Bản án số 822/2024/DS-PT ngày 24/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 822/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 822/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 822/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 822/2024/DS-PT ngày 24/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 822/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 822/2024/DS-PT
Ngày 24 - 9 - 2024
V/v: “Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất; tuyên hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu;
yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và đòi lại tài sản, tháo dỡ di dời
tài sản công trình trên đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
Ông Vương Minh Tâm
Bà Trần Thị Hoà Hiệp
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Châu Loan - Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh:
Ông Nguyễn Văn Phượng - Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 24 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai, vụ án thụ lý số: 429/2024/TLPT-DS
ngày 29 tháng 5 năm 2024 về việc “Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất; tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu; yêu cầu
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản, tháo dỡ di dời tài sản
công trình trên đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DS-ST ngày 20 tháng 6 năm 2023 của
Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2248/2024/QĐ-PT ngày
22 tháng 7 năm 2024, Quyết định hoãn phiên toà số: 318/2024/QĐ-PT ngày 19
tháng 8 năm 2024, Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2782/2024/QĐ-
PT ngày 26 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Từ Bá S, sinh năm 1933 (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Từ Bá Đ, sinh năm 1966
(Văn bản ủy quyền ngày 10/8/2016) (có đơn xin vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số A, Tổ C, ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Thanh T - Đoàn Luật
sư tỉnh Đ (có đơn xin vắng mặt).
Địa chỉ: Số B hẻm A B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1972 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp G, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Thu D (vắng mặt);
Địa chỉ: Tổ G, ấp A, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân huyện L;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Mạnh H – Phó trưởng phòng T8
(có đơn xin vắng mặt).
2. Ông Vũ Hồng P, sinh năm 1968 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp G, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai
3. Bà Đinh Thị Ánh L, sinh năm 1976 (vắng mặt);
4. Ông Thái Quốc S1, sinh năm 1971 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số H đường N, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của ông S1: Ông Phạm Văn T1 (có mặt);
Địa chỉ: Số B, đường số A, khu phố C, phường L, quận T, Thành phố Hồ
Chí Minh.
5. Bà Quách Thị H1 (đã chết năm 2014);
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà Quách Thị H1 (đã chết năm 2014)
gồm 09 người con:
5.1. Ông Từ Bá K, sinh năm 1964 (vắng mặt);
Địa chỉ: Tổ C, ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
5.2. Ông Từ Bá Đ, sinh năm 1966 (có đơn xin vắng mặt);
Địa chỉ: Số A, Tổ C, ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
5.3. Ông Từ Bá C, sinh năm 1968 (đã chết năm 2022);
Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông Từ Bá C:
5.3.1. Bà Võ Thị Ngọc M, sinh năm 1970 (vợ ông C) (vắng mặt);
5.3.2. Ông Từ Bá V, sinh năm 1997 (vắng mặt);
5.3.3. Bà Từ Thị Kim N, sinh năm 2002 (vắng mặt);
5.3.4. Bà Từ Thị Kim T2, sinh năm 2002 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp F, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
5.3.5. Bà Từ Thị Kim O, sinh năm 1992 (vắng mặt);
3
Địa chỉ: Ấp S, xã M, huyện H, tỉnh Bình Phước.
5.4. Bà Từ Thị Kim N1, sinh năm 1973 (vắng mặt);
Địa chỉ: Tổ C, Ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
5.5. Bà Từ Thị Kim C1, sinh năm 1975 (vắng mặt);
5.6. Bà Từ Thị Hồng N2, sinh năm 1984 (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của bà N2: Ông Từ Bá Đ, sinh năm 1966 (có
đơn xin vắng mặt);
+ Ông Dương Quân P1, sinh năm 1977 (chồng của bà Từ Thị Hồng N2);
+ Cháu Dương Văn D1, sinh năm 2008;
+ Cháu Dương Khánh N3, sinh năm 2016;
Người đại diện hợp pháp của cháu D1, cháu N3: Ông Dương Quân P1 và bà
Từ Thị Hồng N2
Cùng địa chỉ: Tổ C, Ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
5.7. Bà Từ Thị Kim T3, sinh năm 1979 (vắng mặt);
+ Ông Nguyễn Thanh H2, sinh năm 1973 (vắng mặt);
5.8. Bà Từ Thị T4, sinh năm 1981 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Tổ C, ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T4: Ông Từ Bá Đ, sinh năm 1966 (có
đơn xin vắng mặt);
Địa chỉ: Số A, Tổ C, ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
5.9. Bà Từ Thị Kim H3, sinh năm 1976 (vắng mặt);
+ Anh Lâm Chí H4, sinh năm 1996;
+ Chị Lâm Thị Bích N4, sinh năm 1999;
Cùng địa chỉ: Tổ C, ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
6. Ông Lê Thuần P2, sinh năm 1964 (vắng mặt);
7. Bà Bùi Thị Thu H5, sinh năm 1969 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Tổ C, ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của ông P2: Ông Từ Bá Đ, sinh năm 1966 (có
đơn xin vắng mặt);
8. Ông Huỳnh Ngọc D2, sinh năm 1959 (vắng mặt);
9. Nguyễn Thị Ngọc T5, sinh năm 1962 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Tổ C, ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của ông D2: Ông Từ Bá Đ, sinh năm 1966 (có
đơn xin vắng mặt);
4
10. Bà Phan Ngọc G1, sinh năm 1982 (vắng mặt);
11. Ông Phan Thành Q, sinh năm 1985 (vắng mặt);
12. Bà Nguyễn Thị Anh T6, sinh năm 1989 (vắng mặt);
13. Bà Phan Ngọc Anh T7, sinh năm 2011(vắng mặt);
Người đại diện hợp pháp của cháu Phan Ngọc Anh T7 là ông Q (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Tổ C, ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
14. Ông Võ Văn Đ1, sinh năm 1963 (vắng mặt);
15. Bà Bùi Thị B, sinh năm 1958 (vắng mặt);
16. Bà Võ Thị Hồng L1, sinh năm 1987 (vắng mặt);
17. Ông Võ Văn Đ2, sinh năm 1990 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Tổ C, ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
18. Ông Từ Bá H6, sinh năm 1946 (vắng mặt);
19. Bà Nguyễn Thị S2, sinh năm 1954 (vắng mặt);
20. Ông Từ Bá H7, sinh năm 1975 (vắng mặt);
21. Ông Từ Bá B1, sinh năm 1979 (vắng mặt);
22. Bà Từ Thị Thảo N5, sinh năm 1989 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Tổ C, ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
23. Ông Lâm Trường G2, sinh năm 1969 (vắng mặt);
24. Ông Lý Minh H8, sinh năm 1982 (vắng mặt);
25. Bà Đặng Thị Hồng L2, sinh năm 1984 (vắng mặt);
26. Cháu Lý Minh N6, sinh năm 2009 (vắng mặt);
27. Cháu Lý Thị Hồng N7, sinh năm 2011 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Tổ C, ấp A, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp của cháu N6, cháu N7: Ông Lý Minh H8, bà Đặng
Thị Hồng L2 (vắng mặt);
28. Bà Lê Thị Thu D (vắng mặt);
Địa chỉ: Số B, Tổ C, ấp C, phường T, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
29. Phòng C2, tỉnh Đồng Nai (có đơn xin vắng mặt);
- Người kháng cáo: Ông Thái Quốc S1 là người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn là ông Từ Bá Đ trình bày:
5
Ngày 19/6/2008 vợ chồng ông S, bà H1 có vay của bà Nguyễn Thị G số tiền
là 100.000.000 đồng lãi suất theo ngân hàng, thời hạn vay là 36 tháng. Thực tế
giữa ông S, bà H1 và bà G không có thỏa thuận mua bán đất. Thế nhưng lấy lý do
bảo đảm cho việc trả tiền vay, bà G yêu cầu cha mẹ ông là ông S, bà H1 đến Phòng
C2 để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích 2.112m
2
thuộc thửa đất số 166, tờ bản đồ 15 tọa lạc tại xã P. Do không hiểu biết, ông S và
bà Huỳnh n chỉ ký hợp đồng để làm tin nên đã đồng ý ký vào hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Khi vay tiền, ông S và bà H1 đã giao giấy chứng nhận
QSDĐ cho bà G và cũng trong ngày này bà G và ông S, bà Huỳnh l hợp đồng thỏa
thuận viết tay giữa bên giao là ông S, bà H1 với bên nhận là bà Nguyễn Thị G với
nội dung: “Vợ chồng tôi đồng ý ký chuyển đất cho chị G một giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số K505801, diện tích 2.112m
2
để vay số tiền 100.000.000
đồng đóng lãi suất ngân hàng, trong thời gian 36 tháng, khi ông S bà H1 trả lại
100.000.000 đồng thì bà Nguyễn Thị G, chứng minh nhân dân số 272147075 ngụ
Ấp G, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai phải có trách nhiệm trả lại sổ cho ông S và
bà H1, ông S và bà H1 không lấy lại sổ trước 36 tháng”. Sau đó ông S, bà H1 vay
thêm 15.000.000 đồng của bà G. Tổng cộng là 115.000.000 đồng.
Ngày 07/01/2010, UBND xã P mời ông S, bà H1 đến làm việc, lúc này ông
bà mới biết bà Đinh Thị Ánh L yêu cầu bà G phải giao phần diện tích đất 2.112m
2
thuộc thửa đất số 166, tờ bản đồ 15 mà gia đình chúng tôi đang quản lý sử dụng
cho bà L. Bởi vì sau khi ông S, bà H1 ký hợp đồng tại Phòng Công chứng, bà G
đã làm thủ tục sang tên chủ quyền đất đứng tên bà G. Sau đó ngày 23/7/2008, bà
G đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Đinh Thị Ánh L và
hiện nay bà L đứng tên trên giấy chứng nhận QSDĐ. Việc hòa giải không thành
vì thực chất không có việc mua bán giữa đôi bên mà chỉ là hình thức vay tiền. Bà
G đồng ý trả 400.000.000 đồng cho bà L để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất về trả cho vợ chồng ông S, bà H1 nhưng bà L lại cho rằng đã đưa
1.300.000.000 đồng cho bà G nên không đồng ý nhận lại 400.000.000 đồng và
không đồng ý trả giấy CNQSDĐ. UBND xã P đã kết luận bà L và bà G tự thanh
toán nợ cho nhau còn cha mẹ ông S, bà H1 có trách nhiệm trả bà G 115.000.000
đồng. Biên bản này vợ chồng bà G, ông P và bà L đều ký xác nhận rõ ràng.
Ngày 07/5/2010, bà G có làm cam kết thỏa thuận với ông Từ Bá Đ là con
trai ông S và bà H1 với nội dung kể từ ngày hôm nay không tính tiền lãi suất nữa,
hẹn đến ngày 19/6/2011 bà sẽ làm thủ tục để trả giấy chứng nhận QSDĐ cho ông
S, bà H1, nhưng do bà L, ông S1 không trả lại sổ nên bà G cũng không có để giao
lại cho gia đình ông.
Tại Biên bản hòa giải ngày 10/5/2011 tại xã P bà G trình bày là đang tìm
cách lấy lại số đỏ (do bà L giữ) để trả lại cho gia đình ông và đồng ý hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký với cha mẹ ông.
Sau đó bà L đã làm đơn kiện ông S, bà H1 tại Tòa án nhân dân huyện Long
Thành. Trong quá trình làm việc với Tòa án nhân dân huyện Long Thành, Tòa án
tỉnh Đồng Nai bà G, bà Lê Thị Thu D, đều trình bày là không có việc mua bán đất
đai với bà L - ông S1. Giấy tờ đã ký chỉ là giao dịch giả tạo để đảm bảo trả nợ vay
6
của bà G, bà D với bà L, ông S1. Số tiền 1.300.000.000 đồng ông S1 và bà L giao
dịch với bà D không có liên quan đến gia đình ông. Đây là việc vay mượn giữa
bà G, bà D với ông S1, bà L, không phải là việc mua bán đất. Bằng chứng rõ ràng
nhất thể hiện tại hợp đồng vay tiền ngày 30/6/2008 có chữ ký của ông S1: bên cho
vay là ông S1, bên vay là bà D có nội dung ông S1 cho bà D vay 1.135.000.000
đồng trong thời hạn 3 tháng, bà D phải thanh toán làm 03 lần. Bà G đứng ra dùng
tài sản thế chấp là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 166, tờ bản đồ số 15,
diện tích 2.112m
2
của gia đình ông.
Qua các tài liệu trên có đủ cơ sở để xác định bản chất các giao dịch: ông S,
bà H1 và bà G là vay mượn tiền, không có việc mua bán đất, các hợp đồng chuyển
nhượng đất đã ký đều là giả tạo nên không có giá trị pháp lý.
Tòa án nhân dân huyện Long Thành tuyên bà L thắng kiện. Rất bức xúc nên
gia đình ông đã làm đơn. Đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai kháng
nghị bản án sơ thẩm và đã được chấp nhận. Ngày 07/8/2013, Tòa án tỉnh Đồng
Nai ban hành quyết định giám đốc thẩm và đã hủy toàn bộ nội dung bản án dân
sự sơ thẩm số 31/2011/DSST ngày 10/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện Long
Thành.
Ngày 24/10/2013 Tòa án nhân dân huyện Long Thành thụ lý để giải quyết
lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Ngày 09/8/2016, ông Phạm Văn T1 là người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Đinh Thị Ánh L nộp đơn xin rút lại toàn
bộ đơn khởi kiện.
Trước đó ông S, bà H1 có cho các con đất và cất nhà ở trên đất và chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho một số người như sau:
+ Năm 2003, cho ông Từ Bá Đ diện tích đất khoảng 140m
2
để làm nhà ở.
+ Năm 2000 cho con gái là bà Từ Thị H3 diện tích đất ngang 10m dài 20m,
tổng diện tích là 200m
2
và bà H3 đã cất nhà trên đất để ở, nhà có diện tích khoảng
44m
2
, hiện chị H3 và chồng chị H3 là anh Lâm Trường G2 cùng các con là Lâm
Chí H4, Lâm Thị Bích N4 đang sinh sống trên đất. Năm 2005, có sang nhượng
một phần diện tích đất được bố mẹ cho, sang cho anh Lý Minh H8 diện tích đất
80m
2
ngang 5m dài 16m (BL234).
+ Năm 2007 cho ông Từ Bá H6 (em của ông S) diện tích đất 370m
2
, ông H6
đã cất nhà cấp 4 diện tích khoảng 120m
2
, hiện nhà do ông H6 và vợ là bà Nguyễn
Thị S2, ông Từ Bá H7, ông Từ Bá B1, bà Từ Thị Thảo N5 đang quản lý, sử dụng
(BL235).
+Năm 2004, chuyển nhượng cho vợ chồng anh Huỳnh Ngọc D2, chị Nguyễn
Thị Ngọc T5 diện tích 160m
2
(ngang 8m, dài 20m) chưa có nhà trên đất, nhưng
anh D2 đã cắm mốc làm ranh rõ ràng, việc chuyển nhượng chỉ làm giấy tay, giá
27.000.000 đồng (BL249).
+ Năm 2004, chuyển nhượng cho anh Lê Thuần P2, vợ là Bùi Thị Thu H5
diện tích đất khoảng 120m
2
(ngang 6m dài 20m), giá chuyển nhượng là
7
17.000.000 đồng, sau khi nhận chuyển nhượng anh P2 và chị H5 đã cất nhà trên
đất, việc chuyển nhượng chỉ làm giấy tay (BL249).
+ Năm 1993, chuyển nhượng cho vợ chồng chị Bùi Thị B, anh Võ Văn Đ1
diện tích đất ngang 8m dài 23m, tổng diện tích 184m
2
, giá chuyển nhượng là
32.000.000 đồng,việc chuyển nhượng chỉ bằng giấy tay. Năm 2006, bà B và ông
Đ1 đã cất nhà cấp 4 trên đất diện tích ngang 5 dài hết đất, sử dụng ổn định cùng
các con là bà Võ Thị Hồng L1, ông Võ Văn Đ2 đến nay (BL232).
+ Năm 2005, bà Từ Thị H3 chuyển nhượng cho anh Lý Minh H8 diện tích
đất 80m
2
ngang 5m dài 16m, đây là đất ông S, bà H1 cho bà H3 nên để bà H3
đứng ra chuyển nhượng, việc chuyển nhượng chỉ bằng giấy tay, giá chuyển
nhượng là 12.000.000 đồng. Năm 2007, anh H8 lấy chị Đặng Thị Hồng L2. Năm
2010 anh H8, chị L2 đã làm nhà cấp 4 trên đất để ở cùng các con là Lý Minh N6,
Lý Thị Hồng N7 từ đó đến nay (BL239).
+ Năm 2004, chuyển nhượng cho chị Phan Ngọc G1 diện tích đất 115m
2
ngang 5m dài 23m, việc chuyển nhượng chỉ bằng giấy tay, giá chuyển nhượng là
19.000.000 đồng và đã làm nhà cấp 4 trên đất để ở từ năm 2004 đến nay. Hiện
nay trên đất có bà Phan Ngọc G1, ông Phan Thành Q, bà Nguyễn Thị Anh T6, bà
Phan Ngọc A Thư sinh sống.
Các con của ông S, bà H1 và những người nhận chuyển nhượng đất đã làm
nhà và sinh sống ổn định trên đất lâu nay, những người ở trên đất không tham gia
vào việc vay mượn tiền. Vì thế, nay ông S1 có yêu cầu buộc ông Từ Bá S, bà
Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng P và những người sinh sống trên đất phải tháo dỡ
nhà, di dời tài sản trên đất để trả lại quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Thái
Quốc S1 là quyền sử dụng đất có diện tích 2.112m
2
thuộc thửa đất số 166, tờ bản
đồ số 15, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Gia đình ông và những người đang ở trên
đất không đồng ý với yêu cầu của ông S1.
Nay ông S khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai:
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 12/2008 do Phòng
C2 tỉnh Đồng Nai công chứng ngày 19/6/2008 giữa ông Từ Bá S, bà Quách Thị
H1 với bà Nguyễn Thị G là vô hiệu vì có yếu tố giả tạo.
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 164/2008 ngày
28/7/2008 tại Phòng C2 giữa bà Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng P với bà Đinh Thị
Ánh L.
- Hủy Giấy CNQSDĐ số K505801 do UBND huyện L cấp cho ông Từ Bá S
ngày 30/9/1998 và đã chỉnh lý sang tên cho bà Đinh Thị Ánh L ngày 31/12/2008.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút
yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K505801 do UBND huyện L
cấp cho ông Từ Bá S ngày 30/9/1998 và đã chỉnh lý sang tên cho bà Đinh Thị
Ánh L ngày 31/12/2008. Việc trả tiền cho bà G, ông S sẽ tự liên hệ và trả cho bà
G không yêu cầu Tòa án giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của
hợp đồng vô hiệu.
8
Bị đơn bà Nguyễn Thị G và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Vũ
Hồng P, bà Đinh Thị Ánh L, bà Lê Thị Thu D. Trong quá trình giải quyết vụ án bị
đơn, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được Tòa án triệu tập nhiều lần
lên làm việc nhưng vắng mặt, nên không có lời khai.
Theo bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa,
người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Thái
Quốc S1 là ông Phạm Văn T1 trình bày:
Ngày 28/7/2008, bà Đinh Thị Ánh L (vợ ông Thái Quốc S1) có nhận chuyển
nhượng của ông Vũ Hồng P và bà Nguyễn Thị G (có tên nêu trên) quyền sử dụng
2.112m
2
đất thuộc thửa 166, tờ bản đồ số 15, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Hai
bên làm thủ tục chuyển nhượng đất theo hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày
28/7/2008 tại Phòng C2 tỉnh Đồng Nai; giá chuyển nhượng hai bên thoả thuận là
1.300.000.000 đồng (một tỷ ba trăm triệu).
Bà L đã giao và bà G đã nhận đầy đủ số tiền chuyển nhượng như thoả thuận
và đã được UBND huyện L cấp Giấy chứng nhận QSDĐ ngày 31/12/2008. Tiền
nhận chuyển nhượng đất là tài sản chung của vợ chồng ông S1, bà L. Như vậy, từ
ngày 31/12/2008, toàn bộ quyền sử dụng 2.112m
2
đất nêu trên thuộc quyền sử
dụng hợp pháp của vợ chồng ông Thái Quốc S1, bà Đinh Thị Ánh L.
Quá trình xem đất: Bà L được bà G dẫn đến xem đất trước khi sang nhượng.
Khi xem đất, có thấy một số căn nhà trên đất nhưng bà G chỉ phần đất trống và
nói khi đo đạc lại cụ thể mới biết đúng vị trí. Đồng thời, bà G cam kết sẽ giao đất
đúng như Giấy chứng nhận nếu bà L nhận chuyển nhượng. Khi kiểm tra giấy tờ
thấy hợp lệ nên bà L đồng ý nhận chuyển nhượng. Hai bên có thoả thuận miệng
thời hạn giao đất là 03 tháng. Hết thời hạn thoả thuận, bà L đến nhận đất. Lúc này,
gặp sự cản trở của ông Từ Bá S, ông S cho rằng đất này là của ông nên không
đồng ý giao đất cho bà L.
Về nguồn gốc đất: trước đây là của vợ chồng ông Từ Bá S và bà Quách Thị
H1, đã được cấp giấy chứng nhận năm 1998. Đến ngày 19/6/2008, ông S và bà
H1 chuyển nhượng lại toàn bộ phần đất này cho ông P, bà G. Tuy nhiên, ông S và
bà H1 và một số hộ khác hiện đang ở trên phần đất này, không đồng ý di dời để
bàn giao trả lại quyền sử dụng đất theo yêu cầu của bà L. Đối với yêu cầu khởi
kiện của ông Từ Bá S: Yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số 12/2008 do Phòng C2 tỉnh Đồng Nai công chứng ngày 19/6/2008 vô hiệu
do có yếu tố giả tạo. Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
164/2008 ngày 28/7/2008 giữa bà Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng P với bà Đinh Thị
Ánh L. Hủy Giấy CNQSDĐ số K505801 do UBND huyện L cấp cho ông Từ Bá
S ngày 30/9/1998 và đã chỉnh lý sang tên cho bà Đinh Thị Ánh L ngày 31/12/2008.
Ông S1 không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện trên. Bởi lẽ, ông S1, bà
L là người thứ ba ngay tình, bà L nhận chuyển nhượng đất từ bà G, ông P; ông
S1, bà L không biết về thoả thuận giữa ông S với bà G và không buộc phải biết.
Tại thời điểm nhận chuyển nhượng, bà G là người sử dụng đất hợp pháp, được
Nhà nước công nhận bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do việc chuyển
9
nhượng diễn ra đã lâu, nay các giấy tờ về việc giao nhận tiền đã bị thất lạc, ông
S1 không thể cung cấp cho Tòa.
Do đó, nay thay mặt ông Thái Quốc S1, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Nai xem xét, giải quyết: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Từ
Bá S.
Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Thái Quốc S1. Buộc ông
Từ Bá S, bà Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng P và những người sinh sống trên đất
phải tháo dỡ nhà, di dời tài sản trên đất để trả lại quyền sử dụng đất cho vợ chồng
ông Thái Quốc S1, bà Đinh Thị Ánh L là quyền sử dụng đất có diện tích 2.112m
2
thuộc thửa đất số 166, tờ bản đồ số 15, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Không đề
nghị Tòa án giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu.
Theo bản tự khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (con, cháu của
ông S, bà H1) ông Từ Bá K, ông Từ Bá Đ, bà Từ Thị Kim N1, bà Từ Thị Kim C1,
bà Từ Thị Kim H3, bà Từ Thị Kim T3, bà Từ Thị T4, bà Từ Thị Hồng N2, ông Từ
Bá C (đã chết năm 2022) người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông C gồm
bà Võ Thị Ngọc M, ông Từ Bá V, bà Từ Thị Kim N, bà Từ Thị Kim T2, bà Từ Thị
Kim O trình bày:
Số tiền 1.300.000.000 đồng ông S1 và bà L giao dịch với bà D không có liên
quan đến gia đình ông bà. Đây là việc vay mượn giữa bà D và ông S1 - bà L,
không phải là việc mua bán đất.
Tại buổi hòa giải ngày 07/01/2010 do UBND xã P tổ chức bà L trình bày có
đưa cho bà G 1,3 tỷ, nếu 3-4 tháng không trả được tiền thì bà L lấy đất, nhưng bà
G nói chỉ vay bà L 400.000.000 đồng không có chứng từ và không đồng ý giao
đất.
Ngoài ra, theo hợp đồng vay tiền ngày 30/6/2008 giữa bên cho vay là ông
S1, bên vay là bà D có nội dung ông S1 cho bà D vay 1.135.000.000đ trong thời
hạn 03 tháng, bà D phải thanh toán làm 03 lần. Tài sản thế chấp là giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thửa 166, tờ bản đồ số 15, diện tích 2.112m
2
đứng tên bà
G. Trong tờ giấy vay này chỉ có chữ ký của ông S1, không có chữ ký của bên vay
là bà D.
Những người đang sinh sống ổn định trên đất đều có nhà ở và không có tham
gia việc vay mượn tiền giữa ông S - bà H1 và bà G, cũng như bà D, bà L - ông
S1. Vì thế, nay ông S1 và bà L có yêu cầu nguyên đơn và những người đang sống
trên đất phải trả 1,3 tỷ đồng là không có căn cứ, yêu cầu bà D hay bà G phải giao
thửa đất số 166, tờ bản đồ số 15, diện tích 2.112m
2
cũng không đúng quy định của
pháp luật. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không đồng ý với yêu
cầu của ông S1 - bà L.
Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S - bà H1, bác yêu cầu
của ông S1 và bà L (về yêu cầu giao trả tài sản là quyền sử dụng đất) vì các giao
dịch chuyển nhượng tài sản giữa ông S - bà H1 - bà G và bà G - D - L - Siêu là
giả tạo của việc vay tài sản. Vì không có yêu cầu độc lập gì trong vụ án nên đề
nghị Tòa án cho vắng mặt trong thời gian giải quyết vụ án này.
10
Theo bản tự khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hiện đang sống
trên đất gồm: Ông Lê Thuần P2, bà Bùi Thị H5, ông Huỳnh Ngọc D2, bà Nguyễn
Thị T5, bà Từ Thị Hồng N2, ông Dương Quân P1, cháu Dương Văn D1, cháu
Dương Khánh N3, bà Từ Thị Kim T3, ông Nguyễn Thanh H2, bà Từ Thị T4, bà
Phan Ngọc G1, ông Phan Thành Q, bà Nguyễn Thị Anh T6, bà Phan Ngọc Anh
T7, ông Võ Văn Đ1, bà Bùi Thị B, bà Võ Thị Hồng L1, ông Võ Văn Đ2, ông Từ
Bá H6, bà Nguyễn Thị S2, ông Từ Bá H7, ông Từ Bá B1, bà Từ Thị Thảo N5, ông
Lâm Trường G2, bà Từ Thị Kim H3, Anh Lâm Chí H9, chị Lâm Thị Bích N4, Ông
Lý Minh H8, Bà Đặng Thị Hồng L2, Cháu Lý Minh N6, Cháu Lý Thị Hồng N7
trình bày:
Số tiền 1.300.000.000 đồng ông S1 và bà L2 giao dịch với bà D không có
liên quan đến gia đình ông bà. Đây là việc vay mượn giữa bà D và ông S1 - bà
L2, không phải là việc mua bán đất.
Tại buổi hòa giải ngày 07/01/2010 do UBND xã P tổ chức bà L2 trình bày
có đưa cho bà G 1,3 tỷ, nếu 3-4 tháng không trả được tiền thì bà L2 lấy đất, nhưng
bà G nói chỉ vay bà L2 400.000.000đ không có chứng từ và không đồng ý giao
đất.
Ngoài ra, theo hợp đồng vay tiền ngày 30/6/2008 giữa bên cho vay là ông
S1, bên vay là bà D có nội dung ông S1 cho bà D vay 1.135.000.000đ trong thời
hạn 03 tháng, bà D phải thanh toán làm 03 lần. Tài sản thế chấp là giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thửa 166, tờ bản đồ số 15, diện tích 2.112m
2
đứng tên bà
G. Trong tờ giấy vay này chỉ có chữ ký của ông S1, không có chữ ký của bên vay
là bà D.
Những người đang sinh sống ổn định trên đất đều có nhà ở và không có tham
gia việc vay mượn tiền giữa ông S - bà H1 và bà G, cũng như bà D, bà L2 - ông
S1. Vì thế, nay ông S1 và bà L2 có yêu cầu nguyên đơn và những người đang
sống trên đất phải trả 1,3 tỷ đồng là không có căn cứ, yêu cầu bà D hay bà G phải
giao thửa đất số 166, tờ bản đồ số 15, diện tích 2.112m
2
cũng không đúng quy
định của pháp luật. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không đồng ý
với yêu cầu của ông S1 - bà L2.
Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S - bà H1, bác yêu cầu
của ông S1 và bà L2 (về yêu cầu giao trả tài sản là quyền sử dụng đất) vì các giao
dịch chuyển nhượng tài sản giữa ông S - bà H1 - bà G và bà G - D - L2 - Siêu là
giả tạo của việc vay tài sản. Vì không có yêu cầu độc lập gì trong vụ án nên đề
nghị tòa án cho vắng mặt trong thời gian giải quyết vụ án này.
Ủy ban nhân dân huyện L trình bày ý kiến:
Hồ sơ cấp các Giấy chứng nhận QSDĐ số K505801 ngày 30/9/1998 ghi tên
ông Từ Bá S do Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đ – Chi nhánh L4 cung cấp thể
hiện:
- Về nguồn gốc đất: Phần đất thuộc thửa số 166, tờ bản đồ số 15 xã P có diện
tích 3.610m
2
do ông Từ Bá S khai phá năm 1978, sử dụng ổn định. Ngày
04/6/1997, Hội đồng đăng ký đất xã P có Biên bản họp xét chứng nhận chủ quyền
11
đất Ấp 1B cho 114 hộ gia đình cá nhân. Theo đó, ông Từ Bá S đăng ký thửa số
166, tờ bản đồ số 15 xã P có diện tích 3.610m
2
, loại đất T+CNĐ. Ngày 02/7/1998,
Hội đồng đăng ký đất xã P có Biên bản xét duyệt đề nghị cơ quan nhà nước có
thẩm quyền duyệt và giải quyết cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho 114 hộ gia đình
cá nhân đủ điều kiện, trong đó có ông Từ Bá S. Ngày 10/9/1998, phòng Địa chính
– Nhà đất có Tờ trình số 401/TT-ĐC - về việc xin phê duyệt cấp giấy chứng nhận
QSDĐ xã P – Đợt 06 cho 88 hộ gia đình cá nhân đủ điều kiện cấp giấy chứng
nhận QSDĐ (có Danh sách kèm theo, trong đó có ông Từ Bá S). Ngày 30/9/1998,
UBND huyện L ban hành Quyết định số 1142/QĐ-CT-UBH về việc cấp giấy
chứng nhận QSDĐ cho 81 cá nhân đủ điều kiện tại xã P có tên trong Danh sách
do phòng Địa chính – Nhà đất lập ngày 10/9/1998. Theo đó, ông Từ Bá S được
cấp Giấy chứng nhận QSDĐ số K505801 thuộc thửa số 166, tờ bản đồ số 15 xã P
có diện 3.610m
2
, loại đất: đất T 300m
2
+ đất CNĐ 3.310m
2
. Ngày 01/9/2004,
phòng T8 chỉnh lý trang 04 Giấy chứng nhận QSDĐ số K505801, theo đó: theo
Hợp đồng số 4664/HĐ chuyển cho ông bà Nguyễn Trung H10 diện tích 799m
2
(thổ cư 100m, CNĐ 699m), cắt thửa 166, tờ bản đồ số 15; theo Hợp đồng số
4665/HĐ chuyển cho ông bà Lê Thị Thu H11 diện tích 699m
2
(thổ cư 100m, CNĐ
599m), cắt thửa 166, tờ bản đồ số 15; diện tích còn lại của ông Từ Bá S là 2.112m
2
(trong đó đất thổ cư còn lại 100m
2
). Ngày 19/6/2008, ông Từ Bá S, bà Quách Thị
Huỳnh l1 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất toàn bộ phần diện tích còn
lại nêu trên cho bà Nguyễn Thị G. Hợp đồng đã được Phòng C2 tỉnh Đồng Nai
công chứng số công chứng 12/2008 Quyển số 07/2008-TP/CC-SCC/HĐCN.
Ngày 20/6/2008, Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện L xuất Trích lục và biên vẽ
khu đất bản đồ địa chính số 7248/2008 đối với thửa 166 (2.112m
2
), tờ bản đồ số
15 xã P, loại đất: đất T 100m
2
+ đất LNC 2.012m². Ngày 26/6/2008, phòng T8
chỉnh lý trang 04 Giấy chứng nhận QSDĐ số K505801, theo đó: theo Hợp đồng
số 12/2008 Quyển số 07/2008-TP/CC-SCC/HĐCN ngày 19/6/2008 cho phép ông
bà Từ Bá S chuyển quyền cho bà Nguyễn Thị G diện tích 2.112m
2
(thổ cư
100m,LNC 2.012m
2
) là diện tích còn lại của thửa 166.
Với các nội dung thể hiện nêu trên, nhận thấy: việc UBND huyện L cấp các
Giấy chứng nhận QSDĐ số K505801 ngày 30/9/1998 cho ông Từ Bá S là đảm
bảo về trình tự thủ tục quy định (Đính kèm toàn bộ hồ sơ cấp Giấy chứng nhận
QSDĐ do Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đ – Chi nhánh L4 cung cấp). Trên đây
là nội dung giải trình theo yêu cầu của Tòa án nhân dân tỉnh liên quan đến việc
cấp giấy chứng nhận QSDĐ ghi tên ông Từ Bá S. Nay vì lý do công việc chuyên
môn tại cơ quan nên xin vắng mặt tại các buổi làm việc, đối chất, hòa giải và xét
xử phiên tòa.
Văn phòng C3 -Người đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn Thị Hồng V1
trình bày ý kiến:
Các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Từ Bá S, bà Quách
Thị H1 và bà Nguyễn Thị G số công chứng 12/2008, Quyển số 07/2008 TP/CC-
SCC/HĐCN công chứng ngày 19/06/2008 đối với thửa đất số 166, tờ bản đồ số
15, tọa lạc tại xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai và Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng P và bà Đinh Thị Ánh L số công
12
chứng 164/2008, Quyển số 07/2008 TP/CC-SCC/HĐCN công chứng ngày
28/07/2008 đối với thửa đất số 166, tờ bản đồ số 15 tọa lạc tại xã P, huyện L, tỉnh
Đồng Nai. Các bên tham gia hợp đồng đã tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng
và cam đoan chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung hợp đồng, tại thời điểm
công chứng các bên giao kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự theo quy định
của pháp luật, cuối bản hợp đồng các bên đều có ký tên, điểm chỉ trong hợp đồng.
Việc công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên đã đảm
bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định Luật Công chứng.
Do công việc nhiều và cơ quan chỉ có một lãnh đạo nên không bố trí được
công việc để tham gia trong các phiên tòa (làm việc, hòa giải, giải quyết, công
khai chứng cứ, xét xử vắng mặt phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm).
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DS-ST ngày 20/6/2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Đồng Nai đã tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Từ Bá S.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 12/2008 do Phòng
C2 tỉnh Đồng Nai công chứng ngày 19/6/2008 giữa ông Từ Bá S, bà Quách Thị
H1 với bà Nguyễn Thị G là vô hiệu vì có yếu tố giả tạo.
- Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 164/2008 ngày
28/7/2008 giữa bà Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng P với bà Đinh Thị Ánh L.
- Đình chỉ yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ số K505801 do UBND huyện L cấp
cho ông Từ Bá S ngày 30/9/1998 đã chỉnh lý sang tên cho bà Đinh Thị Ánh L
ngày 31/12/2008.
Các đương sự có quyền liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền quản lý về
đất đai để chỉnh lý biến động, cập nhật làm lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất theo quy định của pháp luật.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Thái Quốc S1 về việc buộc ông
Từ Bá S, bà Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng P và những người sinh sống trên đất
phải tháo dỡ nhà, di dời tài sản trên đất để trả lại quyền sử dụng đất cho vợ chồng
ông Thái Quốc S1, bà Đinh Thị Ánh L là quyền sử dụng đất có diện tích 2.112m
2
thuộc thửa đất số 166, tờ bản đồ số 15, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai
Do bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc
lập và bà G, bà L không có yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu nên
dành quyền khởi kiện cho bà G, bà L bằng vụ án khác.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm,
trách nhiệm thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 30/6/2023 ông Thái Quốc S1 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm,
đề nghị cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm vì lời khai của các đương sự mâu thuẫn,
Toà không tiến hành đối chất để xác định sự thật của vụ án, chưa thu thập, đánh
giá chứng cứ đầy đủ dẫn đến việc xét xử không khách quan.
13
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T1 đại diện cho ông Thái Quốc S1 vẫn giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo. Người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Ông T1 đại diện cho ông Thái Quốc S1 trình bày: Ông S1 kháng cáo không
có chứng cứ mới. Vợ chồng S1 - L nhận chuyển nhượng hợp pháp, ngay tình. Bà
G đứng tên quyền sử dụng đất, chuyển nhượng có công chứng theo quy định, cấp
giấy cho bà L đúng trình tự thủ tục. Việc vay tiền giữa bà G, ông P với ông S, bà
H1 thì ông S1, bà L không biết và không buộc phải biết. Bà G không cung cấp
cho bà L biết. Chứng cứ nguyên đơn đưa là giấy giao tiền bà G giao cho bà L 40
triệu đồng, không có khách quan vì không có chữ ký của bà L. Hợp đồng vay tiền
ngày 30/6/2008 ông S1 cho bà D vay 1.135.000.000 đồng, không có chữ ký của
ông S1, không có chữ ký của bà D. Không có liên quan đến việc chuyển nhượng
giữa ông S1, bà L với bà G vì bà G, ông S1 không có quan hệ vay mượn. Lời khai
của bà G, bà D xác nhận quan hệ vay mượn của ông S1, bà L. Toà án cấp sơ thẩm
đưa bà D vào tham gia vụ án nhưng không triệu tập hợp lệ, chỉ có một số người
ủy quyền cho ông Đ. Văn bản gửi về cho bà L lấy địa chỉ của ông S1. Toà án cấp
sơ thẩm tuyên hợp đồng vô hiệu, không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Lời khai mâu thuẫn nhưng không đối chất. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy án sơ
thẩm.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc
tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự tham gia tố tụng chấp hành
đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nội dung: Xét kháng cáo của ông S1. Đại diện theo ủy quyền của ông S1 đề
nghị hủy án. Do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà G, ông P với
ông S1, bà L bị hủy. Thửa đất không thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông S1,
bà L. Tại đơn yêu cầu của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, ông Thái Quốc
S1 khai phần đất tranh chấp trong Giấy CNQSDĐ số K505801 do UBND huyện
L cấp cho ông Từ Bá S ngày 30/9/1998. do vợ ông là Đinh Thị Ánh L tự mua
bằng nguồn tiền riêng của mình và kê khai, đăng ký ghi tên là tài sản riêng theo
quy định của pháp luật, sự việc này ông biết và đồng ý đây là tài sản riêng của vợ
ông. Các quyền và nghĩa vụ liên quan phát sinh từ phần tài sản này không ảnh
hưởng gì đến cá nhân ông. Bà Đinh Thị Ánh L cũng xác định tài sản tranh chấp
là tài sản riêng của bà L. Cả bà L và ông S1 đều xác định tài sản tranh chấp trong
vụ án là tài sản riêng của bà L. Ông S1 không có quyền lợi và nghĩa vụ đối với
phần đất tranh chấp này. Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông S1 là có căn cứ. Ông S1 kháng cáo không cung cấp chứng cứ gì mới làm
thay đổi nội dung vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo
của ông S1, giữ y án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
14
[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ
lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
Các đương sự đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét
xử tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của ông Thái Quốc S1, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Nguyên đơn trình bày ngày 19/6/2008 vợ chồng ông S, bà H1 có vay
của bà Nguyễn Thị G số tiền là 100.000.000 đồng lãi suất theo ngân hàng, thời
hạn vay là 36 tháng. Để bảo đảm cho việc trả tiền vay, bà G, ông S, bà H1 đến
Phòng C2 để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích
2.112m
2
thuộc thửa đất số 166, tờ bản đồ 15 tọa lạc tại xã P. Do không hiểu biết,
ông S và bà Huỳnh n chỉ ký hợp đồng để làm tin nên đã đồng ý ký vào hợp đồng
này. Khi vay tiền, ông S và bà H1 đã giao giấy chứng nhận QSDĐ cho bà G và
cũng trong ngày này, bà G và ông S, bà Huỳnh l1 hợp đồng thỏa thuận viết tay
với nội dung: Ông S, bà H1 đồng ý ký chuyển đất cho bà G để vay 100.000.000
đồng trong thời gian 36 tháng, khi ông S - bà H1 trả lại 100.000.000đ thì bà G trả
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, ông S - bà H1 vay thêm
15.000.000 đồng của bà G, tổng cộng là 115.000.000 đồng. Ngày 23/7/2008, để
đảm bảo khoản nợ cho bà D, bà G và ông P đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho bà Đinh Thị Ánh L và hiện nay bà L đứng tên trên giấy chứng
nhận QSDĐ. Nguyên đơn đề nghị tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số 12/2008 do Phòng C2 tỉnh Đồng Nai công chứng ngày 19/6/2008 giữa
ông Từ Bá S, bà Quách Thị H1 với bà Nguyễn Thị G là vô hiệu vì có yếu tố giả
tạo; hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 164/2008 ngày 28/7/2008
giữa bà Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng P với bà Đinh Thị Ánh L. Hủy Giấy
CNQSDĐ số K505801 do UBND huyện L cấp cho ông Từ Bá S ngày 30/9/1998
đã chỉnh lý sang tên cho bà Đinh Thị Ánh L ngày 31/12/2008.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Thái Quốc S1 không đồng ý với
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông S1 cho rằng bà Đinh Thị Ánh L
(vợ ông Thái Quốc S1) có nhận chuyển nhượng của ông Vũ Hồng P và bà Nguyễn
Thị G quyền sử dụng 2.112m
2
đất thuộc thửa 166, tờ bản đồ số 15, xã P, huyện L,
tỉnh Đồng Nai. Hai bên làm thủ tục chuyển nhượng đất theo hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ ngày 28/07/2008 tại Phòng C2, tỉnh Đồng Nai; giá chuyển nhượng
hai bên thoả thuận là 1.300.000.000 đồng (một tỷ ba trăm triệu đồng) và bà L đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cập nhật tại trang 4, việc nhận
chuyển nhượng trên là mua bán đất không phải là đảm bảo cho việc vay mượn.
Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Thái Quốc s. Buộc ông Từ Bá
S, bà Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng P và những người sinh sống trên đất phải tháo
dỡ nhà, di dời tài sản trên đất để trả lại quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Thái
Quốc S1, bà Đinh Thị Ánh L là quyền sử dụng đất có diện tích 2.112m
2
thuộc
thửa đất số 166, tờ bản đồ số 15, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
[2.2] Trước đây, vụ án này đã được khởi kiện và thụ lý giải quyết tại Tòa án
nhân dân huyện Long Thành, nguyên đơn là bà Đinh Thị Ánh L, bị đơn là ông Từ
15
Bá S, bà Quách Thị H1 khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất đối với diện tích
2.112m
2
thuộc thửa đất số 166, tờ bản đồ 15 tọa lạc tại xã P. Ngày 10/6/2011, Tòa
án nhân dân huyện Long Thành xét xử, tại Bản án sơ thẩm số 31/2011/DS-ST
tuyên bà L thắng kiện. Bản án số 31/2011/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện
Long Thành bị kháng cáo, ngày 18/6/2012 Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai có
Quyết định đình chỉ vụ án số 15/2012/QĐ-PT do một số người kháng cáo đã được
Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt và có một số người rút kháng
cáo. Ngày 02/8/2013, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có
Quyết định kháng nghị số 208/QĐKNGĐT-P5 kháng nghị Bản án sơ thẩm số
31/2011/DS-ST ngày 10/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành. Ngày
07/8/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định giám đốc thẩm
số 15/2013/DS-GĐT, chấp nhận Quyết định kháng nghị số 208/QĐKNGĐT-P5
ngày 02/8/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, hủy toàn
bộ Bản án sơ thẩm số 31/2011/DS-ST ngày 10/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện
Long Thành do không đưa bà Lê Thị Thu D và ông Thái Quốc S1 vào tham gia
tố tụng là bỏ lọt tư cách đương sự.
Ngày 24/10/2013, Tòa án nhân dân huyện Long Thành thụ lý để giải quyết
lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Ngày 09/8/2016, ông Phạm Văn T1 là người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Đinh Thị Ánh L nộp đơn xin rút lại toàn
bộ đơn khởi kiện. Tòa án nhân dân huyện Long Thành đã ban hành Quyết định
đình chỉ vụ án số 96/2016/QĐST-DS ngày 07/9/2016.
Ngày 21/10/2016, ông Từ Bá S khởi kiện vụ án tại Tòa án nhân dân huyện
Long Thành. Ngày 04/01/2017, Tòa án nhân dân huyện Long Thành có Quyết
định chuyển vụ án số 01/2017/QĐST-DS. Ngày 01/3/2017, Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai thụ lý vụ án.
[2.3] Về nguồn gốc diện tích đất tranh chấp và quá trình sử dụng.
Nguồn gốc diện tích đất 2.112m
2
, thửa 166 tờ bản đồ số 15, xã P, mà các
đương sự đang tranh chấp là do Ủy ban nhân dân huyện L cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số K505801 ngày 30/9/1995 cho ông Từ Bá S (ông S được cấp
quyền sử dụng 3.610m
2
nhưng năm 2004 đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn
Trung H10 799m
2
, bà Lê Thị Thu H11 diện tích 699m
2
, diện tích sau khi chuyển
nhượng còn lại 2.112m
2
).
Ngày 19/6/2008, vợ chồng ông S và bà H1 chuyển nhượng diện tích đất
2.112m
2
cho bà Nguyễn Thị G và ông Vũ Hồng P thông qua hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất được Phòng C2 tỉnh Đồng Nai công chứng.
Ngày 26/6/2008, Phòng T8 chính lý trang 04 Giấy chứng nhận QSDĐ số
K505801 sang tên bà Nguyễn Thị G.
Ngày 28/7/2008, vợ chồng bà G chuyển nhượng diện tích đất 2.112m
2
cho
bà Đinh Thị Ánh L3. Hợp đồng được Phòng C2 tỉnh Đồng Nai công chứng số
164/2008 Quyển số 07/2008-TP/CC-SCC/HĐCN (BL 272-273). Đến ngày
31/12/2008, Phòng T8 chỉnh lý trang 04 Giấy chứng nhận QSDĐ số K505801
sang tên bà Đinh Thị Ánh L.
16
Hồ sơ thể hiện, trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng đất cho vợ chồng bà
G thì vợ chồng ông S đã tặng cho, chuyển nhượng một phần diện tích đất cho một
số hộ dân gồm: Ông Từ Bá Đ 140m
2
(cho năm 2002); bà Từ Thị H3 120m
2
(cho
năm 2000); bà Nguyễn Thị G3 115m
2
(sang nhượng năm 2004); ông Lý Minh H8
80m
2
(sang nhượng năm 2004); ông Lê Thuần P2 120m
2
(sang nhượng năm 2004);
ông Huỳnh Ngọc D2 160m
2
(sang nhượng năm 2004); ông Từ Bá H6 370m
2
(cho
năm 2007); ông Võ Văn Đ1 184m
2
(sang nhượng năm 2005). Những người này
đã xây dựng nhà ở, sinh sống ổn định từ đó đến nay nhưng chưa làm thủ tục
chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
Việc ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 12/2008 ngày
19/6/2008 tại Phòng C2 tỉnh Đồng Nai đối với diện tích 2.112m
2
thuộc thửa đất
số 166, tờ bản đồ 15 tọa lạc tại xã P giữa ông Từ Bá S, bà Quách Thị H1 với bà
Nguyễn Thị G mục đích là để đảm bảo cho khoản vay 115.000.000 đồng, lãi suất
theo ngân hàng, thời hạn vay 36 tháng, cùng ngày ông Từ Bá S, bà Quách Thị H1
với bà Nguyễn Thị G ký hợp đồng thỏa thuận viết tay nội dung “Vợ chồng tôi
đồng ý ký chuyển đất cho chị G một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
K505801 diện tích 2.112m
2
để lấy số tiền 100.000.000 đồng và đóng theo lãi suất
ngân hàng. Trong vòng 36 tháng khi tôi trả lại 100.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị
G, chứng minh nhân dân số 272147075 cư ngụ tại Ấp G, B, L, Đồng Nai phải có
trách nhiệm trả sổ theo đúng tên tôi, nếu tôi không đóng lãi theo ngân hàng tôi sẽ
không có quyền khiếu nại, tôi không lấy lại sổ trước 36 tháng, chị G phải có trách
nhiệm trả sổ cho ông S bà H1, sau 36 tháng...”. Bên nhận bà Nguyễn Thị G và
bên giao có bà H1, ông S. Ngày 03/10/2008, bà Huỳnh m thêm số tiền 15.000.000
đồng từ bà G, tổng số tiền mượn là 115.000.000 đồng (BL 06, 202, 203, 204).
Quá trình giải quyết vụ án bà G và ông P đều vắng mặt, theo biên bản xác
minh tại địa phương (BL 357, 297, 265) thì bà G và ông P có hộ khẩu thường trú
tại địa phương, nhưng thường xuyên đi làm ăn xa thỉnh thoảng mới về nên Tòa án
niêm yết các văn bản tố tụng và xét xử vắng mặt các đương sự.
Theo tài liệu chứng cứ Tòa án thu thâp được tại Tòa án nhân dân huyện
Long Thành bà G và ông P trình bày như sau (BL 244, 245, 246, 247, 268, 263,
265).
Năm 2008, bà G có cho chị D mượn một giấy CNQSDĐ đứng tên bà G
(nguồn gốc đất này là do bà G nhận thế chấp của ông Từ Bá S). Đến ngày
28/07/2008, chị D có nói với bà G là mượn sổ đỏ của bà G ba tháng sẽ trả lại, chị
D bảo bà G đến Phòng C2 để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối
với diện tích đất 2.112m
2
để làm tin, lúc này tại Phòng C2, bà G mới biết mặt chị
L là người đứng ra ký bên nhận chuyển nhượng đất.
Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng đất, bà G chỉ nhận được số tiền là
324.000.000 đồng, thật ra từ lúc đầu là chị D thỏa thuận là bà G nhận được
400.000.000 đồng với lãi suất 9%, nhưng bà G bị trừ tiền đầu là 40.000.000 đồng,
lãi suất tháng đầu tiên là 36.000.000 đồng mà bà G phải trả trước nên cuối cùng
bà G chỉ còn 324.000.000 đồng. Từ lúc đầu, bà G cũng chỉ nghĩ ký hợp đồng
chuyển nhượng đất để làm tin, sau khi bà G trả đủ tiền sẽ trả lại cho bà G giấy
17
CNQSDĐ. Hàng tháng, bà G đều trả tiền lãi 36.000.000 đồng, bà G đưa cho chị
D, chị D đưa lại cho chị L. Bà G trả lãi liên tục như vậy đến tháng 7/2009 thì trong
tháng này bà G không có tiền để trả lãi, nên đến ngày 25/8/2009 bà G mới có tiền
trả lãi cho chị L, lần này bà G là người trực tiếp đi trả cho chị L, nhưng do không
đủ tiền trả cho hai tháng nên bà G chỉ trả có 40.000.000 đồng, hai bên có viết giấy
giao nhận tiền. Đến khi bà G gặp chồng chị L là anh S1 để thương lượng trả tiền
gốc 400.000.000 đồng để chuộc giấy CNQSDĐ lại, nhưng họ không đồng ý. Sau
đó thì chị L khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông S phải giao đất. Tại Tòa Long Thành
bà G cũng khai như trình bày trên và có yêu cầu xin hủy hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với chị L, nhưng sau đó chờ hoài không thấy giấy mời của Tòa
lần nào nữa, khi gặp gia đình ông S thì bà G mới được biết Tòa có mời hòa giải
và xét xử nhưng bà G không đến, thật ra là do bà G không nhận được giấy mời
của Tòa, nếu có thì bà G đã đến tham gia. Đến khi gia đình ông S gọi bà G và nói
vào ngày 10/6/2011 sẽ xét xử, nên bà G làm đơn phản tố mong tòa xem xét yêu
cầu của bà G để làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Do giữa bà G và chị L thực tế
không có việc chuyển nhượng đất với nhau nên hai bên không có viết giấy giao
nhận tiền, cũng không có dẫn chị L đến xem đất nên chị L không biết thửa đất
chuyển nhượng nằm ở vị trí nào. Bà G xác định, hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa ông Từ Bá S, bà Quách Thị H1 với bà Nguyễn Thị G là hợp
đồng đảm bảo cho khoản nợ mà bà G bỏ ra rút sổ ở ngân hàng cho ông S, bà G
tổng số tiền là 115.000.000 đồng. Việc chị L khai có giao cho bà G 1.300.000.000
đồng để nhận chuyển nhượng đất trên là hoàn toàn không có mà chỉ nhận có
400.000.000 đồng, việc chị L yêu cầu bà G, ông P cùng ông S, bà H1 giao đất
hoặc trả lại cho chị L 1.300.000.000 đồng bà G không đồng ý và bà G đồng ý trả
lại cho bà L 400.000.000 đồng và tiền lãi theo lãi suất ngân hàng, đối với số tiền
115.000.000 đồng bà G không có yêu cầu gì để các bên tự thỏa thuận với nhau.
Như vậy, lời trình bày của nguyên đơn và bị đơn bà G đều thống nhất việc
ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 12/2008 ngày 19/6/2008 tại
Phòng C2 tỉnh Đồng Nai đối với diện tích 2.112m
2
thuộc thửa đất số 166, tờ bản
đồ 15 tọa lạc tại xã P giữa ông Từ Bá S, bà Quách Thị H1 với bà Nguyễn Thị G
mục đích là để đảm bảo cho khoản vay 115.000.000 đồng, lãi suất theo ngân hàng,
thời hạn vay 36 tháng, cùng ngày ông Từ Bá S, bà Quách Thị H1 với bà Nguyễn
Thị G đã ký hợp đồng thỏa thuận viết tay nhằm ràng buộc trách nhiệm trả nợ giữa
ông S, bà H1 với bà G, bà G cũng phải có trách nhiệm trả lại sổ cho ông S, bà H1
sau thời hạn 36 tháng. Lời trình bày của nguyên đơn và bị đơn đều phù hợp với
tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ. Cụ thể nguyên đơn cung cấp được giấy vay tiền
ngày 19/6/2008 số tiền là 100.000.000 đồng cùng với ngày ký Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số 12/2008 và ngày 03/10/2008 ký vay thêm
15.000.000 đồng giữa bà Quách Thị H1, ông Từ Bá S với bà Nguyễn Thị G.
Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông S, bà H1
với bà G thực chất nhằm đảm bảo cho khoản vay 115.000.000 đồng, nên giữa hai
bên không có việc bàn giao nhà đất, mà nhà đất vẫn do ông S, bà H1 cùng các con
và những người được ông S, bà H1 chuyển nhượng đất trước đó vẫn quản lý sử
dụng đến nay.
18
Theo quy định tại Điều 318 Bộ luật Dân sự 2005 thì thỏa thuận lập hợp đồng
chuyển nhượng để đảm bảo cho việc thực hiện vụ này của cả hai bên đương sự là
không phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy ý chí của các bên khi tham gia
giao dịch này là tự nguyện, nhưng thể hiện rõ việc ký hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Từ Bá S, bà Quách Thị H1 và bà Nguyễn Thị G ngày
19/6/2008 được công chứng là hợp đồng giả tạo, nhằm che dấu hợp đồng vay tài
sản giữa bà Quách Thị H1 và bà Nguyễn Thị G ngày 19/6/2008. Về nội dung
trong hợp đồng được công chứng cũng không ghi đúng thực trạng vì trên thửa đất
có các căn nhà cấp 4 nhưng không được thể hiện trong hợp đồng.
Theo quy định Điều 129 Bộ luật Dân sự 2005 thì Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 19/6/2008 giữa nguyên đơn ông Từ Bá s1, bà Quách Thị
H1 và bị đơn bà Nguyễn Thị G về bản chất là hợp đồng giả tạo nhằm che dấu hợp
đồng thỏa thuận vay tài sản ngày 19/6/2008 giữa bà Quách Thị H1 với bà Nguyễn
Thị G. Nguyên đơn yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 19/6/2008 giữa nguyên đơn ông Từ Bá S, bà Quách Thị H1 và bị đơn bà
Nguyễn Thị G bị vô hiệu và là có căn cứ.
Quá trình giải quyết vụ án, bà Đinh Thị Ánh L vắng mặt, theo bản tự khai và
tài liệu chứng cứ thu thập được tại Tòa án nhân dân huyện Long Thành thể hiện:
Tại Biên bản hòa giải ngày 07/01/2010 tại Ủy ban nhân dân xã P, tiến hành
hòa giải giữa bà Đinh Thị Ánh L với ông S, bà H1, bà G. Nội dung bà L trình bày,
bà L có đưa cho bà G 1.300.000.000 đồng, nếu 3,4 tháng mà bà G không trả thì
bà L sẽ lấy đất chứ không phải là 400.000.000 đồng như bà G đã nói (phần tiền
này không có chứng từ), bà L yêu cầu bà G giao đất cho bà L hoặc là trả lại
1.300.000.000 đồng (BL 09).
Theo bản tự khai và các biên bản làm việc (tại bút lúc số 257, 258, 259)
Nguyên năm 2008, bà L có đến xã P huyện L tỉnh Đồng Nai mua đất lúc đó
bà L có gặp người tên M1 (không rõ họ) dẫn đến gặp bà Nguyễn Thị G cư trú tại
Ấp G, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai để mua đất và bà G cung cấp cho bà L sổ đỏ
và các giấy tờ được Nhà nước công nhận đồng thời bà G có dẫn vợ chồng bà L
đến xem đất sau khi xem đất xong vợ chồng bà L đồng ý mua phần đất của bà G
thuộc thửa 116, tờ bản đồ số 15, diện tích 2112m
2
tọa lạc tại Ấp A, xã P. Đến
28/7/2008, Phòng C2, huyện L, tỉnh Đồng Nai chứng thực hợp đồng chuyển
nhượng, ngày 31/12/2008 được Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ chi nhánh L5
quyền sử dụng đất cho bà L tại trang 04, giá thoả thuận chuyển nhượng là
1.300.000.000 đồng nhưng trong hợp đồng ghi giá tự thỏa thuận. Đây là tài sản
riêng của bà L, bà L trực tiếp thanh toán tiền cho ông P thành 02 lần, lần một sau
khi ký hợp đồng chuyển nhượng giao 1.000.000.000 đồng, lần hai sau khi nhận
được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khoảng tháng 01/2009 giao 300.000.000
đồng. Khi sang nhượng bà G có dẫn bà L đi xem đất, trên đất bà L có nhìn thấy
nhiều căn nhà được xây dựng trên đất, bà L có hỏi bà G nhưng bà G chỉ khoảng
đất trống và nói khi đo đạc lại cụ thể mới xác định đúng vị trí, bà G không chỉ rõ
ranh giới cụ thể, bà G cam kết sau 03 tháng sẽ chuyển nhượng. Về nguồn gốc đất
bà L được biết thửa đất số 166 là của ông Từ Bá S và bà Quách Thị H1 chuyển
19
nhượng quyền sử dụng đất cho bà G vào ngày 19/6/2008. Khi hết thời hạn khoảng
03 tháng bà L đến nhận đất thì thấy ông Từ Bá S, bà Quách Thị H1 không đồng ý
giao đất vì cho rằng ông bà chỉ mượn tiền của bà G không biết bà L là ai. Bà L
yêu cầu vợ chồng ông Từ Bá S phải có trách nhiệm giao lại cho bà toàn bộ thửa
đất số 166, tờ bản đồ số 15 xã P mà đã nhận chuyển nhượng từ bà G, di dời nhà
cửa trên đất, còn hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông
S với bà Nguyễn Thị G các bên tự giải quyết với nhau bà L không liên quan.
Bà G, ông P có trình bày hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
ông Từ Bá S, bà Quách Thị H1 với bà Nguyễn Thị G là hợp đồng đảm bảo cho
khoản nợ mà bà G bỏ ra rút sổ ở ngân hàng cho ông S, bà H1 tổng số tiền là
115.000.000 đồng. Nhưng do thấy bà D khó khăn, nên bà G đã cho bà D mượn
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay tiền. Để đảm bảo cho khoản vay của
bà D thì bà G, ông P đã ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
164/2008 ngày 28/7/2008 giữa bà Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng P với bà Đinh Thị
Ánh L, bà L đã được cập nhật chỉnh lý sang tên cho bà L tại trang 4. Bà G cho
rằng việc chị L khai có giao cho bà G 1.300.000.000 đồng để nhận chuyển nhượng
đất trên là hoàn toàn không có mà chỉ nhận có 400.000.000 đồng, việc chị L yêu
cầu bà G, ông P cùng ông S, bà H1 giao đất hoặc trả lại cho chị L 1.300.000.000
đồng bà G không đồng ý và bà G đồng ý trả lại cho bà L 400.000.000 đồng và
tiền lãi theo lãi suất ngân hàng.
Tại Bản tự khai ngày 09/6/2011 và tại Biên bản phiên tòa ngày 10/6/2011
của Tòa án nhân dân huyện Long Thành thể hiện bà D có ý kiến như sau: Bà D
có quen biết với chị Thái Khiết M2, chị M2 có tiền cho vay và bà G có thế chấp
01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà D cho chị M2 để vay 400.000.000
đồng, để được vay tiền phải ký hợp đồng chuyển nhượng đất tiền đầu là 10% và
lãi suất là 9% một tháng, một thời gian sau do bà D quá khổ vì nhà sắp bị người
ta lấy không có chỗ ở, biết bên chị M2 có tiền huy động được của chú tên Thái
Quốc S1 là chồng của chị Đinh Thị Ánh L, nhưng bà D không còn tài sản, bà G
thấy bà D khổ quá nên nói cho bà D mượn tài sản mà bà G đang đứng tên để vay
dùm ông Từ Bá S (do lúc này ngân hàng ngưng giao dịch), hai vợ chồng bà G
đồng ý ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để làm tin giúp bà L mượn
số tiền 400.000.000 đồng khi ký xong bị bà L và anh S1 lấy lại 40.000.000 đồng
tiền đầu và 36.000.000 tiền lãi lấy trước một tháng, hàng tháng chị D phải đóng
cho anh S1 cả hai món vay là 72.000.000 đồng, chị M2 không xuống và nhờ anh
S1 thu luôn giùm, bà D rất khổ vì phải chạy đóng số tiền lãi trên nếu không đóng
được họ xuống nhà làm rất dữ, tháng nào không đóng được ông S1 bắt bà D ký
lãi vào gốc, thời gian sau bà D đã trả tiền và chuộc lại được sổ của bà D đã cầm
cho chị Thái Khiết M2. Còn bên anh S1 và chị L số tiền 400.000.000 đồng bà D
chưa trả được bà D làm được bao nhiêu thì đóng lãi, khi không có khả năng trả lãi
bà G với anh P thấy bà D khổ quá, tiền ăn không có mà phải đóng lãi cao nên bà
G và anh P nói để anh chị đóng lãi để anh chị ký giấy tờ, sau này xin trừ vào gốc,
sau này mới biết chị L đã tự ý sang sổ đỏ qua tên mình nên không cho bà D và bà
G chuộc lại sổ, chị L và anh S1 đòi trả 1.300.000.000 đồng mới cho chuộc sổ, bà
D và bà G anh P trả lại 400.000.000 đồng mà bà D đã mượn để lấy sổ về trả cho
20
ông Từ Bá S nhưng bên anh S1 và chị L không chịu. Tại Biên bản phiên tòa ngày
10/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, bà D vẫn giữ nguyên ý kiến
như đã trình bày (BL 217, BL 223).
Như vậy, bà D, bà G đều trình bày việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
diện tích 2.112m
2
thuộc thửa đất số 166, tờ bản đồ số 15 xã P cho bà Đinh Thị
Ánh L là nhằm đảm bảo cho việc vay tiền, bà G, bà D trình bày số tiền vay là
400.000.000 đồng. Tại Biên bản hòa giải ngày 07/01/2010, bà L cũng trình bày
bà đưa cho bà G số tiền vay là 1.300.000.000 đồng, nếu 3,4 tháng mà bà G không
trả thì bà L lấy đất (BL 267-268), các văn bản trình bày sau thì bà L trình bày là
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà G muốn lấy lại sổ phải mua lại
giá 1,3 tỷ đồng. Như vậy, lời trình bày của bà L không thống nhất, lúc đầu thừa
nhận số tiền 1,3 tỷ là đưa cho bà G nếu hết thời gian 3,4 tháng không trả được tiền
thì lấy đất, sau đó thì lại khai là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà
L cũng không cung cấp được giấy giao nhận số tiền 1,3 tỷ cho bà G, các bên không
có việc bàn giao nhà đất và không cung cấp được biên bản giao nhận nhà đất. Trên
thực tế, bà G cũng chưa nhận bàn giao nhà đất từ ông S, bà H1 và bà L cũng chưa
nhận bàn giao nhà đất và chưa quản lý sử dụng. Việc quản lý sử dụng đất từ trước
đến nay vẫn do ông S, bà H1 và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
đang sống trên đất quản lý sử dụng.
Chị L thì trình bày, bà G có dẫn đi xem đất, trên đất có nhiều ngôi nhà, nhưng
bà G chỉ chỗ đất trống và ranh không rõ ràng, việc bà L đi mua đất thấy nhiều căn
nhà trên đất nhưng không tìm hiểu, ranh đất do người bán là bà G chuyển nhượng
chỉ không rõ ràng nhưng không thắc mắc gì. Lời khai của bà L là mâu thuẫn và
không được các đương sự thừa nhận.
Toà án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông S,
bà H1 với bà G, ông P được Phòng Công chứng số 4 tỉnh C2 công chứng ngày
19/6/2008 - số 12/2008 là hợp đồng giả tạo để che giấu hợp đồng vay số tiền
115.000.000 đồng tiền giữa ông S, bà H1 với bà G, ông P đúng quy định. Hợp
đồng CNQSDĐ bị vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa các bên từ
thời điểm xác lập. Bà G, ông P biết việc chuyển nhượng chỉ là giả tạo nhưng vẫn
tiến hành thủ tục sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sau đó tiếp
tục ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho bà L, ông S1 là không đúng pháp luật
nên bà L, ông S1 không thuộc trường hợp người thứ ba ngay tình theo quy định
tại khoản 2 Điều 138 BLDS năm 2005. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số 12/2008 do Phòng C2 tỉnh Đồng Nai công chứng ngày 19/6/2008 giữa ông
Từ Bá S, bà Quách Thị H1 với bà Nguyễn Thị G là vô hiệu vì có yếu tố giả tạo
dẫn đến Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 164/2008 do Phòng C2
tỉnh Đồng Nai công chứng ngày 28/7/2008 giữa bà Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng
P với bà Đinh Thị Ánh L cũng vô hiệu nên nguyên đơn đề nghị hủy Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 164/2008 là có căn cứ.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn, bị đơn và người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án không có yêu cầu Tòa án giải quyết hậu
quả của hợp đồng vô hiệu và không có yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập trong vụ
21
án nên Tòa án không đặt ra xem xét, dành quyền khởi kiện cho bà G, bà L khởi
kiện bằng vụ án khác là có căn cứ.
[2.4] Theo tài liệu thu thập được tại Tòa án nhân dân huyện Long Thành.
Ngày 01/6/2010, ông Thái Quốc S1 có đơn yêu cầu không tham gia tố tụng tại
Tòa án, nội dung trình bày ông cho rằng “Phần đất tranh chấp trong giấy
CNQSDĐ số K505801 do UBND huyện L cấp cho ông Từ Bá S ngày 30/9/1998.
Do phần đất này vợ tôi là Đinh Thị Ánh L tự mua bằng nguồn tiền riêng của mình
và kê khai, đăng ký ghi tên là tài sản riêng theo quy định của pháp luật, sự việc
này tôi biết và đồng ý đây là tài sản riêng của vợ tôi. Do vậy, các quyền và nghĩa
vụ liên quan phát sinh từ phần tài sản này không ảnh hưởng gì đến cá nhân tôi”
(BL 54). Tại Biên bản lấy lời khai ngày 07/6/2010 của Tòa án nhân dân huyện
Long Thành đối với bà Đinh Thị Ánh L, bà L cũng xác định tài sản tranh chấp là
tài sản riêng của bà L (BL 259). Quá trình giải quyết vụ án bà L không có mặt,
tại phiên tòa ông S1 xác định hiện nay hai vợ chồng ông vẫn đang sống với nhau
và bà L không có văn bản nào ủy quyền cho ông S1 tham gia vụ án với tư cách
đại diện ủy quyền của bà L. Cả bà L và ông S1 đều xác định tài sản tranh chấp
trong vụ án là tài sản riêng của bà L, nên các tranh chấp đối với phần tài sản này
không làm phát sinh ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của ông S1. Toà án cấp
sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của ông S1 là có căn cứ.
[3] Từ những phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đúng pháp luật. Ông
S1 kháng cáo không đưa ra chứng cứ làm thay đổi nội dung vụ án. Tòa án cấp
phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông S1, giữ nguyên án sơ thẩm như ý
kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa đề nghị.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông S1 phải chịu án phí do yêu cầu kháng
cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 34, 37, 147 Điều 227 và 228 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 122, 127, 137 Bộ luật Dân sự năm 2005; các Điều 124, 132,
Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm h khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm
2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Thái Quốc S1.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DS-ST ngày 20/6/2023 của
Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai:
22
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Từ Bá S.
- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 12/2008 do
Phòng C2 tỉnh Đồng Nai công chứng ngày 19/6/2008 giữa ông Từ Bá S, bà Quách
Thị H1 với bà Nguyễn Thị G là vô hiệu vì có yêu tố giả tạo.
- Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 164/2008 ngày
28/7/2008 giữa bà Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng P với bà Đinh Thị Ánh L.
- Đình chỉ yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ số K505801 do UBND huyện L cấp
cho ông Từ Bá S ngày 30/9/1998 đã chỉnh lý sang tên cho bà Đinh Thị Ánh L
ngày 31/12/2008.
Các đương sự có quyền liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền quản lý về
đất đai để chỉnh lý biến động, cập nhật làm lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất theo quy định của pháp luật.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Thái Quốc S1 về việc buộc ông
Từ Bá S, bà Nguyễn Thị G, ông Vũ Hồng P và những người sinh sống trên đất
phải tháo dỡ nhà, di dời tài sản trên đất để trả lại quyền sử dụng đất cho vợ chồng
ông Thái Quốc S1, bà Đinh Thị Ánh L là quyền sử dụng đất có diện tích 2.112m
2
thuộc thửa đất số 166, tờ bản đồ số 15 xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai
Do bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc
lập và bà G, bà L không có yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu nên
dành quyền khởi kiện cho bà G, bà L bằng vụ án khác.
3. Chi phí tố tụng:
Bị đơn bà Nguyễn Thị G phải chịu chi phí tố tụng do yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ông Từ Bá S được chấp nhận với số tiền là 45.000.000 đồng (bốn
mươi lăm triệu đồng). Do ông S đã nộp tạm ứng nên bà G có trách nhiệm thanh
toán lại cho ông Từ Bá S số tiền 45.000.000 đồng.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Do vụ án được Tòa án nhân dân huyện Long
Thành thụ lý ngày 04/11/2016 sau đó chuyển thẩm quyền cho Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Nai giải quyết nên áp dụng Pháp lệnh số: 10/2009/UBTVQH12 ngày
27 tháng 02 năm 2009 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về
án phí, lệ phí Tòa án để giải quyết.
[4.1] Hoàn trả cho ông Từ Bá S số tiền 200.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã
nộp theo Biên lai thu số 009214 ngày 28/10/2016 của Chi Cục Thi hành án dân
sự huyện Long Thành.
[4.2] Ông Thái Quốc S1 phải chịu án phí đối với yêu cầu độc lập không được
chấp nhận là 300.000 đồng, ông S1 đã nộp số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng
theo Biên lai thu số 0000455 ngày 12/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Đồng Nai.
[4.3] Bà Nguyễn Thị G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 400.000 đồng.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm:
23
Ông S1 phải chịu 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm nộp án phí
300.000 đồng ông S1 đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0002083 ngày
27/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai.
6. Về quyền và nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo
quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự,
người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi
hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại
các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực
hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Đồng Nai;
- VKSND tỉnh Đồng Nai;
- Cục THADS tỉnh Đồng Nai;
- Đương sự;
- Lưu (Án - NTCL).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký tên và đóng dấu)
Đinh Ngọc Thu Hương
Tải về
Bản án số 822/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 822/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm