Bản án số 79/2024/HNGĐ-ST ngày 30/09/2024 của TAND TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc hủy kết hôn trái pháp luật

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 79/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 79/2024/HNGĐ-ST ngày 30/09/2024 của TAND TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc hủy kết hôn trái pháp luật
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc hủy kết hôn trái pháp luật
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Lạt (TAND tỉnh Lâm Đồng)
Số hiệu: 79/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: tranh chấp quyền nuôi con
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT
TỈNH LÂM ĐỒNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 79/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 27/9/2024
V/v:Tranh chấp quyền nuôi
con
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Hoàng Thị Phương Chi
Các Hội thẩm nhân dân: Nguyễn Thị Loan
Bà Mai Lương Anh
- Thư phiên tòa: Ông Đặng Tiến Quốc - Thư Tòa án nhân dân thành
phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng tham
gia phiên tòa: Ông Nguyễn Đăng Đạt - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt,
tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thẩm th
s 338/2024/TLST-HNGĐ ngày 08/5/2024 v việc Tranh chp quyn nuôi
con theo Quyết định đưa v án ra xét x s 81/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày
01/8/2024 Thông báo m li phiên toà s 937/TB-PT ngày 13/9/2024 gia các
đương sự:
- Nguyên đơn: Vi Thị Ph, sinh năm 1997
Đa ch thưng trú: B, xã ĐV, huyện YT, tnh C.
Địa chỉ liên lạc: 135A , Phường K, thành phố ĐL, .
Người bảo vệ quyền lợi, ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật Nguyễn Huy
T n phòng luật sư Nguyễn Huy T thuộc Đoàn luật sư tỉnh LĐ
- B đơn: Ông Nguyễn A, sinh năm 1981
Địa ch: 126E hẻm H, KS, Phường O, thành phố ĐL, LĐ;
2
Ni bo vệ quyn và li ích hp pháp cho b đơn: Lut sư Đng Trng K Công
ty Lut TNHH AD thuc Đn lut Thành phH.
Ni làm chng: Bà Bùi Th N, sinh năm 1989.
Địa ch: 176 Y, Phưng N, thành ph ĐL, tnh LĐ.
(bà P, ông A, lut sư Kh, bà Ninh có mt, Lut sư Tài vng mt ti phiên toà)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn Vi Thị P trình bày: và ông A quen biết nhau tại YT,
BG. Sau hai tháng tbà quan hệ thân mật và thai với ông A. Sau đó khoảng
tháng thứ 7 thì ông A đưa vào Đà Lạt sinh cháu Nguyễn An Kh, sinh
ngày 24/11/2019 theo giấy khai sinh số 302 do Uỷ ban nhân dân Phường K, thành
phố Đà Lạt đăng ký ngày 18/11/2020. Sau khi có thai với ông A thì biết trước
đây ông A có một đời vợ có 02 con. Sau đó hai vợ chồng ly hôn, tiếp sau đó ông
A lại lập gia đình với người khác 02 con chung. Sau khi sinh cháu An Kh
được 01 tuổi thì cháu Kh về nhà ngoại Bắc Giang để sinh sống. Ngày
30/01/2024 có ý định đi nước ngoài nên nhờ ông A chăm sóc cháu Kh. Ông
A đồng ý thì ngày 24/02/2024 đưa cháu Kh vào Đà Lạt. Sau khi trở về Bắc
Giang, cảm giác nhớ con khôn siết, không thể chịu đựng được nên quyết định
không đi xa nữa chỉ tập trung làm ăn tại Việt Nam cho gần con. Ngày
08/4/2024 nhắn tin với ông A đề cập muốn đưa cháu Kh ra Bắc Giang để
sinh sống. Tuy nhiên, ông A không đồng ý và không cho gặp con.
Ngày 09/4/2024 bay từ Nội vào Đà Lạt có đến trình bày với Uỷ ban
nhân dân Pờng H, Đà Lạt về hoàn cảnh của . Sau đó cùng cán bộ Phường
đến nhà ông A. Tại nông A thì vợ ông A cản trở không cho tiếp xúc với
cháu Kh. Thấy không khí căng thẳng nên mọi người ra về. Hiện nay ông A sống
với vợ 02 con riêng tại Đà Lạt. Trong khi đó mẹ sinh ra cháu Kh lại không
được gặp gỡ và tiếp xúc con. Xét về hoàn cảnh của ông A, ông tập trung lo kinh
tế để nuôi gia đình, việc chăm sóc trực tiếp nuôi nấng dạy dỗ con trông cậy o
người vợ có 02 con chung với ông A. Nay khởi kiện yêu cầu Toà án buộc ông
A giao trả lại cháu Kh cho được trực tiếp nuôi dưỡng. không yêu cầu ông
A phải cấp dưỡng nuôi con. Ông A được quyền thăm nom con theo quy định.
Bị đơn ông Nguyễn A trình bày: Cháu Nguyễn An Kh sinh ngày 24/11/2019
tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng. Cháu Nguyễn An Kh là con chung ca
ông và Vi Thị Ph (ông và bà Ph không đăng ký kết hôn). Thời gian mang thai
và sau khi sinh con, bà Ph sống tại Đà Lạt để thuận tiện cho ông chăm sóc cả hai
mẹ con. Sau đó khi cháu Kh được hơn 01 tuổi, Ph đã đưa cháu về nhà ngoại ở
3
Bản T, Đ, YT, Bắc Giang để sinh sống. Trong thời gian này ông vẫn thăm nom
và cấp dưỡng cho con. Đồng thời, ông đã nhiều lần đề nghị để ông đón cả hai mẹ
con về lại Đà Lạt cho ông trực tiếp và có điều kiện chăm con tốt nhất và cũng để
con có được ở gần các anh chị em ruột của mình (đã có lần ông bà đã thống nhất
việc vào lại Đà Lạt ông đã mua cho hai mẹ con vào nhưng Ph bỏ vé
không vào). Tuy nhiên, Ph muốn xây dựng gia đình riêng mới đi nước
ngoài để làm ăn, vậy ông thoả thuận cháu Kh sdo ông trực tiếp nuôi dưỡng,
đồng thời bà Ph thể về thăm nom con và không yêu cầu cấp ỡng. Tuy nhiên,
đến nay Ph giành quyền nuôi con của ông. Ý kiến của ông là bà Ph không
đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con
những lý do sau:
Ph làm nghề massage, móng, nail công việc thất thường nơi không
ổn định (hiện đang làm công việc tự do, thu nhập bấp bênh). Vì vậy không có đủ
điều kiện và thời gian để quan tâm, chăm sóc con. Vì tính chất công việc của
Ph thất thường phải thường xuyên đi lại phục vụ khách xa, gần, trong thời gian
cháu Kh sống cùng bà Ph, bà Ph thường phải gửi con nhờ ông bà ngoại chăm sóc
chỉ về thăm con vào thời gian rảnh (ông ngoại đã lớn tuổi: ông làm nông
nên rất vất vả, bà thì thường xuyên đi cúng cho người khác có rất nhiều cháu)
không thể chăm sóc đầy đủ được cho cháu. Mặt khác, theo thông tin ông được
biết, hiện bà Ph sống cùng bạn trai, cũng khi bà Ph đưa con lên nơi làm việc
để sống cùng anh này, trong thời gian đó, con ông những biểu hiện khác thường
(cháu trở nên trầm mặc, dễ nổi cáu, bất cần có triệu chứng của tăng động, không
còn linh hoạt và thường hay sợ sệt, bám ảnh nhiều thứ). Môi trường, con người
xung quanh tác động đến con thất thường, nguy hiểm làm ảnh hưởng lớn đến thể
chất, tinh thần, tâm sinh lý của con, đặc biệt là vấn đề ảnh hưởng tới sự giáo dục
nhân cách của con.
Cháu Kh hiện đang sống cùng ông, nên việc để ông tiếp tục trực tiếp nuôi
dưỡng, chăm sóc sẽ tạo điều kiện cho cháu tiếp tục cuộc sống bình thường, không
bị xáo trộn gây ảnh hưởng tâm lý.
Vic Ph cho rằng ông không đồng ý cho bà Ph thăm nom con hoàn toàn
không đúng sự thật. Ông vẫn để bà Ph đến thăm con, tuy nhn ông không đồng ý
việc thăm con gây ảnh ng xấu đến đời sống m sinh của con ảnh ng
đến việc trông nom, cm sóc, nuôi dưng, go dục con.
Trong khi đó, ông có công việc kinh doanh ổn định, thời gian linh hoạt, thu
nhập khá và có nơi cư trú ổn định tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Mặc
4
ông lo việc kinh tế để chăm lo cho gia đình nhưng hoàn toàn không việc ông
giao hết trách nhiệm chăm sóc, nuôi nấng dạy dỗ con cho vợ mình hay bỏ bê
con n Ph đã đcập trong đơn khởi kiện. Ông vẫn dành rất nhiều thời gian
để chăm sóc, nuôi nấng và dạy dỗ con. Trong thời gian con An Kh đến ở với gia
đình ông, được ở bên cạnh cha, cùng các anh chị em ruột, con như được hồi sinh,
trong một thời gian không lâu nhưng con phục hồi dần cả về thể chất tinh thần.
Thực tế ông vẫn để Ph quyền thăm nom cháu nếu như bà Ph không quấy rối
làm ảnh hưởng đến tâm lý của cháu, ông chỉ không đồng ý để bà Ph đưa cháu về
Bắc Giang sinh sống vì muốn con có một cuộc sống bình thường và có điều kiện
để phát triển toàn diện nhất.
Do đó, ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông đề nghị
được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Kh đến khi con đủ 18 tuổi. Ông
không yêu cầu bà Ph cấp dưỡng nuôi con.
Qtrình thụ vụ án, Tòa án đã tiến hành tiếp cận chứng cứ hòa giải
nhưng bà Phong vắng mặt nên việc hòa giải không được.
Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Ph vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu
được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn An Kh sinh ngày 24/11/2019,
không yêu cầu ông A phải cấp dưỡng nuôi con. Bị đơn ông A không đồng ý với
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng,
chăm sóc cháu An Kh, không yêu cầu bà Ph phải cấp ỡng nuôi con. Người làm
chứng bà Nguyễn Thị N trình bày bà không có ý kiến gì về mối quan hệ giữa bà
Ph ông A, vẫn cùng ông A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Kh trong
thời gian cháu Kh ở cùng gia đình bà và ông A.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt tham gia phiên toà phát
biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán Hội đồng xét
xử. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhậnu cầu khi kin của Vi
Th Ph, buộc ông Nguyễn A phi giao trlại cháu Nguyn An Kh cho Ph trc tiếp
chăm sóc và nuôi ng. Ông A kng phải cp ỡng ni con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cu các tài liệu có trong h v án đã được thm tra tại phiên
tòa căn c vào kết qu tranh luận tại phiên toà, Hi đồng xét xử nhn định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án hôn nhân gia đình về việc“tranh chấp quyền
nuôi congiữa nguyên đơn Vi Thị Ph bị đơn ông Nguyễn A. Theo quy định
tại khoản 8 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật T
5
tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố
Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
[2] Về nội dung:
Vi Thị Ph ông Nguyễn A quan hệ tình cảm 01 người con
chung cháu Nguyễn An Kh, sinh ngày 24/11/2019 theo giấy khai sinh số 302
do Uỷ ban nhân dân Phường K, thành phố Đà Lạt đăng ký ngày 18/11/2020. Sau
khi sinh cháu An Kh được 01 tuổi thì Ph cháu Kh về nhà ngoại Bắc Giang
để sinh sống. Ngày 30/01/2024 bà Ph có ý định đi nước ngoài n có nhờ ông An
chăm sóc cháu Kh. Ông A đồng ý, ngày 24/02/2024 đưa cháu Kh vào Đà Lạt.
Ngày 08/4/2024 nhắn tin với ông A đề cập bà muốn đưa cháu Kh ra Bắc
Giang để sinh sống nhưng ông A không đồng ý và không cho gặp con. Do đó, bà
khởi kiện yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Kh. Ông A thừa nhận
cháu Nguyn An Kh con chung của Ph ông A. Hin cháu Kh đang ở cùng
ông A, ông A không đồng ý cho Ph được trc tiếp chăm sóc, nuôi ng cháu Kh
cho rng bà Ph không đủ điều kin để trc tiếp cm c, nuôi dưng con ông
không mun bà Ph đưa con v Bc Giang. Do đó các bên phát sinh tranh chp.
Theo hồ thể hiện, Ph ông A đều thừa nhận cháu Nguyễn An Kh, sinh
ngày 24/11/2019 theo giấy khai sinh số 302 do Uỷ ban nhân dân Pờng 8, thành
phố Đà Lạt đăng ký ngày 18/11/2020 con chung của Ph ông A. Đồng thời,
theo văn bản số 1070/UBND-TP ny 12/9/2024 của Uỷ ban nn dân Phường 8,
Đà Lạt khẳng định việc khai sinh cho cháu A theo đúng quy định của pháp luật. Do
đó, có cơ sở khẳng định cháu An Kh là con chung của Ph ông A.
Xét nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung của bà Ph
và ông A là chính đáng. Tuy nhiên, việc giao con cho ai trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng phải đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con. Để chứng minh cho yêu cầu
khởi kiện của mình bà Ph đã chứng minh hiện bà Ph hiện chưa kết hôn với ai,
chỗ ở, việc làm, thu nhập ổn định, ngoài ra Ph đang còn một khoản tiền cho
vay để đảm bảo kinh tế cho việc nuôi con. Con ở cùng bà Ph được đảm bảo việc
học tập. Ph được gia đình nhà ngoại hỗ chăm sóc con. Trong thời gian con
với bà Ph thì luôn tạo điều kiện cho ông A được thăm con. Tại phiên toà,
Ph cũng trình bày nếu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Kh cũng
tạo mọi điều kiện để cháu Kh nhận được sự yêu thương, quan tâm cả hai phía gia
đình bố mẹ. Ông A cho rằng con cùng Ph không đảm bảo vđiều kiện sức
khoẻ nhưng không cung cấp được chứng cứ, chứng minh. Và ông A cũng không
cung cấp được chứng cứ chứng minh về điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Kh.
6
Đồng thời, hiện nay ông A đã kết hôn, đang thuê nhà tại Đà Lạt, ông A hiện đang
sống cùng vợ và 03 con riêng của ông A. Hơn nữa, tkhi bà Ph giao con cho ông
A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng thì ông A cũng chưa thực sự tạo điều kiện cho
bà Ph được thăm con. Xét bà Ph có nơi cư trú xa nên mỗi lần muốn thăm con thì
cũng phải thu xếp thời gian, công việc lra ông A nên thông cảm tạo điều kiện
cho Ph được thăm gặp, gần gũi con nhiều hơn. Ông A không chứng minh được
việc bà Ph gặp con sẽ ảnh hưởng đến con. Ông A cho rằng Ph chăm sóc con
không tốt nhưng ông không chứng cứ chứng minh. Hơn nữa, từ khi sinh ra
cháu Kh đã được gần mẹ và hiện nay cháu mới hơn 04 tuổi rất cần squan m,
chăm sóc trực tiếp từ người mẹ.
Từ những phân tích nêu trên, xuất phát từ quyền lợi về mọi mặt của cháu Kh
cần giao cháu Nguyễn An Kh, sinh ngày 24/11/2019 cho Ph trách nhiệm
trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục là hoàn toàn phù hợp.
V cpng nuôi con: Bà Ph không yêu cu ông A cp ng nuôi con nên
Toà án không xem xét, gii quyết.
- Về án phí: Do yêu cầu của bà Phg được chấp nhận nên ông A phải chịu án
phí sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 8, Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 68, 69,70, 71, 72 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện vviệc “Tranh chấp quyền nuôi con” của
nguyên đơn bà Vi Thị Ph đối với bị đơn ông Nguyễn A.
Xử:
1. Giao con Nguyễn An Kh, sinh ngày 24/11/2019 cho Vi ThPh trực tiếp
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi thành niên. Ph không yêu cầu ông A
cấp dưỡng nuôi con.
Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay
đổi người trực tiếp nuôi con chung; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo
quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
7
2/Về án phí: Ông Nguyễn A phải chịu 300.000đ án phí thẩm. Hoàn trả
cho bà Vi Thị Ph 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000734
ngày 08/5/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười
lăm) ngày kể từ ngày tuyên án đu cua án nhânn tỉnhm Đngt xử
phúc thm.
Trường hợp bản án được thi nh theo quy định tại Điều 2, Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật thi hành
án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lâm Đồng;
- VKSND Tp. Đà Lạt;
- Chi cục THADS Tp Đà Lạt;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hoàng Thị Phương Chi
Tải về
Bản án số 79/2024/HNGĐ-ST Bản án số 79/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 79/2024/HNGĐ-ST Bản án số 79/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất