Bản án số 739/2025/DS-PT ngày 09/07/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 739/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 739/2025/DS-PT ngày 09/07/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 739/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: bà H kiện ông K và bà X, yêu cầu Tòa án giải quyết như sau
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 739/2025/DS-PT
Ngày 09-7-2025
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất
và tranh chấp hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH H CHÍ MINH
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán - Ch ta phiên tòa: Ông Cao Minh V
Các Thm phán: Bà Đào Thị Huệ
Bà Bùi Thị Thương
- Thư phiên tòa: Nguyn Th - Thư Tòa án nhân dân Thành
ph H Chí Minh.
- Đại din Vin kim sát nhân dân Thành ph H Chí Minh tham gia
phiên tòa: Ông Thái Quc Bo - Kim sát viên.
Trong các ngày 02 09 tháng 7 tháng năm 2025, ti tr s Tòa án nhân
dân Thành ph H CMinh (cơ sở 1), xét x phúc thm công khai v án dân s
th lý s 210/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp
quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm 24/2024/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Rịa – Vũng Tàu (nay là Tòa án nhân
dân khu vc 13, Thành ph H Chí Minh) b kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét x phúc thm s 330/2024/QĐ-PT ngày
15 tháng 11 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa s 335/2024/QĐ-PT ngày 09
tháng 12 năm 2024, Thông báo về vic m li phiên tòa s 37/2025/TB-TA ngày
26 tháng 02 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa s 46/2025/QĐ-PT ngày 03
tháng 3 năm 2025, Quyết đnh tm ngng phiên tòa s 47/2025/-PT ngày 25
tháng 3 năm 2025, Thông báo v vic m li phiên tòa s 130/2025/TB-TA ngày
16 tháng 6 năm 2025, Quyết định tm ngng phiên tòa s 9224/2025/QĐ-PT ngày
02 tháng 7 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyn Th H, sinh năm 1950.
Địa ch: A Quc l E, khu ph L, th trn L, huyn L, tnh Ra - Vũng
Tàu (nay là xã L, Thành ph H Chí Minh) (có mt).
Người đại din theo y quyn ca nguyên đơn:
2
Bà T Th T, sinh năm 1985.
Địa ch: G P, Phường G, thành ph V, tnh Ra - Vũng Tàu (nay phường
T, Thành ph H Chí Minh), theo Giy y quyn ngày 31-3-2023) (có mt).
- B đơn: Ông Nguyn Quang K, sinh năm 1959 Nguyn Th X, sinh
năm 1963.
Cùng địa ch: S E (s M Quc l E), khu ph L, th trn L, huyn L, tnh
Ra - Vũng u (nay L, Thành ph H Chí Minh) (ông K mt, X
vng mặt, có đơn đề ngh xét x vng mt).
Người bo v quyn và li ích hp pháp cho b đơn:
Trnh Th H1 Luật sư thuộc Công ty L1 - Đoàn luật sư tỉnh B (có mt).
- Người có quyn lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Như K1, sinh năm 1974.
Địa ch: S A Quc l E, khu ph L, th trn L, huyn L, tnh Bà Ra - Vũng
Tàu (nay là xã L, Thành ph H Chí Minh) (vng mt).
2. Ông Nguyn Anh T1, sinh năm 1972.
Địa ch: S A Quc l E, khu ph L, th trn L, huyn L, tnh Bà Ra - Vũng
Tàu (nay là xã L, Thành ph H Chí Minh) (vng mt).
Người đại din theo y quyn ca ông K1 và ông T1:
Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1984.
Địa ch: G P, Phường G, thành ph V, tnh Ra - Vũng Tàu (nay phường
T, Thành ph H Chí Minh), theo Giy y quyn ngày 06-4-2023 và ngày 12-4-
2023) (có mt).
2. Ông Nguyễn Dương Q, sinh năm 1985.
Địa ch: S E (s M Quc l E), khu ph L, th trn L, huyn L, tnh Bà Ra
- Vũng Tàu (nay là xã L, Thành ph H Chí Minh) (vng mt).
- Người làm chng:
1. Bà Lê Th Ư, sinh năm 1955.
Địa ch: 1 đường B, khu ph L, th trn L, huyn L, tnh Bà Ra - Vũng Tàu
(nay là xã L, Thành ph H Chí Minh) (vng mt).
2. Bà Nguyễn Xuân Đ1, sinh năm 1984.
Địa ch: S E khu ph L, th trn L, huyn L, tnh Bà Ra - Vũng Tàu (nay
xã L, Thành ph H Chí Minh) (vng mt).
3. Ông Nguyn Trung H2, sinh năm 1972.
Địa ch: D T, Phường E, thành ph V, tnh Ra - Vũng Tàu (nay là phường
V, Thành ph H Chí Minh) (vng mt).
3
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Quang K và bà Nguyễn Thị X - Bị đơn.
NI DUNG V ÁN:
Nguyên đơn bà Nguyn Th H người đại din theo y quyn ca bà H là
bà T Th T trình bày:
Khoảng năm 1976, bà Nguyễn Thị H được gia đình ông Nguyễn Trung H2
cho ở nhờ trên mt phần thửa đất tại thôn L, thị trấn L, huyện L (cũ), nay là xã L,
Thành ph H Chí Minh. Đến năm 1995, ông H2 có ý định bán lại thửa đất này.
lúc đó H không đủ tiền mua hết thửa đất nên mới kêu vợ chồng em gái
Nguyễn Thị X ông Nguyễn Quang K góp tiền mỗi bên một nửa đmua
chung thửa đất này.
Sau khi các bên thống nhất, ông H2 đã chuyển nhượng cho vợ chồng bà H,
ông L ng L đã chết năm 2012) vợ chồng ông K, X tổng diện tích đất
2.770m
2
thuộc thửa các thửa đất số 267, 269, 270, 271B tờ bản đồ số 26 (cũ), tọa
lạc tại thôn L, thị trấn L với giá 04 cây vàng, mỗi bên 02 cây vàng. Do ông L, bà
H không rành về chữ nghĩa nên thống nhất cử ông K người đại diện đứng ra
giao dịch mua bán với ông Nguyễn Trung H2 (giấy tmua bán hiện nay do ông
K đang giữ).
Đến năm 1997, vợ chồng bà H vchồng ông K, X tiến hành phân chia
phần đất mua chung, mỗi bên một nửa diện tích. Vợ chồng ông K, X được sử
dụng phần đất mặt tiền (đường B, xã L hiện nay), vợ chồng bà H được phân chia
phần đất phía sau đất của vchồng ông K, X, vì bà H đã sẵn căn nhà
nhờ trên đất ông H2 từ trước đó. Ranh giới đất giữa hai bên cây sung, cây me
hàng cây duối (hiện nay tính từ Quốc lộ E vào cuối đất). Ranh giới đất đến nay
vẫn ổn định. Năm 2001, Nhà nước mở rộng Quốc lộ E đi qua thửa đất của bà H
bà H bị thu hồi 543m
2
.
Lúc này, Quốc lE đã phân chia thửa đất của H
thành 02 phần thửa 78, tờ bản đồ số 129 (trong đó một phần đất hiện đang
tranh chấp) thửa đất số 269, tờ bản đsố 26, tọa lạc tại thị trấn L, huyện L. Sau
khi Nhà nước mở đường Quốc lộ 55 thì căn nhà lá của bà H ở sát bên mặt đường
xe cộ qua lại nguy hiểm, nên sự an toàn của cả gia đình H đã di dời nhà sang
vị trí căn nhà hiện nay bà H đang ở.
Năm 2000, vợ chồng bà H và vợ chồng ông K, bà X tiếp tục mua chung một
phần đất của Nguyễn Thị H (thường gọi Hai Long P, hiện không biết
đâu) phía sau phần diện tích đất 2.770m
2
đã mua của ông H2 trước đó. Trong năm
2000, hai bên tiếp tục chia đôi thửa đất này, phần đất của bà H sau khi chia được
nối liền với phần đất bà H đã mua chung của ông H2. Bà H đã tiến hành
khai c hai phần đất này và có đăng khai trong s mc kê đất đai năm 2006
tha 78, t bản đồ s 129 vi tng din tích đất là 1.160,3m
2
. Đối với phần diện
tích đất mua của Hai Long P, sau khi chia đôi thì vợ chồng bà H đã được Ủy
ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 933805 với
diện tích đất 588m
2
thuộc thửa đất số 94, tờ bản đồ số 129, thị trấn L, huyện L
(giáp phn din tích đất còn li của thửa đất số 78, tờ bản đố 129 của bà H).
4
Sau khi Nhà nước mở đường Quốc lộ 55, năm 2003 bà H đã xây nhà cấp 4
tại thửa đất số 94, tờ bản đồ số 129, thị trấn L, huyện L tháo dỡ nhà (hình
ảnh nhà cũ bà H vẫn còn lưu) trên thửa 78, tờ bản đồ số 129 nên phần đất này từ
năm 2003 là đất trống. Năm 2004 H có rào ranh giới giữa đất của bà H và đất
của vợ chồng ông K, bà X bằng trụ bê tông lưới kéo B40 chạy dọc theo hàng ranh
là cây sung, cây me và hàng cây duối đã có trước đó (các cây này hiện vẫn còn).
Năm 2007, bà H có thuê Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh
B đo đạc lại thửa đất số 78, tờ bản đồ số 129 và thửa đất số 269 tờ bản đồ số 26.
Khi đo đạc, cán bộ đo đạc mời vợ chồng ông K, X chứng kiến giáp
ranh giới với đất của bà H (có lập biên bản xác định ranh giới) bà H đã giao
toàn bộ hồ cho ông K để nhờ ông K làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho bà H đối với thửa đất số 78, tờ bản đồ số 129 và thửa đất số 269
tờ bản đồ số 26. Nhiều lần bà H có hỏi ông K nhưng ông cứ trả lời là hồ sơ làm
chưa xong.
Do vợ chồng ông K, X mở quán kinh doanh phê trên phần đất mua
chung với bà H nên từ năm 2010, thấy thửa đất số 78, tờ bản đồ số 129 của bà H
còn trống nên vợ chồng ông K, bà X hỏi bà H để thuê một phần đất nhằm mở
rộng việc kinh doanh. Vợ chồng ông K, X viết sẵn Hợp đồng thuê đất ngày 15-
9-2010 đưa lại cho bà H (bà H không chứng kiến việc ông K, X viết hợp
đồng, nhưng chữ viết trong hợp đồng qua giám định là do ông K viết và ti phiên
tòa ông K cũng tha nhn là ông K viết, có chữ ký của bà X), thời hạn thuê là 03
năm từ ngày 15-9-2010 đến ngày 15-9-2013, giá thuê đất 1.500.000đồng/tháng.
Sau khi thuê đất, vợ chồng ông K, X đã tháo dỡ hàng rào B40 làm một số
chòi để bán phê. Khi hết hạn 03 năm, vợ chồng ông K, X xin tiếp tục thuê
nhưng giá thuê được thỏa thuận lại mỗi tháng 2.000.000 đồng. Việc trả tiền
thuê đất của vợ chồng ông K, X vẫn thực hiện đầy đđến tháng 09-2020 thì
ngưng trả.
Do chđợi ông K làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quá lâu nên bà H đã đo vẽ lại đất nhờ người khác làm thủ tục cấp giấy thì v
chồng ông K, bà X cho rằng phần diện tích đất mà ông K, bà X đang thuê của bà
H tại thửa đất số 78, tbản đồ số 129, thị trấn L, huyện L để bán phê của
mình.
Căn cứ vào đồ đo vẽ ngày 05-12-2023 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên
Môi trường tỉnh B thì phần diện tích đất ông K, X đang sử dụng của bà H
là 335,9m
2
tại thửa đất số 78, tờ bản đồ số 129, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu. Đối với diện tích đất khi đo vẽ bà H chỉ ranh lấn sang thửa 77, 94, 95
bà H không có yêu cầu giải quyết.
Nay bà H xác định lại yêu cầu khởi kiện như sau:
- Buộc vợ chồng ông Nguyễn Quang K, Nguyễn Thị X phải tháo dỡ, di
dời các chòi , cây trồng và các công trình khác (đang dùng để buôn bán cà phê)
để trả lại diện tích đất 335,9m
2
tại thửa đất số 78, tờ bản đồ s129, thị trấn L,
5
huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là L, Thành phố Hồ Chí Minh) cho
Nguyễn Thị H.
- Công nhận quyền sử dụng diện tích đất 335,9m
2
tại thửa đất số 78, tờ bản
đồ số 129, thị trấn L, huyện L, tỉnh Rịa - Vũng Tàu (nay là L, Thành phố
Hồ Chí Minh) cho bà Nguyễn Thị H.
- Chấm dứt hợp đồng thuê đất giữa bên cho thuê Nguyễn Thị H với bên
thuê đất ông Nguyễn Quang K, Nguyễn Thị X đối với diện tích đất 335,9m
2
tại
thửa đất số 78, tờ bản đồ số 129, thị trấn L, huyện L, tỉnh Rịa - Vũng Tàu (nay
là xã L, Thành phố Hồ Chí Minh). Yêu cầu ông K, bà X tiếp tục trả tiền thuê đất
tính ttháng 10-2020 cho đến tháng 06-2024 là 44 tháng vi giá thuê là 2.000.000
đồng/tháng tương đương với s tin 88.000.000 đồng.
Bà H xác định cho v chng ông K, bà X thuê đt, vic viết hợp đồng thuê
đất là do ông K viết, bà X đưa lại hợp đồng cho bà H. Hàng tháng, bà X là người
tr tiền thuê đất cho bà H. Ti phiên tòa sơ thm, bà X tha nhn có tr tin thuê
đất cho bà H t năm 2010 đến năm 2014. H không cho ông Nguyễn Dương Q
thuê như ông Q trình bày, bà H ch thy ông Q sinh sng cùng vi ông K, bà X và
có ph bán quán cà phê vi ông K, bà X thôi. Vì vy, bà H gi nguyên yêu cu
khi kin v vic "Tranh chp hợp đồng thuê đất" đối vi ông K, bà X ch không
phi ông Q.
V quan h gia tc: Bà H và ông Nguyễn Văn L là v chng, có 02 người
con chung tên Nguyễn Như K1 và Nguyn Anh T1. Ông L chết năm 2012, không
để li di chúc. Cha m ông L là ông Nguyễn Văn D (sinh năm 1912, chết năm
1979) và bà Đặng Th B (sinh năm 1926, chết năm 1978). Ngoài ra, ông L không
có người con nuôi hay con riêng nào khác.
B đơn ông Nguyn Quang K, bà Nguyn Th X trình bày:
Nguyên trước đây gia đình bà Nguyễn Thị H và gia đình ông Hồ Văn C xin
ông Nguyễn Hồ H3 ở nhờ trên phần đất của ông H3 thôn L, thị trấn L, huyện L
(cũ) nay là L, Thành phố Hồ Chí Minh. Vào năm 1994, con ông H3 ông
Nguyễn Trung H2 có yêu cầu hộH và hộ ông C trả lại đất cho ông H2 gia
hạn cho 02 hộ này trong vòng 01 năm phải trả lại đất. Do lo sợ không đất nên
H thông báo cho v chng ông K, bà X (là em gái bà H) biết vào thời
điểm đó H không tiền để mua lại phần đất của ông H2 nên ông K gia
đình ông Hồ Văn C đến nhà ông H2 để thương lượng với ông H2 đmua miếng
đất này. Sau khi thỏa thuận với ông H2, ông K ông C đồng ý mua miếng đất
này với giá 10 cây vàng, tương đương với 50.000.000 đồng tại thời điểm giao dịch
(trong đó ông C 06 cây vàng vợ chồng ông K 04 cây vàng). Ngoài ra, vợ chồng
ông K ông C còn đưa cho ông H2 09 chỉ vàng để làm giấy tờ, trong đó vợ
chồng ông K đưa 06 chỉ vàng và ông C đưa 03 chỉ vàng (thể hiện trong giấy nhận
tiền cọc bán đất). Đồng thời, ông K và ông C đã đưa trước cho ông H2 01 lượng
vàng, gọi là tiền đặt cọc trong việc mua bán đất giữa ông K gia đình ông C với
ông H2. Khi đưa vàng cho ông H2, ông K gia đình ông C làm giấy biên
nhận với ông H2 và có xác nhận của Trưởng thôn L lúc bấy giờ.
6
Đến năm 1997, ông H2 giao cho ông K gia đình ông Hồ Văn Công văn
B1 chuyển nhượng quyền sử dụng đất cấp ngày 19-6-1997 của Sở địa chính tỉnh
Rịa - Vũng Tàu. Theo đó ông K, bà X nhn chuyển nhượng ca ông Nguyễn
Trung H2 2.770m
2
thuộc thửa đất số 267, 269, 270, 271B tờ bản đồ số 26 cũ tọa
lạc tại thôn L, thị trấn L, huyện L (cũ), nay là xã L, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vào thời điểmy, do có nhu cầu sử dụng đất nên ông K đã bồi thường cho
gia đình ông C 04 chỉ vàng đdi dời căn nhà trả lại mặt bằng cho ông K, biên
nhận lập ngày 31-3-1998 tại Công an L, huyện L xác nhận của cán bộ
Công an xã L.
Đến năm 1998, H muốn chia lại một phần diện tích đất của chúng tôi
1.200m
2
với giá 02 cây vàng (không có vị trí cụ thể, do đất thời điểm đó chưa có
phân chia thửa cụ thể). Số vàng này bà H đã trả cho bà X rồi. Vì lẽ đó nên ông K
có viết giấy ủy quyền cho bà H. Giấy ủy quyền được lập ngày 13-11-1998 tại Ủy
ban nhân dân L trước sự chứng kiến của ông Nguyễn Văn K2 cán bộ pháp
xã L lúc bấy giờ. Trong giấy ủy quyền, ông K có ghi rõ là chỉ có một mình bà H
có quyền sử dụng mà thôi.
Đến năm 2001, khi Nhà nước mở Quốc lộ E, đoạn qua thị trấn L, đất của bà
H bị thu hồi mt phần diện tích cụ thể như sau:
- Thu hồi lần thứ nhất: 543m
2
- Thu hồi lần thứ hai: 94m
2
- Tổng diện tích bị thu hồi là 637m
2
Như vậy, diện tích sau khi bị thu hồi còn lại là 563m
2
Hiện nay bà H đang sử dụng một phần diện tích khoảng 200m
2
của thửa 78,
tờ bản đồ 129 cộng thêm 381,4m
2
thửa số 269, tờ bản đồ số 26, thị trấn L, huyện
L, tỉnh Bà Rịa - ng Tàu (phần đất này bà H đang cho người khác thuê).
Đến năm 2010, vợ chng ông K mới rào lại đất thuộc quyền sử dụng của gia
đình ông K như hiện nay. Đất ông K cũng bị thu hồi nhưng không nhớ diện
tích là bao nhiêu.
X xác định vào Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất ngày
10-9-2007 của H đưa, X chỉ xác định đất của X giáp với đất của
H. Ti phiên tòa, ông K, bà X xác định ông K là người viết nội dung Hợp đồng
thuê đất ngày 15-9-2010 còn bà X là người tr tiền thuê đt t năm 2010 đến năm
2014, sau đó là ông Nguyễn Dương Q (là con ca ông K, bà X) có ph bán quán
và tr tiền đến tháng 09-2020 thì ngưng do các bên chưa xác định được ranh gii
đất giữa đất ca ông K, bà X với đất ca bà H.
V chng ông K xác định toàn bộ công trình xây dựng, cây trồng trên phần
đất đang tranh chấp do v chng ông K xây dựng. Ông K xác định trên đất mua
của ông H2 ban đầu có 02 căn nhà, căn nhà của ông C và căn nhà lá của bà H (vị
trí nhà của bà H thuộc phần quy hoạch mở đường nên đã tháo dỡ rồi).
7
Sau khi nhận chuyển nhượng đất của ông H2, từ năm 1997 ông K đăng
ký kê khai và nộp thuế sử dụng đất từ đó cho đến nay, bà H không hề nộp bất cứ
khoản tiền thuế nào. Hin nay ông K, bà X đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với thửa đất số 270, tờ bản đồ số 26 thửa số 77, tờ bản đồ số
129, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là xã L, Thành phố Hồ Chí
Minh).
Ông K, bà X xác định có cùng vi bà H nhn chuyển nhượng thêm phần đất
phía sau ca bà Nguyễn Thị H (bà Hai Long P) đúng như Hai trình này.
Đối với phần đất tranh chấp với H, b đơn đăng khai nhưng do
bà H có tranh chấp nên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nay b đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Như K1 người đại
diện theo ủy quyền là ông Phạm Văn Đ trình bày:
Ông Nguyễn Như K1 con trai của Nguyễn Thị H ông Nguyễn Văn
L. Ông L chết ngày 26-11-2012. Ông L và bà H 02 người con chung Nguyễn
Như K1 Nguyễn Anh T1. Ngoài ra ông L không người con riêng hay con
nuôi nào khác.
Ông L chết không đlại di chúc, cha m ông L tên ông Nguyễn Văn D,
chết năm 1979 và bà Đặng Thị B, chết năm 1978.
Liên quan đến yêu cầu khởi kiện của bà H đối với ông Nguyễn Quang K, bà
Nguyễn Thị X, ông K1 không có ý kiến gì, diện tích đất hiện đang tranh chấp
tài sản của ông L, H tạo lập, ông K1 không có đóng góp trong quá trình
tạo lập tài sản đó. Hiện nay ông L đã chết, ông K1 xác định phần tài sản của ông
L để lại ông K1 không có ý kiến hay yêu cầu gì, ông giao lại toàn quyền sử dụng,
định đoạt phần tài sản đó cho H. Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Anh T1 người đại diện
theo ủy quyền là ông Phạm Văn Đ trình bày:
Ông Nguyễn Anh T1 con đầu của Nguyễn Thị H ông Nguyễn Văn
L. Ông L chết ngày 26-11-2012. Ông L và bà H 02 người con chung Nguyễn
Như K1 Nguyễn Anh T1. Ngoài ra, ông L không có người con riêng hay con
nuôi nào khác.
Ông L chết không để lại di chúc. Cha m ông L tên ông Nguyễn Văn D,
chết năm 1979 và bà Đặng Thị B, chết năm 1978.
Liên quan đến yêu cầu khởi kiện của bà H đối với ông Nguyễn Quang K, bà
Nguyễn Thị X, ông T1 không ý kiến diện tích đất hiện đang tranh chấp
tài sản của ông L, bà H tạo lập, ông T1 không có đóng góp gì trong quá trình tạo
lập tài sản đó. Hiện nay, ông L đã chết, ông T1 xác định phần tài sản của ông L
để lại ông T1 không ý kiến hay yêu cầu gì, ông giao lại toàn quyền sử dụng,
8
định đoạt phần tài sản đó cho H. Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Người có quyn li nghĩa v liên quan ông Nguyễn Dương Q trnh bày:
Ông Q con của ông K, bà X. Phần đất hiện đang tranh chấp giữa gia đình
ông K, X với gia đình Nguyễn Thị H vào thời điểm năm 2010 chưa
hàng rào phân chia ranh đất. Cùng thời điểm đó, gia đình ông Q mquán cà
phê, ông Q được cha m giao cho quản lý quán cà phê. Do cần mở rộng quán cà
phê và thấy còn đất trống bên cạnh (do H nói đất của H, không diện
tích bao nhiêu), nên ông Q mới làm hợp đồng thuê đất của H xong rồi đưa
cho bà H giữ. H biết việc ông Q thuê đất của H. Hợp đồng thuê đất ngày
15-9-2010 do ông Q viết toàn bộ nội dung ký tên X (Nguyễn Thị X) vào. Từ
xưa tới giờ, các giấy tờ đất của gia đình ông Q đều do ông Q làm nên ông Q
tên bà X (vì đất ông Q sử dụng là đất của X, ông K). Khi ông Q đưa hợp đồng
thuê đất viết và ký tên bà X thì bà H không có ý kiến gì. Sau khi thuê đất, ông Q
là người rào đất lại như hiện nay. Ông Q vẫn đóng tiền thuê đất cho bà H đầy đủ.
Đến năm 2020, H đưa giấy ký giáp ranh thì ông K thấy không đúng diện tích
đất các bên phân chia ban đầu nên ông Q không đóng tiền nữa. Việc ông Q thuê
đất của bà H thì ông K, X không biết. Sau khi hết hạn thuê 03 năm, theo thỏa
thuận trong hợp đồng thì hai bên không có tiếp hợp đồng nào khác, tiếp tục
theo thỏa thuận của hợp đồng cũ. Trong 03 năm đầu thỏa thuận giá 1,5 triệu
đồng/tháng, sau tăng lên 2 triệu đồng/tháng, thời gian lâu quá nên ông Q cũng
không nhớ là khi nào thì tăng.
Ông Q đề ngh Tòa án nhân dân huyện Long Điền gii quyết vng mt ông
Q ti phiên tòa gii quyết v án.
Người làm chng bà Lê Thị Ư trnh bày:
Bà Ư v ca ông H Văn C (ông C đã chết vào khoảng năm 2015). Vào
khoảng năm 1975 -1976, bà Ưông C cùng vời gia đình bà Nguyn Th H
nh trên đất ca ông H3 ti khu ph L (nay thuc L, Thành ph H Chí Minh).
Sau đó, đến khoảng năm 1995, ông H3 chết thì con ca ông H3 ông Nguyn
Trung H2 mới có ý định bán li phần đt này thì bà Nguyn Th H mi nói vi v
chng bà Ưgóp tin li mua chung, ông H2 bán vi giá 10 cây vàng (phn v
chng bà Ư là mua đất rung vi giá 06 cây vàng, còn phía H thì bà H có nói
chung vi ông Nguyn Quang K, Nguyn Th X em gái em r H
mua phần đt cao vi giá là 04 cây vàng). V chng bà Ư thì ông H Văn C đại
diện đứng ra mua bán vi ông H2, còn phía bà H, bà X, ông K thì ông K đại din
đứng ra giao dch mua bán vi ông H2. H đã đưa cho ông K 02 cây vàng
ông K đã đưa số vàng này cho ông H2, còn phn vàng ca ông K thì ông K tr
dn cho ông H2 nhiu ln, s vic này bà Ưnghe ông H2 nói li. Sau khi bán
đất cho các bên thì ông H2 đi đâu bà Ư cũng không biết.
Diện tích đt mà v chng bà Ư nhn chuyển nhượng ca ông H2 phn
đất rung, đã được cp giy chng nhn quyn s dụng đất, sau này Nhà nước có
thu hi mt phần làm đường quc l 55, phần đất còn li v chng bà Ư đã chuyển
9
nhưng lại cho người khác (hiện nay trên đất ch s dng mới đang mở đại lý
s). Bà Ư không nh c th diện tích đất khi mua là bao nhiêu, đã chuyển nhượng
lại vào năm nào.
Bà Ư đã trình bày hết nhng mình biết, vì công vic bn bà Ư đề ngh Tòa
án gii quyết, xét x vng mt trong sut quá trình t tng ca v án.
Người làm chng bà Nguyễn Xuân Đ1 trnh bày:
Bà Đ1 là con gái rut ca ông Nguyn Quang K, Nguyn Th X, bà Đ1
sng cùng vi ông K, X trên khu vực đất các bên đang tranh chp t khong
năm 1997 đến nay. Bà Đ1 ph bán quán pcho ông K, X, cnh nhà gia
đình bà Đ1 là nhà ca bà Nguyn Th H. Vào khoảng năm 2020, lúc đó dịch nên
bà H không qua nhà ba m bà Đ1 ly tiền thuê đất được, m bà Đ1 là bà Nguyn
Th X mi tr tiền thuê đất cho H đưa cho bà Đ1 mang qua cho H,
mi lần như vy bà Đ1 có ghi vào t giy Hợp đồng thuê đất ngày 15-9-2010 ca
bà H.
Bà Đ1 sống trên đất t m 1997, tuy nhiên thời gian không liên tc do bà
Đào Đ2 hc trên S, sau đó ly chng ri quay li sng, bà Đ1sng c nhà ba
m bà Đ1 và c nhà ca H. Thi gian gần đây bà Đ1 mi biết phần đất ba m
bà Đ1 đang sinh sống và đt nhà bà H là hai bên mua chung, quá trình mua chung
như thế nào bà Đ1 cũng không biết c th, ch nghe nói li. Bà Đ1 biết H
cho ba m bà Đ1 thuê đất, nhưng thuê với din tích bao nhiêu thì bà Đ1 cũng
không biết c th.
Bà Đ1 đã trình bày hết nhng gì bà Đ1 biết, đề ngh Tòa án gii quyết, xét
x vng mt bà Đ1 trong sut quá trình t tng ca v án.
Người làm chng ông Nguyễn Trung H2 trnh bày:
Quá trình chuyển nhượng các thửa đất s 267, 269, 271, 271B t bản đồ s
26, thị trấn L, huyện L (cũ) theo đ v trí các thửa đất ngày 09-12-1995, ông
H2 ch nh ông H2 có bán mt miếng đất ngay ngã tư L, huyện L cũ, thi gian
quá lâu nên ông H2 cũng không nh ông H2 bán cho ai, bán thửa đt nào, bán vi
giá bao nhiêu tin, bán vào thi gian nào. Tuy nhiên vic mua bán trên đã thc
hin xong, ông H2 không còn liên quan gì đến thửa đất đó na. Ngun gc các
thửa đất ông H2 bán là ca bà ni ông H2 để li cho ba ông H2 (tên Nguyễn Hồ
H3), và ba ông H2 để li cho ông H2, lúc ông H2 chuyển nhượng đt thì ba ông
H2 đã chết (chết năm 1978). Trên đất có tài sn gì hay không ông H2 cũng không
nh.
Do ông H2 không còn nh gì đến vic chuyển nhượng đất trên, vic tranh
chấp đất gia các đương s không liên quan gì đến ông H2 và do công vic bn
nên ông H2 đề ngh Tòa án gii quyết vng mt ông H2 trong sut quá trình t
tng.
Ti Bản án dân sự thẩm 24/2024/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (nay là Tòa án nhân
dân khu vc 13, Thành ph H Chí Minh) đã tuyên xử:
10
Chp nhn yêu cu khi kin ca bà Nguyn Th H v vic Tranh chp
quyn s dụng đất, tranh chp hợp đồng thuê đất”:
- Buộc vợ chồng ông Nguyễn Quang K, Nguyễn Thị X phải tháo dỡ, di
dời các công trình kiến trúc và cây trng (gm: sân bê tông 1 din tích 7,6m
2
; nhà
tm 1 din tích 3,9m
2
; sân tông 2 din tích 12,7m
2
; nhà tm 2 din tích 16,4m
2
;
sân tông 3 din tích 25,9m
2
; nhà st 1 din tích 35m
2
; nhà st 2 din tích 50,7m
2
;
hàng rào phía trước tiếp giáp Quc l E; 01 bi trúc (30 cây); 01 cây me loi C;
01 cây xoài loi C; 02 cây da loi C; 01 cây khế loi C; 01 cây cau king trên
02m; 01 cây mai; 01 cây si; 01 cây tràm; 01 bi tre (20 cây); 01 cây xoài 03 năm
tui; 02 cây chanh) ta lc trên din tích đất ln chiếm 335,9m
2
và trả lại diện tích
đất lấn chiếm 335,9m
2
thuộc thửa đất số 78, tờ bản đồ s129, thị trấn L, huyện L,
tỉnh Rịa - Vũng Tàu (nay L, Thành phố Hồ Chí Minh) cho Nguyễn
Thị H.
- Công nhận quyền sử dụng diện tích đất 335,9m
2
tại thửa đất số 78, tờ bản
đồ số 129, thị trấn L, huyện L, tỉnh Rịa - Vũng Tàu (nay là L, Thành phố
Hồ Chí Minh) cho bà Nguyễn Thị H.
- Chm dứt hợp đồng thuê đất giữa bên cho thuê Nguyễn Thị H với bên
thuê đất ông Nguyễn Quang K, Nguyễn Thị X đối với diện tích đất 335,9m
2
tại
thửa đất số 78, tờ bản đồ số 129, thị trấn L, huyện L, tỉnh Rịa - Vũng Tàu (nay
là xã L, Thành phố Hồ Chí Minh). Buc ông K, bà X tiếp tục trả tiền thuê tính từ
tháng 10-2020 cho đến tháng 06-2024 vi tng s tin 88.000.000 (tám mươi tám
triệu) đồng.
(V trí đất và vt kiến trúc trên đt theo đồ do Trung tâm k thut Tài
nguyên và Môi trường tnh B lp ngày 05-12-2023, kèm bn án).
Các đương s có trách nhim liên h với cơ quan Nnước thm quyn
để đưc xác lp quyn s dụng đất theo quy định.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định v chi phí t tng, án phí và quyn
kháng cáo.
Yêu cu kháng cáo:
Ngày 08 tháng 7 năm 2024, bị đơn ông Nguyn Quang K và bà Nguyn Th
X đơn kháng cáo bản án thẩm, yêu cu cp phúc thm sa bản án thẩm
theo hướng bác toàn b yêu cu khi kin của nguyên đơn. Trong trường hp Tòa
án cp phúc thẩm xác đnh có vi phm nghiêm trng th t tụng thì đề ngh Tòa
án cp phúc thm hy bản án thẩm để xét x thẩm lại theo quy đnh ca
pháp lut.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
11
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Như K1ông Nguyễn
Anh T1 đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ
nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Bị đơn xác nhận lại yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản
án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bđơn đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông K, bà X, sửa bản án sơ thẩm theo hướng
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Các đương s không tha thuận được vi nhau v vic gii quyết v án
không cung cp thêm tài liu, chng c mi.
- Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn nộp trong thời hạn luật định. Những
người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng theo
quy định của pháp luật. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền,
nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng
cáo của bị đơn, sửa bản án thẩm theo hướng chchấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn đối với phần diện tích 38,4m
2
thuộc một phần diện tích
đất tranh chấp, đối với diện tích đất tranh chấp còn lại thuộc quyền sử dụng hợp
pháp của bị đơn nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, trên cơ sở
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của b đơn ông Nguyn Quang K bà Nguyn Th X
nộp trong thời hạn luật định nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Những đương sự vắng mặt tại phiên tòa đã có người đại diện hợp pháp
tham gia phiên tòa (ông K1 và ông T1) hoặc có đơn đề nghị xét xử vắng mặt (bà
X, ông Q), nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, xử vắng
mặt các đương sự này.
[2] Xét yêu cu kháng cáo ca b đơn ông Nguyn Quang K Nguyn
Th X:
[2.1] V diện tích đất tranh chp:
Ti cấp sơ thẩm, diện tích đất tranh chấp theo yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn 335,9m
2
thuộc một phần thửa đất số 78, tờ bản đồ số 129, thị trấn L, huyện
L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là xã L, Thành phố Hồ Chí Minh), theo Sơ đồ do
Trung tâm k thuật Tài nguyên Môi trưng tnh B lp ngày 05-12-2023. Tuy
12
nhiên, ti cp phúc thm, phía b đơn yêu cầu đo đạc li diện tích đt tranh chp.
Tại Sơ đồ v trí do Trung tâm k thuật Tài nguyên và Môi trường tnh B lp ngày
14-3-2025 theo s ch ranh ca c nguyên đơn và bị đơn, th hin diện tích đt
tranh chp là 330,7m
2
, (lô 78/4) thuộc một phần thửa đất số 78, tờ bản đồ số 129,
thị trấn L, huyện L, tỉnh Rịa - Vũng Tàu (nay L, Thành phố Hồ Chí
Minh). Các đương sự đều xác nhận đồng ý với đồ vị trí ngày 14-3-2025 nên
Hội đồng xét xử thống nhất xác định diện tích đất tranh chấp theo đồ vị tnày.
Đối với các diện tích đất nguyên đơn và bị đơn chỉ ranh ngoài phần diện tích đất
330,7m
2
nêu trên thì các đương sự không tranh chấp trong vụ án này nên Tòa án
không xem xét, giải quyết.
[2.2] Về nguồn gốc đất tranh chấp:
[2.2.1] Theo nguyên đơn, diện tích đất trên nằm trong tổng diện tích đất
2.770m
2
thuộc thửa các đất số 267, 269, 270, 271B tờ bản đồ số 26 (cũ), tọa lạc
tại thôn L, thị trấn L do vợ chồng H vợ chồng ông K cùng góp tiền nhận
chuyển nhượng chung của ông Nguyễn Trung H2 HieêếuHieêếuvới g04 cây
vàng, mỗi bên 02 cây vàng. Ông K là người đại diện đứng ra giao dịch mua bán
với ông Nguyễn Trung H2 (giấy tờ mua bán do ông K giữ). Đến năm 1997, vợ
chồng bà H vợ chồng ông K, X tiến hành phân chia phần đất mua chung,
mỗi bên một nửa diện tích. Ranh giới đất giữa hai bên cây sung, y me hàng
cây duối (hiện nay tính từ Quốc lộ E vào cuối đất), hiện ranh giới đất này vẫn còn.
[2.2.2] Còn theo bị đơn, diện tích đất trên nằm trong tổng diện tích đất
2.770m
2
thuộc thửa các đất số 267, 269, 270, 271B tờ bản đồ số 26 (cũ), tọa lạc
tại thôn L, thị trấn L do vchồng ông K, X nhận chuyển nhượng của ông
Nguyễn Trung H2 HieêếuHieêếuvới g04 cây và 06 chỉ vàng, trong đó tiền mua
đất là 04 cây, còn tiền làm giấy tờ là 06 chỉ. Đến năm 1998, do bà H là chị gái bà
X muốn mua lại một phần diện tích đất trên nên ông K, bà X đồng ý sang nhượng
lại cho H 1.200m
2
bằng cách lập Giấy ủy quyền toàn quyền sdụng đất cho
H. Phần còn lại vchồng ông K vẫn quản lý, sử dụng từ đó đến nay. Quá trình sử
dụng, giữa hai bên chưa phân định chính xác ranh giới đất trên thực địa nên khi
bà H tiến hành đo đạc để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận đối với phần đất tranh
chấp thì ông K, bà X không đồng ý nên dẫn đến tranh chấp.
[2.2.3] Đối chiếu li khai nêu trên ca hai bên vi các tài liu, chng c do
các đương sự cung cp và Tòa án thu thập được thì thy: Li khai ca b đơn ông
K, bà X hoàn toàn phù hp vi các tài liu, chng c khác trong h vụ án gm:
Giy nhn tin cọc bán đt ngày 29-8-1995 (Bl 65), Văn bản chuyển nhượng
quyn s dụng đất ngày 25-7-1995 xác nhn ca y ban nhân dân th trn L
y ban nhân dân huyn L (Bl 62b-63), T khai nộp thuê đất ngày 21-10-1997
(Bl 68), Giy y quyn ngày 13-11-1998 (Bl 37, 70) li khai của người làm
chng Th Ư (v ông H Văn C người mua đất chung vi ông K). C
th, ti Giy nhn tin cọc bán đt ngày 29-8-1995, Văn bản chuyển nhượng
quyn s dụng đất ngày 25-7-1995 và T khai nộp thuê đất ngày 21-10-1997 đều
th hiện người nhn chuyển nhượng 2.770m
2
thuộc các thửa đất số 267, 269, 270,
13
271B từ ông Nguyễn Trung H2 ông Nguyễn Quang K, Nguyễn Thị X; giá
chuyển nhượng là 4 cây và 06 chỉ vàng được ghi nhận tại Giấy nhận tiền bán đất
ngày 29-8-1995 và phù hợp với lời khai của bà Lê Thị Ư. Đến năm 1998, ông K,
X mới sang nhượng lại cho bà Nguyễn Thị H4 1.200m
2
đất trong tổng diện tích
đất trên với giá 02 cây vàng bằng hình thức lập Giấy ủy quyền ngày 13-11-1998.
Do vậy, đủ căn cứ để chấp nhận lời khai của bị đơn về nguồn gốc phần đất tranh
chấp là do ông K, X nhận chuyển nhượng từ ông H2 năm 1995, đến năm 1998,
ông K, bà X chuyển nhượng lại cho bà H 1.200m
2
đất với giá 2 cây vàng là đúng
sự thật.
Còn lời khai của H vnguồn gốc đất nêu trên không phù hợp với các
chứng cứ do chính bà cung cấp và tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, cụ thể bà
H không có chứng cứ chứng minh việc bà góp ½ số tiền để nhận chuyển nhượng
đất của ông H2, không chứng cứ chứng minh được chia ½ diện tích đất mua
của ông H2 từ năm 1997; số tiền bà H xác nhận đã đưa cho ông K là 02 cây vàng
so với số vàng ông K phải trả cho ông H2 4 cây 06 chỉ không bằng ½ như H
khai; diện tích đất H được ông Khải uyền 1.200m
2
so với tổng diện tích
đất nhận chuyển nhượng của ông H2 2.770m
2
(hoặc theo Giấy ủy quyền ghi
nhận 2.494m
2
) cũng đều không bằng ½ như H khai. Do vậy, không căn
cứ chấp nhận lời khai trên của H vviệc được phân chia ½ diện tích đất mua
chung với ông K, bà X là 1.200m
2
.
[2.3] Về việc xác định ranh giới phần đất 1.200m
2
trên thực tế:
Theo nguyên đơn, sau khi nhận sang nhượng đất chung với ông K, bà X vào
năm 1995, đến năm 1997 hai bên đã thỏa thuận chia đôi diện tích đất sang nhượng
từ ông H2, mỗi bên được ½ tương đương 1.200m
2
. Ranh giới phần đất của nguyên
đơn và bị đơn là các cây sung, cây me và hàng cây duối được trồng từ đầu đường
Q vào cuối đất. Sau khi phân chia, H đã làm hàng rào lưới B40 bao quanh phần
đất thuộc quyền sdụng của bà. Còn theo bị đơn thì khi ủy quyền cho H sử
dụng 1.200m
2
đất nêu trên, do chị em ruột với nhau nên hai bên chưa đo đạc,
xác định ranh giới chính xác phần đất này, ông K bà X không xác nhận ranh giới
đất các cây trồng như H nêu cũng khẳng định không việc H làm
hàng rào lưới B40 làm ranh đất giữa hai bên như bà H khai.
Xét, H không đưa ra được chứng cứ chứng minh việc thỏa thuận với
bị đơn về việc chia ½ diện tích đất và ranh giới phần đất giữa hai bên các cây
trồng như bà khai. Bị đơn không xác nhận lời khai trên của nguyên đơn. Kết quả
đo đạc xem xét thẩm định tại chỗ của cấp phúc thẩm cho thấy các y trồng
mà bà H choranh giới đất của bà và ông K, X được trồng rải rác không
thẳng hàng, không trùng với ranh giới thửa đất số 77 của ông K đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên thực địa hiện không hàng rào lưới B40 tại
vị trí H cho ranh giới đất, H cũng xác nhận hàng rào này đã bị tháo
dỡ khi cho ông K thuê đất vào năm 2010. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có căn
cứ nào để xác định giữa nguyên đơn bđơn đã thỏa thuận phân chia ranh
14
giới phần đất mua của ông H2 tại vị trí do bà H xác định là các cây sung, cây me
và hàng cây duối.
Lời khai của bđơn về việc các bên chưa thỏa thuận ràng về ranh giới
phần đất 1.200m
2
mà bị đơn chuyển nhượng lại cho nguyên đơn là có căn cứ nên
được chấp nhận.
[2.4] Về việc thu hồi đất và nhận tiền bồi thường do thu hồi đất:
Theo các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự cung cấp và chứng cứ Tòa
án cấp phúc thẩm thu thập tại Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai và Trung tâm
phát triển quỹ đất huyện L (cũ), thì bà H, ông L và ông K, bà X bị Nhà nước thu
hồi đất 02 lần tại các thửa đất đang tranh chấp. Cụ thể, lần 1, ông L, H bị
thu hồi 543m
2
, theo Quyết định số 2768/QĐ-UB ngày 28-3-2001 của Ủy ban nhân
dân tỉnh B (Bl 05); lần 2, ông L, H bị thu hồi 94,1m
2,
theo Quyết
định số
2474/QĐ-UB ngày 09-4-2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh B (Bl 04). Tổng cộng hai
lần nguyên đơn bị thu hồi 637,1m
2
.
Tòa án cấp phúc thẩm đã yêu cầu quan đo vẽ lồng ghép Sơ đồ vị tđo vẽ
thực tế hiện nay với bản đồ thu hồi đất năm 2001 năm 2003 nhưng quan này
từ chối lồng ghép vì bản đồ thu hồi là bản đồ giấy chưa được số hóa. Còn kết quả
lồng ghép của quan đo vẽ tại cấp thẩm cũng chỉ giá trị tham khảo. Do
vậy, không có căn cứ đxác định ranh giới phần đất mà ông L, H bị thu hồi
đã được nhận tiền bồi thường thuộc vị trí nào trong Sơ đồ vị ttheo hiện trạng sử
dụng.
[2.5] Từ các căn cứ được nêu tại mục [2.2], [2.3] và [2.4] nêu trên cho thấy:
Diện tích đất mà bà H nhận chuyển nhượng lại từ ông K, bà X là 1.200m
2
, trừ đi
phần đất nguyên đơn bị thu hồi 637,1m
2
thì diện tích đất còn lại H được sử
dụng là 562,9m
2
. Sau khi trừ phần diện tích đất thuộc thửa 269 mà H đang sử
dụng không trang chấp 391,5m
2
thì diện tích còn lại H được sử dụng
171,4m
2
. Hiện bà H đang sdụng một phần thửa 78 tiếp giáp phần đất tranh chấp
(Lô 78/3) diện tích 133m
2
nên phần đất H còn thiếu 38,4m
2
thuộc một
phần thửa 78, tờ bản đồ 129 là phần đất đang tranh chấp.
[2.6] Về quá trnh sử dụng đất trên thực tế:
Các đương sự đều xác nhận hiện nay bị đơn đang người thực tế sdụng
toàn bộ diện tích đất tranh chấp để làm quán bán cà phê. Tuy nhiên, theo nguyên
đơn, bị đơn sử dụng phần đất tranh chấp từ năm 2010 theo hợp đồng thuê đất với
nguyên đơn ngày 15-9-2010, gthuê 3 năm đầu là 1.500.000 đồng/tháng, tnăm
thứ 4 đến nay là 2.000.000 đồng/tháng; giá trên là để thuê toàn bộ phần đất tranh
chấp và bị đơn vẫn trả đủ tiền thuê đất cho nguyên đơn đến năm 2020 thì ngừng
cho đến nay. Còn theo bị đơn, sở dĩ bị đơn Hợp đồng thuê đất với H vào
ngày 15-9-2010 là giữa hai bên chưa phân chia rạch ròi phần đất của mỗi người
được sử dụng trong phần đất có tranh chấp, có một phần đất của bà H nằm trong
phần đất tranh chấp nhưng chưa xác định diện tích và vị trí cụ thể. Trong khi đó,
con bị đơn ông Q lại nhu cầu mở quán phê trên cả diện tích đất tranh chấp
15
nên bị đơn mới đồng ý hợp đồng thuê đất, nhưng khi hợp đồng bị đơn đã
cố tình không ghi rõ diện tích đất thuê là bao nhiêu.
Từ đó, đủ căn cứ kết luận từ năm 2010 đến nay, bị đơn là người trực tiếp sử
dụng phần đất tranh chấp.
[2.7] Từ những căn cứ phân tích như trên, Hội đồng xét xử thống nhất
chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận một phần yêu cầu kháng
cáo của bị đơn, sửa bản án thẩm theo hướng chchấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả lại diện tích đất 38,4m
2
thuộc
một phần thửa 78, tờ bản đồ 129 thị trấn L, đối với phần diện tích đất tranh chấp
còn lại không thuộc quyền sử dụng hợp pháp của nguyên đơn n không chấp
nhận.
[2.8] Đối với Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày 15-9-2010:
Căn cứ theo chứng cứ là Hợp đồng thuê đất ngày 15-9-2010 (Bl 38) thì các
bên không thỏa thuận về diện tích đất thuê là bao nhiêu m
2
, thuộc thửa đất nào,
ranh giới ra sao nên không có căn cứ chấp nhận lời khai của nguyên đơn về việc
bị đơn thuê toàn bộ diện tích đất tranh chấp của nguyên đơn. Mặt khác, như đã
phân tích trên, trong tổng diện tích đất tranh chấp, 38,4m
2
thuộc quyền sử
dụng của nguyên đơn nên việc bị đơn hợp đồng thuê đất của nguyên đơn
không ghi diện tích thuê là n cứ. Do bị đơn thừa nhận thuê đất của
nguyên đơn nhưng từ tháng 10-2020 đến nay không trả tiền thuê đã vi phạm
nghĩa vụ trả tiền thuê đất theo thỏa thuận của các bên vi phạm khoản 2 Điều
489 Bộ luật Dân sự năm 2005. Vì vậy, nguyên đơn quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng thuê đất với bị đơn. Yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn là hoàn
toàn có căn cứ nên được chấp nhận.
Về số tiền thuê đất nguyên đơn chưa trả cho bị đơn: Theo hai bên đương sự
xác nhận tiền thuê đất mỗi tháng từ năm thứ 4 trở đi là 2.000.000 đồng. Do không
xác định được số tiền thuê này tương ứng với diện tích đất thuê là bao nhiêu nên
bị đơn phải trả toàn bộ số tiền thuê 2.000.000 đồng/tháng cho phần đất thuộc
quyền sử dụng của nguyên đơn là 38,4m
2
. Cấp thẩm buộc bị đơn trả số tiền
thuê quyền sử dụng đất còn thiếu từ tháng 10-2020 cho đến tng 06-2024 vi
tng s tiền 88.000.000 là có căn cứ nên giữ nguyên quyết định này.
[2.9] Đồi với diện tích đất 132,8m
2
thuộc lô 78/5: Do các đương sự xác nhận
không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên không xem xét. Trường hợp
các bên có tranh chấp thì có quyền khởi kiện vụ án khác theo đúng quy định của
pháp luật.
[3] Về chi phí tố tụng: Tổng chi ptố tụng tại cấp thẩm 14.776.303
đồng. Do yêu cu khi kin của nguyên đơn chỉ đưc chp nhn mt phn nên
nguyên đơn và bị đơn phải chu mi bên ½ chi phí t tụng là 7.388.000 đồng. B
đơn phải hoàn tr cho nguyên đơn s tiền này do nguyên đơn đã tạm ng toàn b
chi phí trên.
16
Chi p đo đc, xem xét thẩm định ti ch cp phúc thm 13.658.340
đồng. Ông K t nguyn chịu và đã nộp xong.
[4] V án phí dân s sơ thẩm:
Nguyn Th H, ông Nguyn Quang K, Nguyn Th X đưc min np
án phí dân s sơ thẩm do là người cao tui.
[5] V án phí dân s phúc thm: Kháng cáo đưc chp nhn mt phn nên
b đơn không phải chu án phí dân s phúc thẩm, được hoàn tr s tin tm ng
án phí phúc thẩm đã np.
Vì các l trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận một
phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Quang K, bà Nguyễn Thị X, sửa
một phần bản án sơ thẩm như sau:
Căn cứ khon 3, khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều
227, Điều 228, Điều 271, Điều 272, Điều 296 B lut T tng dân sự; các điều
166, 170, 203 Luật Đất đai; Điều 422, 428, 472, 473, 474, 476, 481, 482 B lut
Dân s 2015; Khoản 2 Điều 468 B lut Dân s 2015; Điều 12, Điều 27, Điều 29
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, tuyên x:
1. Chp nhn mt phn yêu cu khi kin ca bà Nguyn Th H v vic
Tranh chp quyn s dụng đất, tranh chp hợp đồng thuê quyn s dụng đất
vi ông Nguyn Quang K và bà Nguyn Th X.
1.1. Buộc ông Nguyễn Quang K, Nguyễn Thị X phải tháo dỡ, di dời các
công trình kiến trúc và cây trồng hiện trên diện tích đt 38,4m
2
(ký hiệu
78/7) thuộc một phần thửa đất số 78, tờ bản đồ số 129, thị trấn L, huyện L, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là xã L, Thành phố Hồ Chí Minh) và trả lại diện tích đất
này cho bà Nguyễn Thị H.
1.2. Công nhận cho Nguyễn Thị H được quyền sử dụng diện tích đất
38,4m
2
(ký hiệu lô 78/7) thuộc một phần thửa đất số 78, tờ bản đồ số 129, thị trấn
L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là xã L, Thành phố Hồ Chí Minh).
1.3. Chm dứt hợp đồng thuê đất giữa bên cho thuê bà Nguyễn Thị H với
bên thuê đất ông Nguyễn Quang K, bà Nguyễn Thị X đối với diện tích đất 38,4m
2
(ký hiệu 78/7) thuộc một phần thửa đất số 78, tờ bản đồ số 129, thị trấn L,
huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là xã L, Thành phố Hồ Chí Minh).
(V trí và diện tích đất 38,4m
2
(ký hiệu lô 78/7) và tài sn, vt kiến trúc trên
phần đất này được xác định theo các đim tọa độ 6a, 6b, 11, 11d, 8c, 8b, 6a ti
đồ v trí do Trung tâm k thuật Tài nguyên Môi trưng tnh B lp, kèm theo
Bn án).
17
1.4. Nguyn Th H4 đưc quyn liên h với quan Nhà nước thm
quyền để đăng quyền s dụng đất đối vi diện tích nêu trên theo đúng quy đnh
ca pháp lut.
1.5. Ông Nguyễn Quang KNguyễn Thị X có nghĩa vụ thanh toán cho
Nguyễn Thị H số tiền thuê nhà còn thiếu, tính từ tháng 10-2020 đến tháng 06-
2024 vi tng s tin 88.000.000 (tám mươi tám triệu) đồng.
2. Không chp nhn yêu cu khi kin ca bà Nguyn Th H v vic yêu cu
ông Nguyn Quang K, bà Nguyn Th X tr li diện tích đất 292,4m
2
(ký hiu lô
78/4) thuộc một phần thửa đất số 78, tờ bản đồ số 129, thị trấn L, huyện L, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu (nayL, Thành phố Hồ Chí Minh), theo các điểm tọa độ
13, 14, 15, 4e, 4c, 4b, 8c, 11d, 11a, 11b, 11c, 12, 13, tại đồ v tdo Trung tâm
k thut Tài nguyên và Môi trường tnh B lp, kèm theo Bn án.
3. V chi phí đo vẽ, đnh giá, giám định, sao lc tài liu:
Ông Nguyn Quang K, bà Nguyn Th X nghĩa vụ hoàn tr cho bà Nguyn
Th H s tin 7.388.000 (by triệu, ba trăm tám mươi tám ngàn) đồng chi phí t
tng ti cấp sơ thẩm.
Ông Nguyn Quang K, bà Nguyn Th X t nguyn chịu 13.658.340 (mười
ba triệu, sáu trăm năm mươi m ngàn, ba trăm bn mươi) đng chi phí t tng ti
cp phúc thẩm và đã nộp xong.
K t ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phi thi hành án còn phi chu khon tin lãi ca s
tin n phi thi hành án theo mc lãi suất quy định ti Điều 357, Điều 468 ca
B lut Dân s năm 2015.
4. Án phí dân s sơ thẩm:
Bà Nguyn Th H đưc min np án phí dân s sơ thẩm.
Ông Nguyn Quang K, bà Nguyn Th X đưc min np án phí dân s
thm.
5. Án phí dân s phúc thm:
Ông Nguyn Quang K, bà Nguyn Th X không phi chu. Hoàn tr cho ông
Nguyn Quang K, bà Nguyn Th X s tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tm ng
án phí phúc thm đã nộp, theo biên lai thu tin s 0001588 ngày 08-7-2024 ca
Chi cc Thi hành án dân s huyện Long Điền, tnh Ra Vũng Tàu (nay Thi
hành án dân s Thành ph H).
6. Bn án dân s phúc thm hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án (09-7-
2025).
Trường hp bn án, quyết định được thi hành theo qui đnh tại Điu 2 Lut
Thi hành án dân s thì người được thi hành án dân sự, người phi thi hành án dân
s quyn tho thun thi hành án, quyn yêu cu thi hành án, t nguyn thi hành
án hoc b ng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Lut
18
Thi hành án dân s; thi hiệu thi hành án được thc hiện theo qui định tại Điều
30 Lut Thi hành án dân s.
Nơi nhận:
- VKSND Tp. H Chí Minh;
- TAND Khu vc 13 - Tp. H Chí Minh;
- VKSND Khu vc 13 - Tp. H Chí Minh;
- Thi hành án dân s Tp. H Chí Minh;
- Các đương sự;
- Lưu: Tòa Dân sự, H sơ vụ án (07).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN - CH TA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Cao Minh V
19
Tải về
Bản án số 739/2025/DS-PT Bản án số 739/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 739/2025/DS-PT Bản án số 739/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất