số 0009598 ngày
08/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.
- Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty TNHH Xuất nhập khẩu
S V Thị Ch mỗi bên phải nộp án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm
2.000.000 (hai triệu) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo
Biên lai số 0002522 ngày 18/8/2023 Biên lai số 0002523 ngày 18/8/2023 của Chi
cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Công ty TNHH
Xuất nhập khẩu S và bà V Thị Ch đã nộp đủ.
3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án
dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND TP Hải Phòng;
- TAND quận Hồng Bàng;
- Chi cục THADS quận Hồng Bàng;
- Các đương sự (để thi hành);
- Lưu: HSVA, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
16
Tải về
Bản án số 04/2024/KDTM-PT Bản án số 04/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 04/2024/KDTM-PT Bản án số 04/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất