Bản án số 72/2025/DS-PT ngày 17/09/2025 của TAND tỉnh Ninh Bình về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 72/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 72/2025/DS-PT ngày 17/09/2025 của TAND tỉnh Ninh Bình về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Ninh Bình
Số hiệu: 72/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Nguyễn Thị M khởi kiện chia di sản thừa kế với bị đơn là ông Nguyễn Văn Th
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NINH BÌNH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 72/2025/DS-PT
Ngày: 11 - 9 - 2025
V/v tranh chấp về thừa kế tài sản
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: bà Nguyễn Thị Phượng.
Các Thẩm phán:
+ Bà Bùi Thị Tho;
+ Ông Lại Văn Tùng.
- Thư phiên tòa: Phan Thị Hải Yến Thư Tòa án nhân dân tnh
Ninh Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình: bà Phạm Minh Ngc -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 11/9/2025 tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xử phúc thẩm
công khai vụ án dân sự th số 21/2025/TLPT-DS ngày 25/4/2025 về vic
“Tranh chấp về thừa kế tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2024/DS-ST ngày 27/12/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình (nay là Tòa án nhân dân khu vực 4
Ninh Bình) bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số 39/2025/QĐ-PT ngày
25/7/2025, Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm số 46/2025/QĐ-PT ngày
22/8/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:Nguyễn Thị M, sinh năm 1959; địa chỉ: số nhà F, ngõ C,
đường H, phố V, phường N, thành phố H (nay là phường H), tỉnh Ninh Bình. (Có
mặt)
*. Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: ông Hoàng Trung K, sinh năm
1960; địa chỉ: số nhà F, đường T, phố P, phường N, thành phố H (nay phường
H), tỉnh Ninh Bình. người đại diện theo ủy quyền (văn bn ủy quyền ngày
20/9/2023). (Vắng mt)
2
2. Bị đơn: ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1965 Thị C, sinh năm 1965;
cùng địa chỉ: xóm A, xã K, huyện Y (nay K), tỉnh Ninh Bình. (Ông T mặt;
bà C vắng mặt, có Đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
*. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: ông Trương Đình T1
- Luật của Công ty L1; thuộc Đoàn Luật tỉnh N; địa chỉ: số H, đường T,
phường H, tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Nguyễn Thị V, sinh năm 1956; địa chỉ: m A, K, huyện Y (nay
xã K), tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)
- Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1960; địa chỉ: tổ dân phố D, thị trấn P, huyn
B (nay là xã P), tỉnh Lào Cai. (Vắng mặt)
*. Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Thị T2: Nguyễn Thị M, sinh
năm 1959; địa chỉ: số nhà F, ngõ C, đường H, phố V, phường N, thành phố H (nay
phường H), tỉnh Ninh Bình. người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền
ngày 02/01/2024). (Có mặt)
- Bà Nguyễn Thị T3, sinh năm 1965; nơi thường trú: xóm A, xã K, huyện Y
(nay là K), tỉnh Ninh Bình. Nơi đang sinh sống: số nhà D, đường A, Bến Đền
T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam (nay xã G, thành phố Đà Nẵng). (Vắng mặt,
có Đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
*. Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Thị T3: Nguyễn Thị M, sinh
năm 1959; địa chỉ: số nhà F, ngõ C, đường H, phố V, phường N, thành phố H (nay
phường H), tỉnh Ninh Bình. người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền
được công chứng ngày 29/9/2022). (Có mặt)
- Nguyễn Thị D, sinh năm 1969; địa chỉ: xóm G, xã K, huyện Y (nay
xã K), tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt, có Đơn xin vắng mặt)
- Bà Nguyễn Thị D1, sinh năm 1970; địa chỉ: xóm G, xã K, huyện Y (nay là
xã K), tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)
- Ủy ban nhân dân huyện Y, tỉnh Ninh Bình (Người kế thừa quyền và nghĩa
vụ tố tụng là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã K, tỉnh Ninh Bình); địa chỉ: xã K, tnh
Ninh Bình. (Vắng mặt, có Đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
4. Người làm chứng:
- Ông Ngọc B; địa chỉ: xóm C, K, huyện Y (nay K), tỉnh Ninh
Bình.
- Ông Phạm Văn T4; địa chỉ: xóm C, xã K, huyện Y (nay là xã K), tỉnh Ninh
Bình.
3
- Chị Nguyễn Thị Hải Y; nơi làm việc: Ủy ban nhân dân xã K, huyện Y (nay
là xã K), tỉnh Ninh Bình.
(Tòa án không triệu tập ông B, ông T4, chY tham gia phiên tòa phúc thẩm)
5. Người kháng cáo: Nguyễn Thị M (nguyên đơn); bà Nguyễn Thị V, bà
Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị D1 ều người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan).
6. Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Ninh Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/6/2020, trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn là bà Nguyễn Thị M, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình
bày:
Bố đẻ bà M là cụ Nguyễn Văn L (chết ngày 14/3/2013) và mẹ đẻ là cụ Phm
ThT5 (chết ngày 23/6/2018). Cụ L, cụ T5 07 người con là bà Nguyễn Thị V,
Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị T2, bà Nguyễn Thị T3, ông Nguyễn Văn T, bà
Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị D1.
Cụ L, cụ T5 chết để lại tài sản 410m
2
đất (260m
2
đt ở, 150m
2
đất vườn)
tại thửa s188, tờ bản đsố 13, địa chỉ thửa đất: xóm A, K, huyện Y, tỉnh Ninh
Bình; đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H635453 ngày
10/5/1997 mang tên cNguyễn Văn L (sau đây viết tắt thửa đất s188); trên
đất có tài sản 01 nhà ở của bà V và 01 nhà 02 tầng, 01 lán tôn của vợ chng
ông T, bà C.
Cụ L, cụ T5 chết không đlại di chúc. Bản di chúc đề ngày 12/5/2012
chứng thực của y ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) xã K do ông T cung
cấp cho Tòa án không phải là di chúc của cụ L cụ T5. Bản di chúc không hp
lệ thời điểm lập di chúc Giấy chứng nhận quyền sdụng đất (sau đây viết tắt
GCNQSDĐ) đang được thế chấp tại Ngân hàng, ththức văn bản di chúc không
đúng, chữ T5nhưng không ghi htên, nội dung di chúc chỉ nói đến
chnhưng không ràng. Sau đó cụ T5 đã văn bản sửa đổi di chúc, việc
chuyển quyền sử dụng đất của cụ T5 sang cho vợ chồng ông T trái pháp luật.
Vic UBND huyện Y ra Quyết định số 100/QĐ-UBND ngày 17/10/2013 cho phép
hộ cụ T5 chuyển quyền sử dụng thửa đất số 188 cho hộ ông T cấp GCNQSDĐ
số BP 382751 ngày 17/10/2013 mang tên ông T, bà C; việc chuyển nhượng này
không hợp lệ nên M đã khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tnh
Ninh Bình, yêu cầu hủy GCNQSDĐ ghi tên ông T, C. Ngày 26/11/2018 UBND
huyện Y ban hành Quyết định số 1454/QĐ-UBND với nội dung thu hồi, hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 382751 cấp ngày 17/10/2013 ghi tên ông
Nguyễn Văn T Thị C. Ngày 29/11/2018 UBND huyện Y đã ban hành
Quyết định số 1474/QĐ-UBND với nội dung “Hủy việc cho phép hộ Phạm Thị
T5 chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Văn T”. Thửa
đất số 188 diện tích 410m
2
đất là tài sản của cụ L và cụ T5. Bà M yêu cầu Tòa án
4
chia thừa kế di sản của cụ L cụ T5 410m
2
đất tại thửa đất số 188 cho 07
người con của hai cụ gồm bà V, bà M, bà T2, T3, ông T, bà D, bà D1; cụ th:
phần đất vợ chồng ông T đã xây nhà thì chia cho ông T; phần diện tích đất còn lại
bà V đang sử dụng chia cho M, V, T2, bà T3, D, D1 sử dụng
chung và để bà V đại diện đứng tên quyền sử dụng đất; yêu cầu vchồng ông T,
bà C phải tháo dỡ 01 lán tôn xây dựng trên đất chia cho 06 chị em bà.
Quá trình giải quyết tại Toà án cấp sơ thẩm, bị đơn ông Nguyễn Văn T
Thị C trình bày:
Ông T, C thống nhất với lời khai của M về quan hệ huyết thống; về
thời gian cụ L, cụ T5 chết. Cụ L cụ T5 tài sản thửa đất số 188, diện tích
410m
2
đất. Sau khi bà M, T2, bà D và bà D1 đi xây dựng gia đình, chỉ còn cụ
L, cụ T5, vợ chồng ông T, bà C V, T3 trên thửa đất. Ngày 12/5/2012 c
L, cụ T5 lập di chúc đlại ngôi nhà 02 tầng (nhà do vchồng ông T xây) và
toàn bộ diện tích đất là 410m
2
thừa kế cho vợ chồng ông T, C sử dụng với điu
kiện phải có trách nhiệm đảm bảo chỗ ở cho hai chị gái là bà V và bà T3 đến khi
qua đời. Bản di chúc chứng thực của UBND K. Khi viết di chúc cL, cụ
T5 rất khỏe mạnh, minh mẫn, tnguyện cho vợ chồng ông T đất. Ông T đang thực
hiện đúng di chúc, hai chị đang nửa đất. Trong di chúc cụ L, cụ T5 chỉ nói đến
việc lo chỗ cho bà V và T3, không nói đến người khác, những người đó chỉ
được lên thờ cúng, không được hưởng thửa đất đó không được ở. Năm
2013 cụ L chết, gia đình muốn sang a đỏ cho vchồng ông T nên cụ T5 đã thay
đổi nội dung di chúc phần tài sản của cụ T5. Ngày 26/9/2013, cT5 làm đơn
chuyển toàn bộ đất nhà của cụ L, cụ T5 sang cho vợ chồng ông T. Hồ thủ
tục đã làm đầy đủ, được UBND huyện Y cho phép chuyển nhượng vợ chồng
ông T đã được cấp GCNQSDĐ mang tên Nguyễn Văn T, Thị C. Năm 2018 cụ
T5 chết, chỉ còn V và vợ chồng ông T trên thửa đất. Trước khi cụ T5 chết,
M khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy việc chuyển nhượng đất của cụ T5 sang cho vợ
chồng ông T. Trong quá trình Tòa án giải quyết, UBND huyện Y đã ra quyết đnh
hủy việc cho phép cụ T5 chuyển quyền sử dụng đất sang cho vợ chồng ông T. Nay
ông T và bà C đề nghị Tòa án xử bác đơn của bà M, bà V, bà T2, bà T3, bà D, bà
D1 đất này cụ L cụ T5 đã đã lập di chúc cho vợ chồng ông T vợ chng
ông T đang ở ổn định.
Quá trình giải quyết tại Tán cấp thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị D1, bà Nguyn
ThT3, bà Nguyễn Thị T2người đại diện hợp pháp của Nguyễn Thị T3, bà
Nguyễn Thị Thanh C1 trình bày:
Các thống nhất với lời khai của nguyên đơn về quan hệ huyết thống; về
thời gian cụ L, cụ T5 chết; về di sản của cụ L, cụ T5 để lại; cụ L, cụ T5 chết đều
không để lại di chúc.
Ngày 10/5/1997 UBND huyện Y cấp GCNQSDĐ số H635453 đứng tên bố
các Nguyễn Văn L. Ngày 17/10/2013 UBND huyện Y cấp lại GCNQSDĐ
đứng tên ông Nguyễn Văn T, vợ Thị C hình thức (chuyển thừa kế). Vic
5
chuyển thừa kế trái pháp luật nên các đã khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh
Ninh Bình yêu cầu hủy GCNQSDĐ mang tên vợ chồng ông Nguyễn Văn T. Ngày
27/11/2018, UBND huyện Y ra quyết định số 1454/QĐ-UBND nội dung thu
hồi, hủy GCNQSDĐ số BP 382751 cấp ngày 17/10/2013.
Sau khi hủy GCNQSDĐ, gia đình không thống nhất được việc chia tài sản
410m
2
đất tại thửa đất số 188. Chị em đã thống nhất để M đứng tên khi
kiện đến Tòa án phân chia thừa kế theo quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án
giải quyết chia di sản của cụ L, cụ T5 410m
2
đất tại thửa đất s188 cho 07
người con của hai cụ. Phần đất vchồng ông T đã xây nhà thì chia cho ông T;
phần đất bà V đang sử dụng chia cho 06 chị em là bà M, bà V, bà T2, bà T3, bà D,
D1 sử dụng chung và để bà V đại diện đứng tên quyền sdụng đất; yêu cầu vợ
chồng ông T, bà C phải tháo dỡ 01 lán tôn xây trên đất chia cho 06 chị em.
Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, người đại diện hợp pháp
của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (UBND huyện Y) quan điểm: đề
nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án thẩm s03/2023/DS-ST ngày 12/01/2023 a án nhân dân
huyện Yên Khánh quyết định: chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế của
nguyên đơn là bà M; yêu cầu chia thừa kế của người có quyền, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án là bà V, bà T2, bà T3, bà D, bà D1. Chia cho bà M, bà V, bà T2, bà T3,
D, D1 được hưởng di sản thừa kế của cụ L cụ T5 sau khi chết để lại
giao cho bà V đại diện đứng tên trên GCNQSDĐ, di sản là 245,7m
2
đất, trong đó
đất 162m
2
, đất vườn 92,7m
2
(sơ đkèm theo). Chấp nhận yêu cầu của
M, V, T2, T3, D, D1. Buộc vợ chồng ông T C phải tháo
dỡ “01 nhà lán tôn” và các tài sản khác (nếu có) xây dựng trên phần đất chia thừa
kế cho bà M, bà V, bà T2, bà T3, bà D, bà D1 để trả lại quyền sử dụng đất cho bà
M, bà V, T2, bà T3, bà D, bà D1. Giao cho ông T tiếp tục quản lý 155,3m
2
đất.
Ngoài ra bản án còn quyết định về chi phí tố tụng, về án phí, về quyền kháng cáo
cho các đương sự.
Tại Đơn kháng cáo ngày 26/01/2023 ông Nguyễn Văn T Thị C
kháng cáo toàn bBản án thẩm số 03/2023/DS-ST ngày 12/01/2023 của Tòa
án nhân dân huyện Yên Khánh; yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án
thẩm; công nhận di chúc ngày 12/5/2012 của cụ L, cụ T5 để lại cho vợ chồng ông
T 410m
2
đất tại thửa số 188 là hợp pháp.
Tại Quyết định kháng nghphúc thẩm số 02/QĐ-VKS-DS ngày 10/02/2023
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình quyết đnh: đề nghTòa án
cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng xác định phần di chúc của cụ L hợp
pháp, chia thừa kế theo pháp luật phần di sản của cụ T5 cho các đồng thừa kế.
Tại Bản án dân sphúc thẩm số 16/2023/DS-PT ngày 22/6/2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Ninh Bình đã quyết định: hủy Bản án thẩm số 03/2023/DS-ST
ngày 12/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh và chuyển hồ vụ án
cho Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
6
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2024/DS-ST ngày 27/12/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình (nay là Tòa án nhân dân khu vực 4 –
Ninh Bình) đã quyết định: chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa
kế theo pháp luật của nguyên đơn. Chia cho bà M, V, T2, T3, D,
D1 và ông T được hưởng phần di sản thừa kế của cụ T5 sau khi chết để lại di sản
là 205m
2
đất. Mỗi kỷ phần là 29,285m
2
đất giá tr372.545.000 đồng. V
được quyền quản lý, sử dụng đối với phần diện tích của ông T, bà C được hưởng
di sản thừa kế của cụ L cụ T5 đối với phần diện tích đất được chia còn lại
61,885m
2
giá trị 767.899.500 đồng được quản 01 cây nhãn, 01 bể ớc,
cùng các tài sản của bà có trên đất. Buộc bà V có trách nhiệm thanh toán cho ông
T, bà C theo giá trị số tiền là 767.899.500 đồng. Giao cho bà V đại diện đứng tên
trên GCNQSDĐ, di sản là 237,6m
2
đất. Chia cho ông TC được hưởng phần
di sản thừa kế theo di chúc của cụ L sau khi chết để lại là 172,4m
2
đất. Ông T
bà C được nhận stiền do bà V thanh toán, giá trị diện tích đất được hưởng thừa
kế còn lại có giá trị là 767.899.500 đồng (cóđồ kèm theo). Chấp nhận yêu cầu
của M, V, T2, bà T3, bà D, D1. Buộc vợ chồng ông T bà C phi
tháo d01 nhà lán tôn và các tài sản khác (nếu có) xây dựng trên phần đất chia
thừa kế cho M, V, bà T2, T3, D, D1 để trlại quyền sử dụng đất
cho bà M, bà V, bà T2, bà T3, bà D, D1. Đồng thời bà V phải tự tháo dỡ phn
lán tôn, cánh cổng và tài sản khác có trên phần đất chia cho ông T, bà C. Ngoài ra
bản án còn quyết định về chi phí tố tụng, về lãi suất chậm thi hành án, về án phí,
về quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 29/12/2024, M, V, D, D1 kháng cáo bản án thẩm với
nội dung: hủy bản án dân sự thẩm để giải quyết lại ván theo pháp luật quy
định. Vi phạm tố tụng: Thẩm phán Chủ tophiên toà người bị tcáo trong vụ
án này. Vi phạm nội dung: nhiều vấn đchưa làm rõ, di chúc do ông T cung cấp
tại Tòa án tỉnh không hợp pháp. Biên bản ngày 08/7/2015, Biên bản ngày
09/9/2015 do UBND xã K tổ chức không được xem xét. GCNQSDĐ cấp cho hộ
gia đình hay cá nhân cụ L.
Ngày 20/01/2025 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình ban
hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKS-DS kháng nghị Bản án sơ
thẩm với nội dung: thnhất, Tòa án cấp sơ thẩm tính giá trị đất của ông T, bà C
được hưởng thừa kế không chính xác. Diện tích đất ông T, C được chia, được
ởng thừa kế 234,285m
2
đất. Căn cứ biên bản định giá đã được các bên đương
sự thống nhất, giá đt 20.000.000 đồng/m
2
, đất vườn 105.000 đồng/m
2
. Do
đó, giá trị đất ông T bà C được hưởng là 2.980.419.970 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm
xác định giá trị 2.926.420.000 đồng là không đúng. Thứ hai, Tòa án cấp sơ thẩm
tính án phí của ông T bà C không chính xác: tổng án phí ông T C phải chịu:
102.784.750 đồng, trong đó ông T phải chịu 60.706.000 đồng; C phải chịu
42.078.750 đồng. Bản án buộc ông T bà C nộp án phí dân sự sơ thẩm 90.528.400
đồng là tính thiếu 12.256.350 đồng. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét
xử phúc thẩm: sửa Bản án thẩm s07/2024/DS-ST ngày 27/12/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Yên Khánh về tính lại án phí sơ thẩm của ông T và bà C.
7
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
- M, V, D1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, không đồng ý nội
dung kháng nghị, không đồng ý nội dung thay đổi kháng nghị về phần xác đnh
lại phần giá trị di sản mà ông T, bà C được hưởng thừa kế của cL và cụ T5. Các
xác định di chúc không hợp pháp. Các không đồng ý việc Tán cấp
thẩm buộc bà V phải trả cho ông T 767.899.500 đồng.
- Ông T và người bảo vquyền, lợi ích cho bị đơn không đồng ý yêu cầu
kháng cáo của các bà M, V, D, D1.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình phát biểu ý kiến như sau:
trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên a, đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Ninh Bình thay đổi nội dung kháng nghị, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án
thẩm theo hướng xác định lại phần gtrdi sản ông T, C được hưởng
thừa kế của cụ L cụ T5. Xác định lại phần giá trị tài sản chênh lệch các
đồng thừa kế còn lại là các bà M, V, T2, T3, D, D1 phải thanh toán cho ông T bà
C. Tại thời điểm xét xử phúc thẩm ông T, bà C và bà T3người cao tuổi nên cn
xem xét miễn án phí dân sự thẩm cho các đương sự trên. Đề nghị Hội đồng xét
xử: căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca Ủy ban Thường vụ Quc
hội; không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà M và những người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan là bà V, bà D, bà D1; chấp nhận nội dung thay đổi nội dung
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình; sửa Bản án
dân sự thẩm số 07/2024/DS-ST ngày 27/12/2024 của Tòa án nhân dân huyn
Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình (nay là Tòa án nhân dân khu vực 4 Ninh Bình) theo
ớng: chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện chia thừa kế của bà M đối với di
sản của cụ L cụ T5 quyền sử dụng 410m
2
đất (gồm 260m
2
đất 150m
2
đất vườn) tại thửa 188. Chia cho ông T C được quản sử dụng 172,4m
2
(gồm 110,3m
2
đất ở và 62,1m
2
đất vườn) trị giá 2.212.520.500 đng tại một phần
thửa số 188 có vị trí kích thước nbản án thẩm đã tuyên. Ông T bà C đưc
sở hữu toàn bộ tài sản, công trình xây dựng của ông T, bà C trên đất. Chia cho
V, bà M, T3, bà T2, bà D, D1 quản lý sử dụng 237,6m
2
(gồm 149,7m
2
đất
và 87,9m
2
đất vườn) trị giá 3.003.229.500 đồng tại một phần thửa số 188 có vị trí
kích thước như bản án thẩm đã tuyên. Các bà V, M, T2, T3, D, D1 được sở hu
toàn bộ tài sản, công trình xây dựng của V trên trên đất. Ghi nhận sự tự nguyện
của bà V không buộc các M, T2, T3, D, D1 phải thanh toán phần công trình,
tài sản V đã xây dựng trên phần đất giao cho 06 chem bà. Buộc V, M,
T2, T3, bà D, bà D1, mỗi người phải thanh toán giá trị tài sản chênh lệch là
65.892.000 đồng cho ông T, C. Buộc bà V, M, bà T2, bà T3, D, D1,
mỗi người phải thanh toán giá trtài sản chênh lệch là 62.092.000 đồng cho ông
T. Ghi nhận ông T, C tự nguyện tháo dỡ các tài sản, công trình xây dựng trên
phần đất đã giao cho các M, V, T2, T3, D, D1. Ghi nhận bà V tự nguyện tháo
8
dỡ các công trình xây dựng của bà V xây dựng trên phần đất đã giao cho ông T,
C. Về án pdân sự sơ thẩm: miễn án phí cho ông T, bà C bà T3 do là người
cao tuổi. M, V, T2 người cao tuổi nên được miễn án phí dân s
thẩm. Các đương skhác bà D và D1 phải chịu án phí dân sthẩm theo quy
định pháp luật. Án phí dân sphúc thẩm: M, V, D, D1 không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng.
[1.1] Ngày 30/12/2024 bà M gửi đơn kháng cáo đề ngày 29/12/2024 của
M, V, bà D, D1 qua dịch vụ bưu chính. Ngày 19/3/2025 Tòa án cấp sơ thẩm
ban hành Thông báo nộp tiền tạm ứng án pphúc thẩm nội dung: trong thời
hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm và nộp cho Tòa án cấp thẩm biên lai thu tm ứng án phí phúc thẩm. Tại
phiên tòa, bà D1 thừa nhận ngày 27/3/2025 các đã nhận được Thông báo np
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Đến ngày 08/4/2025 các đã giao nộp Biên lai
tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm là trong thời hạn. Như vậy, đơn kháng cáo của
M, V, D, bà D1 kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Ninh Bình làm trong thời hạn pháp luật quy định và đúng hình thức, nội dung
nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Hoàng Trung K (người đại diện hợp pháp
của nguyên đơn) đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến phiên toà lần thứ hai mà vẫn
vắng mặt. Ông Hoàng Trung K đơn xin hoãn phiên toà do sức khoẻ không đảm
bảo nhưng không tài liệu, chứng cứ để chứng minh. Do đó, Hội đồng xét xử
không chấp nhận đề nghị hoãn phiên toà của người đại diện hợp pháp của nguyên
đơn.
Tại phiên toà, Nguyễn Thị M nguyên đơn, đồng thời người kháng
cáo có mặt. Nguyễn Thị T2, bà Nguyễn Thị T3 vắng mặt nhưng đã văn bản
uỷ quyền cho Nguyễn Thị M. Mặt khác, bà T3 cũng văn bản xin vắng mặt
tham gia phiên tòa. Bà Nguyễn Thị D (người kháng cáo) có đơn xin vắng mặt.
Thị C và Chủ tịch UBND K vắng mặt nhưng đều Đơn đề nghị xét x
vắng mặt.
Căn cứ khoản 1 Điều 294 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án đã triệu tập
hợp lệ người kháng cáo, đương sự, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
đương stham gia phiên tòa phúc thẩm. Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp
thẩm, ông B văn bản trình bày lý do sức khỏe, không ý kiến thêm
ngoài những ý kiến đã trình bày trước đây nên đã không tham gia phiên tòa; ông
T2, chị Y đều văn bản trình bày vì bận công việc và vẫn giữ nguyên quan đim
đã cung cấp cho Tòa án nên đều xin xét xử vắng mặt. Xét thấy không cần thiết
phải triệu tập người tham gia tố tụng khác (người làm chứng) nên Tòa án không
triệu tập những người làm chứng như ông B, ông T2, chị Y tham gia phiên tòa
phúc thẩm.
9
Căn cĐiều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét
xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[1.3] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Lcụ T5 để
lại theo quy định của pháp luật. Do đó, Tòa án cấp thẩm xác định quan hpháp
luật tranh chấp là tranh chấp về thừa kế tài sản là đúng quy định của pháp luật.
[1.4] Về thời hiệu khởi kiện: cụ L chết ngày 14/3/2013, cT5 chết ngày
23/6/2018. Ngày 24/6/2020 bà M làm khởi kiện yêu cầu chia thừa kế nên nguyên
đơn khởi kiện trong thời hiệu khởi kiện. Toà án cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng quy định của pháp luật.
[1.5] Về xác định những người thừa kế.
Cụ L cụ T5 vợ chồng hợp pháp. CL, cụ T5 07 người con, 02 cụ
không có con nuôi, con riêng, bố mẹ nuôi. Bố mẹ đẻ của cụ L, cụ T5 đều đã chết
trước hai cụ. Toà án cấp sơ thẩm xác định hàng thừa kế thnhất của cụ L, cụ T5
gồm 7 người con gồm: V, bà M, bà T2, bà T3, ông T, bà D, D1 đúng pháp
luật.
[1.6] Về phạm vi xét xử phúc thẩm.
M, V, D, D1 kháng cáo toàn bộ bản án thẩm. Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình kháng nghị một phần bản án sơ thẩm. Tại
phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình thay đổi nội dung kháng
nghị, đề nghị Hội đồng xét xsửa bản án thẩm theo hướng xác định lại phần
giá trị di sản mà ông T, bà C được hưởng thừa kế của cụ Lcụ T5; xác định lại
phần giá trị tài sản chênh lệch mà các đồng thừa kế còn lại các bà M, V, T2, T3,
D, D1 phải thanh toán cho ông T bà C; tại thời điểm xét xử phúc thẩm ông T, bà
C và bà T3người cao tuổi nên cần xem xét miễn án phí dân ssơ thẩm cho các
đương sự trên.
Căn cứ Điều 298 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đại diện Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Ninh Bình thay đổi nội dung kháng nghị không vượt quá phạm vi kháng
nghị ban đầu nên được chấp nhận. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân s
về phạm vi xét xphúc thẩm, Hội đồng xét xphúc thẩm xem xét bản án sơ thẩm
theo nội dung đơn kháng cáo của M, V, D, D1 và nội dung thay đổi
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình.
[2] Về nội dung của vụ án có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.
Tại trích sổ địa chính lập năm 1996 thể hiện tên chủ sử dụng đất hộ ông
Nguyễn Văn L, họ và tên vợ/chồng của chủ hộ gia đình Phạm Thị T5. Tuy nhiên,
các đương sự không ai cung cấp được quyết định cấp GCNQSDĐ thể hiện tên các
thành viên của hộ gia đình được cấp GCNQSDĐ. Mặt khác, nguyên đơn yêu cầu
chia di sản thừa kế là đất và đất vườn; nguyên đơn không yêu cầu chia thừa kế
đối với đất 2 lúa, đất màu, đất mạ. GCNQSDĐ do UBND huyện Y cấp ngày
10/5/1997 ghi tên chủ sử dụng đất là cụ Nguyễn Văn L. Trích sổ mục kê, trích lục
bản đồ địa chính K lập năm 1996 đều thể hiện thửa đất số 188, diện tích 410m
2
đất mang tên cụ L; không thể hiện là đất của hộ gia đình.
10
Ngày 12/5/2012 cL cụ T5 lập di chúc nội dung: vchồng tôi thống
nhất để lại toàn bsố tài sản ngôi nhà diện tích đất lâu dài thuộc GCNQSDĐ
cho vợ chồng ông Nguyễn Văn T, ThC cùng điều kiện ông T, C trách
nhiệm đảm bảo chỗ ở cho hai chị gái là bà V và bà T3 cho đến khi qua đời.
Ngày 26/9/2013 cụ T5 Đơn xin chuyển quyền sử dụng đất cho ông T
C. Ngày 17/10/2013 UBND huyện Y ra Quyết định số 100/QĐ-UBND cho
phép 02 hộ gia đình K; được chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Ngày 17/10/2013 UBND huyện Y cấp GCNQSDĐ sBP 382751 ghi tên ch
sử dụng đất là Nguyễn Văn T và Lê Thị C.
Ngày 05/4/2018 M khởi kiện vụ án hành chính tại Tán nhân dân tỉnh
Ninh Bình. M yêu cầu hủy một phần Quyết định số 100/QĐ-UBND ngày
17/10/2013 của UBND huyện Y về phần chuyển nhượng đất của T5 cho ông T
và hủy GCNQSDĐ số BP 382751 mang tên ông T bà C.
Ngày 26/11/2018 UBND huyện Y đã ban hành Quyết định số 1454/QĐ-
UBND nội dung "Thu hồi hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP382751
cấp ngày 17/10/2013 ghi tên ông T C". Ngày 29/11/2018 UBND huyện Y
đã ban hành Quyết định số 1474/QĐ-UBND nội dung "Hủy việc cho phép hộ
T5 chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng đất cho hộ ông T".
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 11/2018/HC-ST ngày 05/12/2018 Tán
nhân dân tỉnh Ninh Bình đã quyết định bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị
M.
Không đồng ý với bản án hành chính sơ thẩm, ngày 17/12/2018 người đại
diện theo uỷ quyền của M đơn kháng cáo đnghị hubản án thẩm và
buộc người bkiện đền bù thiệt hại do ban hành quyết định trái pháp luật.
Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 253/2019/HC-PT ngày 07/10/2019 Toà
án nhân dân cấp cao tại Hà Ni đã quyết định không chấp nhận kháng cáo của bà
M (người đại diện theo uỷ quyền là ông Hoàng Trung K); giữ nguyên quyết định
của Bản án hành chính thẩm số 11/2018/HC-ST ngày 05/12/2018 của Tán
nhân dân tỉnh Ninh Bình.
Tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 21 và ngày 30/5/2024 thể hin
đối với phần diện tích 52,6m
2
và phần diện tích 13,8m
2
+ 8,1m
2
= 21,9m
2
cùng tài
sản trên 2 phần đất này đều nm phía trước giáp đường A do ông T, bà V đang
sử dụng không nằm trong GCNQSDĐ. Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn đề nghị
Tòa án chia di sản thừa kế đối với diện tích đất được Nhà ớc cấp GCNQSDĐ
diện tích 410m
2
đất, trong đó 260m
2
đất ở, 150m
2
đất
ờn. Đối với phần
diện tích đất nằm ngoài GCNQSDĐ thì nguyên đơn không đnghị Tòa án giải
quyết. Mặt khác, tại Biên bản làm việc ngày 25/11/2024 (có xác nhận của UBND
xã K) thể hiện nội dung: đề nghị Tán căn cứ theo GCNQSDĐ đã được cấp và
theo quy định của pháp luật để giải quyết.
11
Trên sở sự thừa nhận của các đương sự tài liệu trong hồ vụ án,
đủ căn cứ xác định thửa đất số 188 diện tích 410m
2
(260m
2
đất ở, 150m
2
đất
ờn) thuộc quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng cụ L, cụ T5. Do đó, cụ L
cụ T5 đầy đủ các quyền của người sử dụng đất quyền định đoạt tài sản
của mình.
[3] Về yêu cầu kháng cáo của bà M, bà V, bà D, D1.
[3.1] Tại mục 22 phần IV Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017
của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau: để bảo đảm quyền, lợi ích hp
pháp của đương sự bảo đảm vụ án được giải quyết đúng thời hạn luật định,
tránh việc đương sự lạm dụng quyền khiếu nại, tố cáo làm kéo dài thời gian giải
quyết vụ án, … đối với những vụ ánkhiếu nại, tốo …thì trong thời gian chờ
giải quyết khiếu nại, tố cáo … thì Thẩm phán đó vẫn được tiến hành tố tụng cho
đến khi quyết định thay đổi Thẩm phán có hiệu lực pháp luật. Như vậy, bà M, bà
V, D, D1 kháng cáo cho rằng Thẩm phán Chủ tophiên toà người bị tố
cáo trong vụ án này nên vi phạm thủ tục tố tụng là không đúng pháp luật.
[3.2] Đối với di chúc được chứng thực ngày 12/5/2012.
Bản di chúc ngày 12/5/2012 được lập thành văn bản, thể hiện ý chí của cụ L
cT5 về việc cụ Lcụ T5 để lại toàn bộ nhà và đất lâu dài thuộc GCNQSDĐ
cho vợ chồng ông T, bà C cùng điều kiện ông T, bà C trách nhiệm đảm bảo chỗ
ở cho hai chị gái là bà V và T3 cho đến khi qua đời. Nội dung của di chúc phù
hợp với pháp luật.
Mặt khác, tại mục [2.2] trang 7 phần nhận định của Bản án hành chính phúc
thẩm số 253/2019/HC-PT ngày 07/10/2019, Toà án nhân dân cấp cao tại Nội
đã xác định di chúc ngày 12/5/2012 của cụ L cT5 đưc UBND xã K chng
thực theo đúng quy định của pháp luật. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 92 của Bộ
luật Tố tụng dân svề tình tiết, sự kiện nêu trên đã được xác định trong bản án
của Tán đã hiệu lực pháp luật thuộc tình tiết, sự kiện không phải chứng
minh. Do đó, tại Biên bản làm việc ngày 08/7/2015 (do M giao nộp tại phiên
toà sơ thẩm 27/12/2024), cụ T5 cho rằng cụ không nhớ đã lập di chúc và chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông T, cchỉ ký để vay tiềnkhông có
căn cứ. Hội đồng xét xkhông chấp nhận các do mà bà M, bà V, bà D1, D
kháng cáo cho rằng bản di chúc ngày 12/5/2012 là không hợp pháp.
[3.3] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 22/6/2023, M đã xuất trình 01 Biên
bản họp gia đình ngày 03/12/2014 thể hiện các thành viên trong gia đình gồm cụ
T5 các con bà V, M, T2, T3, ông T, D, D1 C đã họp
thống nhất phân chia quyền sử dụng đất của cụ L và cụ T5 như sau: “… trước kia
bố tôi còn, bố mẹ tôi có tuyên bố cho em trai tôi là Nguyễn Văn T vợ là Thị C
mảnh đất hiện nay đang rộng 4,6m mặt đường hướng Tây, chiều dài 32,5m
ớng Nam, giáp anh Minh V1, cuối đất giáp nhà thờ. Giờ bố tôi qua đời, còn
lại mẹ tôi tuyên bố cho chị em chúng tôi số đất còn lại để chị em con cháu chúng
tôi chỗ đi về để thcác cụ…Hôm nay ngày 04/12/2014, tôi Nguyễn Văn T
12
vThị C cam kết đúng ngày 4/12/2024 tôi lấy bìa đỏ ra để tách thổ cho các
chị em tôi”.
Xét thấy, Biên bản họp gia đình ngày 03/12/2014 đầy đủ chcác thành
viên trong gia đình. Tuy nhiên, bđơn chưa thực hiện việc tách thửa đất cho các
chị, em gái ông T; không có văn bản huỷ bỏ di chúc của c L và cụ T5. Mặt khác,
hiện nay nguyên đơn yêu cầu chia di sản thừa kế đối với diện tích 410m
2
đất, bị
đơn thừa nhận chtrong Biên bản họp gia đình nhưng không thừa nhận nội
dung trong biên bản. Như vậy, các bên đương sự không nhất trí về nội dung phân
chia đất như đã nêu trên. Do đó, Biên bản họp gia đình ngày 03/12/2014 không
được coi là di chúc của cT5.
[3.4] Đối với Đơn xin chuyển quyền sử dụng đất ngày 26/9/2013 của cụ T5
nội dung: tôi quyết định chuyển quyền toàn bđất tài sản gắn liền trên
đất của tôi cho anh T và chị C cùng với di chúc của chồng tôi để các con tôi yên
tâm sử dụng chăm lo cho con cái học hành. Con trai con dâu tôi phải
trách nhiệm đảm bảo chỗ ở, chăm sóc cho mẹ và hai chị gái là Nguyễn Thị V và
Nguyễn Thị T3 đến khi qua đời.
Xét việc chuyển quyền sử dụng đất của cụ T5 cho ông T, bà C thuộc trường
hợp tặng cho có điều kiện, ngoài việc vợ chồng ông T phải đảm bảo về chỗ ở cho
cụ T5, bà V, bà T3 thì vợ chồng ông T phải có trách nhiệm chăm sóc cụ T5, bà V,
T3. Tuy vchồng ông T đã đảm bảo về ch cho cụ T5, bà V, T3, nhưng
tại Biên bản làm việc ngày 09/9/2015 (do bà M giao nộp tại phiên toà phúc thẩm
22/6/2023) thhiện ý kiến của cụ T5 trình bày việc ông T đã có lời lẽ xúc phạm
đến các chị gái. Trên thửa đất có tài sản trên đất là nhà nhưng tại Đơn xin chuyển
quyền sử dụng đất ngày 26/9/2013, cụ T5 chđề ngh“quý quan thẩm quyền
xem xét, tạo điều kiện giúp đỡ tôi làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho con
trai và con dâu tôi”. Đồng thời tại Đơn xin chuyển quyền sở hữu nhà và quyền
sử dụng đất ngày 07/10/2013 thể hiện cụ T5 xin được chuyển nhượng diện tích
410m
2
đất là định đoạt vượt quá phần tài sản của cụ T5, không thể hiện diện tích
nhà, loại nhà. Ngày 29/11/2018 UBND huyện Y đã ban hành Quyết định s
1474/QĐ-UBND nội dung "Hủy việc cho phép hộ T5 chuyển nhượng, chuyển
quyền sử dụng đất cho hộ ông T". Do đó, Đơn xin chuyển quyền sử dụng đất ngày
26/9/2013 Đơn xin chuyển quyền shữu nhà quyền sử dụng đất ngày
07/10/2013 của cụ T5 không phát sinh hiệu lực pháp luật.
Như vậy, hàng thừa kế thnhất của cụ L, cụ T5 chưa văn bản hợp pháp
về việc thoả thuận phân chia di sản thừa kế của cụ L, cT5.
Ngày 14/3/2013 cụ L chết, ngày 25/9/2013 cT5 có văn sửa đổi di chúc vi
nội dung: “huỷ bỏ phần di chúc tôi đã lập liên quan đến tài sản là nhà đất thuộc
phần của tôi”.
Sau khi cụ L và cụ T5 mất, V T3 vẫn có chỗổn định trên thửa đất
188. Như vậy, thửa đất số 188 diện tích 410m
2
, Tán cấp thẩm xác định
phần tài sản của cụ L di chúc, còn phần tài sản của cụ T5 không có di chúc là
đúng pháp luật.
13
[3.5] Về chia di sản thừa kế của cT5.
Tại Biên bản định giá ngày 21/5/2024 và ngày 30/5/2024 thể hiện các thành
viên Hội đồng định giá tài sản thống nhất không đủ điều kiện để xác định giá của
diện tích đất đang tranh chấp theo giá thị trường nên phải cần Trung tâm thẩm
định giá mới đủ điều kiện để định giá đất theo giá thị trường tại thời điểm tranh
chấp. Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, các đương sự thống nhất
giá đất ở theo giá thị trường là 20.000.000 đồng/m
2
, đất vườn là 105.000 đồng/m
2
là phù hợp với quy định đương sự có quyền cung cấp giá tài sản đang tranh chấp,
thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp theo khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
Như vậy, giá trị quyền sử dụng 410m
2
đất là:
260m
2
đất x 20.000.000 đồng/m
2
= 5.200.000.000 đồng.
150m
2
đất vườn x 105.000 đồng/m
2
= 15.750.000 đồng.
Tổng cộng: 5.215.750.000 đồng.
Tòa án cấp thẩm xác định phần di chúc của cụ L hợp pháp nên ông T
C được quyền hưởng thừa kế theo di chúc của cụ L là 205m
2
đất (gồm 130m
2
đất ở và 75m
2
đất vườn/đất trồng cây lâu năm) là đúng pháp luật.
Phần tài sản của cụ T5 không di chúc đối với phần đất diện tích
205m
2
đất (gồm 130m
2
đất và 75m
2
đất vườn/đất trồng cây lâu năm) trị giá
2.607.875.000 đồng được chia theo pháp luật.
Các đương sự đều thừa nhận 2 cụ chết không để lại nghĩa vụ tài sản gì. Căn
cứ khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tình tiết nêu trên tình tiết, sự
kiện không phải chứng minh.
Các đương sự không đề nghị tính công sức chăm sóc, mai táng, thcúng,
góp tiền xây mộ cho 2 cụ, công sức trông coi, quản lý, tôn tạo bảo quản di sản,
tiền nộp thuế sử dụng đất hàng năm. Như vậy di sản của cụ T5 được chia đều cho
những người thuộc hàng thừa kế thnhất của cụ T5. Di sản của cụ T5 được chia
làm 7 phần, mỗi kỷ phần thừa kế là: 372.553.571 đồng.
Hiện nay vợ chồng ông T, bà C và bà V đang ở trên thửa đất số 188. Căn cứ
vào hiện trạng thửa đất, vị trí từng loại đất, đảm bảo về diện tích sử dụng cũng
như gtrị quyền sdụng đất, công năng sdụng các công trình đã xây dựng trên
đất, đảm bảo tính ổn định trong quan hdân sự, lợi ích chung của các đương s,
đảm bảo thuận lợi thi hành án trong việc đăng ký cấp GCNQSDĐ cho người tha
kế tài sản được nhận bằng hiện vật; đảm bảo đúng quy định của pháp luật đất đai
theo Quyết định số 70/2024/QĐ-UBND ngày 14/10/2024 của UBND tỉnh N
quy định về điều kiện, diện tích tối thiểu tách thửa đất, điều kiện hợp thửa đất đối
với từng loại đất trên địa bàn tỉnh Ninh Bình cần thiết và phù hợp với thực tiễn.
Đồng thời trên cơ sở kết quả thẩm định tại chỗ, nguyện vọng về chỗ ở của đương
sự; xét thấy hiện trạng thửa đất số 188 có thể chia kỷ phần thừa kế bằng hiện vật
như sau:
14
Chia cho ông T bà C phần di sản thừa kế theo di chúc của cụ L 172,4m
2
đất
(gồm 110,3m
2
đất 62,1m
2
đất vườn/đất trồng cây lâu năm) trị giá
2.212.520.500 đồng (110,3m
2
đất ở x 20.000.000 đồng/m
2
= 2.206.000.000 đồng)
+ (62,1m
2
đất trồng cây lâu năm x 105.000 đồng/m
2
= 6.520.500 đồng) tại thửa
đất số 188. Đất vị trí, kích thước các chiều như đồ kèm theo Bản án thẩm.
Trên phần đất ông T, bà C được chia; ông T, C được quyền sở hữu, sử
dụng các tài sản do ông T, bà C xây dựng trên phần đất giao cho ông T, bà C gồm:
nhà mái bằng 2 tầng (ký hiệu g3), nmái bằng 2 tầng (ký hiệu g4), lán lợp
Fibroximăng và các tài sản khác (nếu có) của ông T, bà C xây dựng trên phần đất
chia cho ông T, bà C.
Công nhận sự tự nguyện của bà V về vic bà V tự nguyện tháo dỡ những tài
sản của V xây dựng trên phần diện tích đất chia cho bị đơn bao gồm các tài sản
sau: phần cổng sắt và các tài sản khác (nếu có).
Chia cho V, M, T2, T3, D, D1 được hưởng phần di sản thừa
kế theo pháp luật của cụ T5 237,6m
2
đất (gồm 149,7m
2
đất 87,9m
2
đất
n/đất trồng cây lâu năm) tr giá 3.003.229.500 đồng (149,7m
2
đất x
20.000.000 đồng/m
2
= 2.994.000.000 đồng) + (87,9m
2
đất trồng cây lâu năm x
105.000 đồng/m
2
= 9.229.500 đồng) tại thửa đất số 188. Đất có vị trí, kích thước
các chiều như Sơ đồ kèm theo Bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà, bà V đồng ý các tài sản của bà V xây dựng trên phần đất chia
cho các V, M, T2, T3, D, D1 cũng là tài sản chung của các V, M, T2, T3, D,
D1; không phải thanh toán cho bà V bất cứ khoản tiền nào. Do đó, Hội đồng xét
xử công nhận sự tự nguyện của bà V về vấn đề này. Do đó, các bà V, M, T2, T3,
D, D1 được quyền sở hữu, sử dụng chung các tài sản sau: một phần nhà mái ngói
cấp 4 (ký hiệu g1); nhà mái lợp Fibroximăng (ký hiệu g2); 01 cây nhãn và các tài
sản khác (nếu có) của bà V xây dựng trên phần đất chia cho các bà V, M, T2, T3,
D, D1.
Công nhận stự nguyện của phía bị đơn về việc bị đơn tự nguyện tháo dỡ
những tài sản của ông Nguyễn Văn TThị C xây dựng trên phần diện tích
đất chia cho các V, M, T2, T3, D, D1 ngay sau khi bản án hiệu lực pháp luật,
bao gồm các tài sản sau: phần lán tôn, lán tạm, bể ớc các tài sản khác (nếu
có).
*. Tổng giá trị di sản 6 bà được hưởng phần di sản thừa kế theo pháp luật
của cụ T5 là 372.553.571 đồng x 6 kỷ phần = 2.235.321.426 đồng.
*. Ông T, bà C được hưởng giá trị phn di sản thừa kế theo di chúc của cụ L
2.607.875.000 đồng. Ngoài ra, ông T được hưởng phần di sản thừa kế theo pháp
luật của cT5 tương đương 1 kphần thừa kế 372.553.571 đồng. Do đó, cn
buộc 6 bà phải thanh toán cho ông T bà C số tin chênh lệch đối với di sản của c
L mà ông T bà C đưc hưởng là:
2.607.875.000 đồng - 2.212.520.500 đồng = 395.354.500 đồng, theo phần:
395.354.500 đồng : 6 = 65.892.416 đồng, làm tròn 65.892.000 đồng/người.
15
Đồng thời cần buộc 6 bà phải thanh toán cho ông T số tiền chênh lệch đối
với di sản của cụ T5 ông T được hưởng là: 372.553.571 đồng, theo phần:
372.553.571 đồng : 6 = 62.092.261 đồng, làm tròn 62.092.000 đồng.
Tại phiên toà, M, V, bà D1 đề nghị 6 cùng được đứng tên trên
GCNQSDĐ khi chia di sản thừa kế, không phải V đại diện đứng tên trên
GCNQSDĐ. Xét thấy, để đảm bảo thủ tục cấp GCNQSDĐ khi thi hành án, cn
chấp nhận đề nghị nêu trên của bà M, bà V, bà D1.
[4] Riêng tài sản nằm ngoài diện tích của thửa đất số 188, cụ thể: phần diện
tích 52,6m
2
phần diện tích 13,8m
2
+ 8,1m
2
= 21,9m
2
cùng tài sản trên 2 phần
đất này đều nằm giáp đường 10 do bà V và vợ chồng ông T đang sử dụng không
nằm trong GCNQSDĐ. Xét thấy, các tài sản này có vị trí nằm ngoài diện tích đất
hợp pháp của cụ L, cT5 nên Hi đồng xét xử không xem xét.
[5] Về chi phí tố tụng: M đã nộp tiền vchi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ, chi phí định giá tài sản, chi phí đo đạc là 12.100.000 đồng. M tự nguyện
nộp chi phí tố tụng, không yêu cầu Tòa án giải quyết số tiền chi phí tố tụng nêu
trên. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm.
Tại thời điểm xét xử phúc thẩm, phát sinh tình tiết mới của vụ án là T3,
C, ông T đều người cao tuổi, xin miễn án phí nên thuộc trường hợp được
miễn án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
V, M, bà T2 người cao tuổi, xin miễn án phí, thuộc trường hợp được
miễn án phí theo quy định của pháp luật.
D, D1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài
sản mình được hưởng trong khối di sản thừa kế của cụ T5, cụ thể: 372.553.571
đồng x 5% = 18.627.678 đồng, làm tròn 18.628.000 đồng/người.
[7] Đối với Quyết định kháng nghị phúc thẩm s 02/QĐ-VKS-DS ngày
20/01/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình thay đổi nội
dung kháng nghị, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án thẩm về việc xác đnh
lại phần giá trị di sản mà ông T, bà C được hưởng thừa kế của cụ L và cụ T5. Xác
định lại phần giá trị tài sản chênh lệch mà các đồng thừa kế còn lại các M,
V, T2, T3, D, D1 phải thanh toán cho ông T, C tính lại án phí đối với các
đương sự theo quy định của pháp luật là có căn cứ.
[8] Như vậy, các lý do kháng cáo do bà M, V, bà D, D1 đề nghToà án
cấp phúc thẩm hủy bản án dân sự sơ thẩm để giải quyết lại vụ án là không có căn
cứ. Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bà M, V, bà D,
D1.
Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi kháng nghị của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Ninh Bình; sửa một phần bản án thẩm do có tình tiết mới vvấn đề đã
nhận định nêu trên.
16
Toà án cấp thẩm không nhận định phần giá trị di sản ông T, C
được hưởng trong khối di sản thừa kế của cụ L, cụ T5; quyết định buộc bà V phi
thanh toán cho ông T bà C số tiền giá trị chênh lệch 767.899.500 đồng, trong khi
Tòa án cấp thẩm giao cho V đại diện đứng tên trên GCNQSDĐ với diện tích
237,6m
2
đất chưa chính xác, cần rút kinh nghiệm đối với Tòa án cấp thẩm
về vấn đề nêu trên.
[9] Về án phí dân sphúc thẩm: do sửa bản án thẩm như đã nhận định
nêu trên nên Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị D, Nguyễn
ThD1 không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cvào: khoản 2 Điều 308, Điều 309, khoản 5 Điều 26, Điều 92, Điều
147, Điều 148, Điều 293, Điều 296, Điều 298 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các
điều 647, 648, 649, 650, 652, 653, 657, 658, 662, 664, 667 của Bộ luật Dân s
năm 2005. Các điều 611, 612, 613, 623, 650, 651, 659, 660 của Bộ luật Dân sự
năm 2015. Điều 105, Điều 106, Điều 107 của Luật Đất đai năm 2003. Điều 220
của Luật Đất đai năm 2024. Điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26, Điều 27, Điều 29
của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca Ủy ban Thường
vụ Quốc hội. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị V, bà
Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị D1.
2. Chấp nhận việc thay đổi kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh
Bình đối với Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKS-DS ngày
20/01/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình.
3. Sửa một phần Bản án dân sthẩm số 07/2024/DS-ST ngày 27/12/2024
của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình (nay là Tòa án nhân dân
khu vực 4 – Ninh Bình), cụ thể:
3.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế theo pháp
luật của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị M.
3.1.1. Chia cho bà Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị T2,
Nguyễn Thị T3, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị D1 được quyền sử dụng chung
diện tích 237,6m
2
đất (trong đó 149,7m
2
đt 87,9m
2
đất trồng cây lâu năm)
trgiá 3.003.229.500 đồng (Ba tỷ không trăm linh ba triệu hai trăm hai mươi chín
nghìn năm trăm đồng); tại một phần thửa số 188, tờ bản đsố 13, bản đồ địa chính
xã K lập năm 1996; địa chỉ thửa đất: xóm A, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nay
K, tỉnh Ninh Bình. Thửa đất vị trí, kích thước như sau: phía Tây giáp
đường giao thông (đường A) kích thước: 4,29m; phía Bắc gồm các đoạn kích
17
thước: 5,99m, 4,56m, 15,59m, 11,59m; phía Đông giáp đất nhà thờ giáo h
kích thước: 7,42m; phía Nam giáp đất chia cho ông T C kích thước: 32,15m.
Bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị T2, bà Nguyễn Thị T3,
Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị D1 được quyền sở hữu, sử dụng chung các tài
sản trên phần đất được chia gồm: một phần nhà mái ngói cấp 4 (ký hiệu g1, diện
tích 11,2m
2
); nhà mái lợp Fibroximăng (ký hiệu g2, diện tích 19,6m
2
); 01 cây nhãn
các tài sản khác (nếu có) của Nguyễn Thị V xây dựng trên phần đất chia cho
Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T3,
Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị D1.
Ghi nhận sự tự nguyện của Nguyễn Thị V về việc đồng ý các tài sản của
Nguyễn Thị V xây dựng trên phần đất chia cho bà Nguyễn Thị V, Nguyễn
ThM, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T3, Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị
D1 cũng là tài sản chung của bà Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị
T2, Nguyễn ThT3, Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị D1. Do đó, bà Nguyễn
ThM, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T3, Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị
D1 không phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị V bất cứ khoản tiền nào.
Công nhận stự nguyện của phía bị đơn về việc bị đơn tự nguyện tháo dỡ
những tài sản của ông Nguyễn Văn TThị C xây dựng trên phần diện tích
đất chia cho bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị T2, bà Nguyễn
ThT3, Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị D1 ngay sau khi bản án hiệu lực
pháp luật, bao gồm các tài sản sau: phần lán tôn, lán tạm, bớc các tài sn
khác (nếu có).
3.1.2. Chia cho ông Nguyễn Văn T, bà Thị C được quyền sử dụng chung
172,4m
2
đất (trong đó 110,3m
2
đất 62,1m
2
đất trồng cây lâu năm) trị giá
2.212.520.500 đồng (Hai tỷ hai trăm mười hai triệu năm trăm hai mươi nghìn năm
trăm đồng); tại một phần thửa số 188, tờ bản đồ số 13, bản đồ địa chính xã K lập
năm 1996; địa chỉ thửa đất: xóm A, K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nay K,
tỉnh Ninh Bình. Thửa đất có vị trí, kích thước như sau: phía Tây giáp đường giao
thông (đường 10) gồm các đoạn có kích thước: 5,72m; phía Bắc giáp đất 6 bà (bà
V, M, bà T2, T3, D, D1) kích thước: 32,15m; phía Đông giáp đt
nhà thờ giáo họ kích thước: 5,28m; phía Nam giáp đất N kích thước:
30,93m.
Ông Nguyễn Văn T, Thị C được quyền sở hữu, sử dụng các tài sản trên
phần đất được chia gồm: nhà mái bằng 2 tầng (ký hiệu g3, diện tích 65,5m
2
), nhà
mái bằng 2 tầng (ký hiệu g4, diện tích 57,3m
2
), lán lợp Fibroximăng (giáp nhà 2
tầng của gia đình ông T) các tài sản khác (nếu có) của ông Nguyễn Văn T, bà
Thị C xây dựng trên phần đất chia cho ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị C.
18
Công nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị V về việc Nguyễn Thị V tự
nguyện tháo dỡ những tài sản của bà Nguyễn Thị V xây dựng trên phần diện tích
đất chia cho bị đơn, bao gồm các tài sản sau: phần cổng sắt các tài sản khác
(nếu có) của bà Nguyễn Thị V.
(Có Sơ đồ kèm theo Bản án sơ thẩm)
3.1.3. Buộc Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị T2,
Nguyễn Thị T3, Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị D1 phải thanh toán giá trị tài
sản chênh lệch cho ông Nguyễn Văn T, Lê Thị C với số tiền là: 395.354.500
đồng (Ba trăm chín mươi lăm triệu ba trăm năm mươi bốn nghìn năm trăm đồng),
theo phần như sau:
Bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị T2, bà Nguyễn Thị T3,
Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị D1, mỗi người phải thanh toán giá trị tài sản
chênh lệch với số tiền là 65.892.000 đồng (Sáu mươi lăm triệu tám trăm chín mươi
hai nghìn đồng)/người cho ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị C.
3.1.4. Buộc Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị T2,
Nguyễn Thị T3, Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị D1 phải thanh toán giá trị tài
sản chênh lệch cho ông Nguyễn Văn T với số tiền là: 372.553.571 đồng (Ba trăm
bảy mươi hai triệu năm trăm năm mươi ba nghìn năm trăm bảy mươi mốt đồng),
theo phần như sau:
Bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị T2, bà Nguyễn Thị T3,
Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị D1, mỗi người phải thanh toán giá trị tài sản
chênh lệch với số tiền 62.092.000 đồng (Sáu mươi hai triệu không trăm chín
mươi hai nghìn đồng)/người cho ông Nguyễn Văn T.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trcho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
*. Ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị C, bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị M, bà
Nguyễn ThT2, bà Nguyễn Thị T3, bà Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị D1trách
nhiệm, nghĩa vụ đến quan Nhà nước thẩm quyền làm thủ tục để được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật khi bản án
hiệu lực pháp luật.
3.1.5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Văn T, Thị C, Nguyễn Thị V, bà Nguyễn ThM, bà
Nguyễn Thị T2, bà Nguyễn Thị T3 đều được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm.
19
Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị D1, mỗi người phải chịu 18.628.000 đồng
(Mười tám triệu sáu trăm hai mươi tám nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
3.2. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị D1
không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Trlại cho Nguyễn Thị D 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm
ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số 0001795 ngày 08/4/2025 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình (nay là Phòng Thi
hành án dân sự khu vực 4 – Ninh Bình).
Trả lại cho bà Nguyễn Thị D1 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tm
ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số 0001796 ngày 08/4/2025 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình (nay là Phòng Thi
hành án dân sự khu vực 4 – Ninh Bình).
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 LuậtThi hành
án dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân s
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Lut
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
11/9/2025).
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND tỉnh Ninh Bình;
- Phòng Giám đốc, kiểm tra,
thanh tra và thi hành án;
- TAND khu vực 4 – Ninh Bình;
- THADS tỉnh Ninh Bình;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án. VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHTỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Phưng
20
Tải về
Bản án số 72/2025/DS-PT Bản án số 72/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 72/2025/DS-PT Bản án số 72/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất