Bản án số 63/2024/HNGĐ-ST ngày 22/08/2024 của TAND huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 63/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 63/2024/HNGĐ-ST ngày 22/08/2024 của TAND huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Na Hang (TAND tỉnh Tuyên Quang)
Số hiệu: 63/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/08/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp về hôn nhân gia đình giữa chị Bàn Thị D và anh Bàn Văn S
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYN NA HANG
TNH TUYÊN QUANG
Bn án s: 63/2024/HNGĐ-ST
Ngày 22/8/2024
V/v “Tranh chấp v hôn nhân và
gia đình”
CNG HOÀ XÃ HI CH NGHĨA VIT NAM
Độc lp - T do - Hnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NA HANG, TỈNH TUYÊN QUANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trường Giang.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông: Nguyễn Đức Nhâm.
2. Ông: Chẩu Văn Khỏe.
- Thư ký phiên tòa: Khổng Thị Thụy - Thư ký Toà án, Tòa án nhân dân huyện
Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang, tham
gia phiên tòa: Bà Nguyễn Phương Thảo - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 8 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Na Hang, tỉnh Tuyên
Quang, xét xng khai vụ án thụ số: 34/2024/TLST-HNGĐ, ngày 14 tháng 5
năm 2024, về “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 06 tháng
8 năm 2024.
1. Nguyên đơn: Chị Bàn Thị D, sinh năm: 1993.
Địa chỉ: Thôn N, xã Y, huyện N, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt có đơn xin xét
xử vắng mặt.
Chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã Đ, huyện N, tỉnh Tuyên Quang.
2. Bị đơn: Anh Bàn Văn S, sinh năm: 1990.
Địa chỉ: Thôn N, xã Y, huyện N, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt có đơn xin xét
xử vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
Ngân hàng N (tên viết tắt A); Địa chỉ trụ sở chính: số B, đường L, phường T,
quận B, thành phố Hà Nội;
Người đại diện theo ủy quyền: ông Cao Minh T - Chức vụ: Giám đốc, A chi
nhánh N1.
Người được ủy quyền lại: ông Vương Văn T1 - Trưởng phòng tổng hợp, A
chi nhánh N1. Theo Giấy ủy quyền số 419/GUQ-NHNo.NH - KH ngày 05/6/2024.
Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. .
Địa chỉ: Tổ dân phố D, thị trấn N, huyện N, tỉnh Tuyên Quang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai, đơn xin xét xử vắng mặt chBàn Thị
D trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chvà anh Bàn Văn S được hai bên gia đình tchức
cưới hỏi theo phong tục địa phương vào ngày 03/01/2011, đến ngày 04/5/2015 mới
đến y ban nhân dân (sau đây viết tắt UBND) Y, huyện N đăng kết hôn trên
cơ sở tự nguyện. Kể từ khi cưới hỏi vợ chồng chị cư trú tại thôn N, xã Y, huyện N.
Chị anh S sống hạnh phúc đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn đánh chửi
nhau mấy lần do anh S chơi cờ bạc qua mạng phá tán hết tài sản mà anh, chị đi làm
tích cóp được. Việc vợ chồng chị mâu thuẫn đã được hai bên gia đình khuyên bảo
nhưng không đạt kết quả gì. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ năm 2022 cho đến nay,
trong thời gian sống ly thân anh, chị không còn quan tâm, chăm sóc tới nhau nữa,
nay chị xác định tình cảm vchồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị
được ly hôn anh Bàn Văn S.
Về con chung: Chị anh S 02 con chung tên các cháu Bàn Long Gia
B, sinh ngày: 06/6/2012 Bàn Đức V, sinh ngày: 05/3/2015, kể từ tháng 7/2024
cho đến nay chị đã đón cháu V về ở cùng chị, còn cháu B đang ở cùng bà nội thôn
N, Y. Khi ly n chị đề nghị Tòa án giao cháu V cho chị được trực tiếp nuôi
dưỡng, còn cháu B giao cho anh S nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi
con.
Về tài sản chung: Chị xác định để vợ chồng chị tự thỏa thuận, không yêu cầu
Tòa án giải quyết.
Về vay nợ chung: Chị xác định vợ chồng chvay của A chi nhánh N1 số
tiền nợ gốc 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) lãi phát sinh kể từ ngày
07/10/2023 cho đến nay. Khi ly hôn chị nhất trí với ý kiến của anh S, mỗi người có
nghĩa vụ trả ½ số nợ gốc là 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) lãi phát sinh cho
Ngân hàng khi đến hạn thanh toán theo hợp đồng tín dụng.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 13/6/2024 của anh Bàn Văn S đã trình bày
như sau:
3
Về quan hệ hôn nhân: Anh S xác định anh và chị D được hai bên gia đình tổ
chức cưới hỏi theo phong tục địa phương từ năm 2011 đến năm 2015 anh, chị mới
đến UBND xã Y, huyện N, đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Năm 2022 chị D
bỏ về nhà ngoại ở thôn N, xã Đ, huyện N, cư trú từ đó cho đến nay, nguyên nhân do
anh, chị mâu thuẫn cãi chửi nhau suốt. Anh S xác định vợ chồng nhiều mâu thuẫn
không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa. Việc chị D xin ly hôn, anh nhất
trí ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng anh được ly hôn.
Về con chung: Anh xác định vợ chồng anh 02 con chung tên các cháu là
Bàn Long Gia B, sinh ngày: 06/6/2012 Bàn Đức V, sinh ngày: 05/3/2015, hiện
các cháu đang ở với anh. Khi ly hôn anh không nhất trí giao các con cho chị D được
nuôi dưỡng và cũng không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết.
Về vay nợ chung: Anh xác định vợ chồng anh có vay của A chi nhánh N1 số
tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) thời gian vay khoảng năm 2020 hoặc 2021
mục đích vay tiền về mua trâu, hiện nay trâu đã bị dịch chết hết. Chị D đã trả được
10.000.000đ (mười triệu đồng) nợ gốc tiền lãi, tính đến thời điểm hiện tại vợ
chồng anh còn nợ A chi nhánh N1 số tiền 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) nợ gốc
lãi phát sinh, Anh nhất trí sẽ trả cho A chi nhánh N1 ½ số tiền nợ gốc
20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) và lãi phát sinh.
Tại bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt người đại diện theo ủy quyền của
A1 chi nhánh N1 trình bày:
Chị Bàn Thị D và anh Bàn Văn S hiện nay còn nợ A chi nhánh N1 số tiền nợ
gốc là 40.000.000đ (bốn ơi triệu đồng) và lãi phát sinh tính đến ngày 22/8/2024
861.110đ (tám trăm sáu mươi mốt nghìn một trăm mười đồng). Khi Tòa án giải
quyết cho chị D và anh S ly hôn, A chi nhánh N1 nhất trí với thỏa thuận của anh S,
chị D mỗi người có nghĩa vụ trả cho A chi nhánh N1 số tiền nợ gốc là 20.000.000đ
(hai ơi triệu đồng) lãi phát sinh khi đến hạn thanh toán theo hợp đồng tín dụng.
Quá trình giải quyết Tòa án đã cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng
hợp lệ cho các đương sự, xác minh tại thôn N, Y, huyện N, cũng như tiến hành
lấy lời khai của những người liên quan.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Na Hang, phát biểu quan
điểm giải quyết vụ án như sau:
Về tố tụng: Kể từ khi thụ vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử (HĐXX)
vào nghị án, Thẩm phán, HĐXX Thư Tòa án thực hiện đúng theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự (sau đây viết tắt BLTTDS), Viện kiểm sát không
yêu cầu, kiến nghị gì về việc giải quyết vụ án.
Về nội dung: Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 143, 144, 147, 227, 228, 238,
266, 271 và Điều 273 của BLTTDS; Các Điều 51, 56, 81, 82 Điều 83 của Luật
4
Hôn nhân gia đình (sau đây viết tắt Luật HN&GĐ); Nghị quyết
326/2016/UBTVQH 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Đề nghị HĐXX: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị
Bàn Thị D.
Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Bàn Thị D được ly hôn anh Bàn Văn S.
Về con chung: Giao cháu Bàn Đức V cho chị Bàn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng,
giao cháu Bàn L Gia Bảo cho anh Bàn Văn S trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào
phải cấp dưỡng nuôi con các bên quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung sau
ly hôn mà không ai được cản trở..
Về tài sản chung: Do các đương sự không đề nghị giải quyết do vậy không
xem xét.
Về vay nợ chung: Buộc chị D anh S mỗi người có nghĩa vụ trả cho A chi
nhánh N1 số tiền nợ gốc 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) lãi phát sinh khi
đến hạn thanh toán theo hợp đồng tín dụng.
Ngoài ra Kiểm sát viên còn đề nghị HĐXX tuyên nghĩa vụ chịu án phí
tuyên quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ ván đã được xem xét tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh Bàn Văn S đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn N, xã
Y, huyện N. Việc Tòa án nhân dân huyện Na Hang, thụ vụ án trên đúng thẩm
quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các Điều 28, 35, 39 của BLTTDS.
Quá trình giải quyết Tòa án đã cấp, tống đạt, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng
cho các đương sự; Tòa án đã thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Bàn Văn S. Chị D, anh S đại
diện theo ủy quyền của A chi nhánh N1 có đơn xin xét xử vắng mặt. HĐXX căn cứ
vào các Điều 227, 228 Điều 238 của BLTTDS, Tiến hành xét xử vắng mặt nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bàn Thị D anh Bàn Văn S đăng kết hôn
trên sở tự nguyện, do đó đây hôn nhân hợp pháp, các đương sự đều xác định
thời gian sống ly thân đã lâu, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân
không đạt được đề nghị Tòa án giải quyết cho anh, chị được ly hôn. Việc các
đương sự trình bày phù hợp với các tài liệu chứng cứ mà Tòa án đã thu thập được.
Căn cứ các Điều 51, 56 của Luật HN&GĐ, HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn
của chị Bàn Thị D.
5
[3] Về con chung: Các đương sự đều xác định 02 con chung tên Bàn
Long Gia B, sinh ngày: 06/6/2012 và Bàn Đức V, sinh ngày: 05/3/2015.
[3.1] Chị Bàn Thị D nguyện vọng khi vợ chồng ly hôn xin được trực tiếp
nuôi dưỡng cháu Bàn Đức V còn cháu n L Gia B giao cho anh Bàn Văn S trực
tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.
[3.2] Ý kiến của anh Bàn Văn S khi vợ chồng ly hôn, nguyện vọng của anh
xin được trực tiếp nuôi dưỡng các cháu B, V, anh không yêu cầu chị D phải cấp
dưỡng nuôi con.
[3.3] HĐXX xét thấy chị D và anh S đều có đầy đủ các điều kiện và khả năng
để trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Anh S thường xuyên đi làm xa nhà khoảng 03
đến 04 tháng mới về nhà một lần, nếu giao cả hai cháu B V cho anh S trực tiếp
nuôi dưỡng thì không phù hợp với nguyện vọng ca các đương sự cũng như nguyện
vọng của các con. Bởi vì thực tế các cháu B, V đều do mẹ đẻ anh S là bà Bàn Thị S1
trực tiếp nuôi dưỡng khi anh S đi làm xa nhà, S1 thường xuyên m đau nên sẽ
không đảm bảo việc chămc đầy đủ, toàn diện cho các cháu. Do vậy cần giao cho
mỗi đương sự được trực tiếp nuôi dưỡng 01 con thỏa đáng, phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh của các đương sự.
[4] Về tài sản chung: Do các đương sự không đề nghị giải quyết, do đó không
xem xét giải quyết trong vụ án này.
[5] Về vay nợ chung: Các đương sự xác định còn vay nợ của A chi nhánh N1
số tiền nợ gốc là 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) và tiền lãi phát sinh, ý kiến ch
D, anh S mỗi người nghĩa vụ trả cho A chi nhánh N1 ½ số nợ gốc và lãi phát sinh
khi đến hạn thanh toán theo hợp đồng tín dụng.
[5.1] Sau khi Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải có mặt chD đại diện A, anh S vắng mặt, các đương sự
mặt đã thống nhất thỏa thuận việc chị D, anh S mỗi người có nghĩa vụ trả ½ số tiền
nợ gốc và lãi phát sinh cho A chi nhánh N1 khi đến hạn thanh toán theo hợp đồng.
[5.2] Tòa án nhân dân huyện Na Hang đã Thông báo kết quả phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Bàn Văn S, tuy
nhiên anh S đã không ý kiến trả lời đối với thông báo trên của Tòa án. HĐXX
thấy rằng việc thỏa thuận giữa đại diện A chi nhánh N1 chị D tại phiên hòa giải
không có giá trị theo quy định tại Điều 212 của BLTTDS.
[5.3] HĐXX xét thấy việc chD là người đứng tên vay tiền của A, để sử dụng
vào mục đích chung của gia đình, do đó cần buộc chị D anh S mỗi người nghĩa
vụ trả ½ nợ gốc và lãi phát sinh cho A chi nhánh N1 khi đến hạn thanh toán theo hợp
đồng tín dụng là phù hợp, có căn cứ.
6
[6] Về án phí: Chị Bàn Thị D là dân tộc Dao, cư trú ở xã có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn, chị D đã có đơn xin miễn nộp tiền án phí, do đó cần xem
xét miễn án phí sơ thẩm ly hôn và án phí trả nợ cho chị D.
[7] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 143, 144, 147, 227, 228, 238, 266, 271
Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 56, 81, 82 và Điều 83 của Luật
Hôn nhân gia đình. Điều 357 của Bộ luật Dân sự. Điều 91 của Luật các tổ chức
tín dụng. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn chị Bàn Thị D.
Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Bàn Thị D được ly hôn anh Bàn Văn S (Giấy
chứng nhận kết hôn số: 22/2015, quyển số 1, ngày 04/5/2015, đăng ký tại UBND
Y, huyện N, tỉnh Tuyên Quang).
Về con chung: Giao cháu Bàn Đức V, sinh ngày: 05/3/2015 cho chị Bàn Thị
D trực tiếp trông nom, chămc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Bàn Long Gia B,
sinh ngày: 06/6/2012 cho anh Bàn Văn S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục; không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con; chD, anh S có quyền, nghĩa vụ
thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về vay nợ chung: Buộc chị Bàn Thị D có nghĩa vụ trả cho A chi nhánh N1 số
tiền nợ gốc 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) và tiền lãi tính đến ngày 22/8/2024
430.555đ (bốn trăm ba mươi nghìn năm trăm năm mươi năm đồng), theo hợp đồng
tín dụng số 8105LAV202102659 ngày 21/12/2021.
Buộc anh Bàn Văn S nghĩa vụ trả cho A chi nhánh N1 số tiền nợ gốc
20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) tiền lãi tính đến ngày 22/8/2024 430.555đ
(bốn trăm ba mươi nghìn năm trăm năm mươi năm đồng), theo hợp đồng tín dụng
số 8105LAV202102659 ngày 21/12/2021.
Kể từ ngày 23/8/2024 nếu chị Bàn Thị D và anh Bàn Văn S không trả khoản
nợ gốc và các khoản lãi nêu trên thì còn phải trả tiền lãi theo mức lãi suất đã được
ghi trong Hợp đồng tín dụng số 8105LAV202102659 ngày 21/12/2021.
2. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí thẩm ly hôn và án phí nghĩa vụ trả nợ
cho chị Bàn Thị D.
Anh: Bàn n S phải chịu án phí nghĩa vụ trả n1.021.500đ làm tròn số
(một triệu không trăm hai mươi mốt nghìn năm trăm đồng).
7
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng
cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản
án được niêm yết.
Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự,
thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự./.
Nơi nhn:
- TAND tnh Tuyên Quang;
- VKSND tnh Tuyên Quang;
- VKSND huyn Na Hang;
- UBND xã Yên Hoa, huyn Na Hang;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X SƠ THẨM
Thm phán - Ch ta phiên tòa
Nguyễn Trường Giang
Tải về
Bản án số 63/2024/HNGĐ-ST Bản án số 63/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 63/2024/HNGĐ-ST Bản án số 63/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất