Bản án số 41/2024/HNGĐ-PT ngày 18/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 41/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 41/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 41/2024/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 41/2024/HNGĐ-PT ngày 18/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 41/2024/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/12/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn C. Hủy Bản án hôn nhân và gia đình số 168/2024/HNGĐ-ST ngày 22/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 41/2024/HNGĐ-PT
Ngày: 18/12/2024
Về việc “Yêu cầu chia
tài sản chung sau ly hôn”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Bằng.
Các thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Nhung, bà Nguyễn Thị Hạnh Vân
Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Oanh Hương – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Ông Trần
Văn Lai - Kiểm sát viên.
Ngày 18/12/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk mở phiên tòa xét
xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 53/2024/TLPT-HNGĐ ngày
15/11/2024 về việc “Yêu cầu chia tài sản chung sau ly hôn”. Do bản án Hôn nhân và
gia đình sơ thẩm số: 168/2024/HNGĐ-ST, ngày 22/8/2024 của Toà án nhân dân
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2024/QĐ-PT ngày 27/11/2024,
ngày 18/12/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ H. Địa chỉ: Thôn H, xã H, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đặng Thanh Q. Địa chỉ: Số A N, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C. Địa chỉ: Thôn H, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk, có mặt.
3. Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Văn C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng, người đại diện theo uỷ
quyền của nguyên đơn trình bày:
Bà Nguyễn Thị Mỹ H và ông Nguyễn Văn C là vợ chồng, đã ly hôn theo
Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số
24/2023/QĐST-HNGĐ ngày 17/01/2023 của TAND thành phố Buôn Ma Thuột. Tại
thời điểm giải quyết ly hôn, vấn đề tài sản các bên tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa
án giải quyết.
Trong quá trình chung sống, đến năm 2009, bà H và ông C có tạo lập được
tài sản là quyền sử dụng đất và căn nhà cùng vườn cây trên diện tích đất 2731 m
2
tại
thửa đất số 136, tờ bản đồ số 12 thuộc thôn H, xã H, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk.
Thửa đất này, ông bà nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Trọng Q1 theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 775915 do UBND thành phố B cấp ngày
19/6/2009, thửa đất 136, tờ bản đồ: 12 (đứng tên ông Nguyễn Trọng Q1). Số tiền
nhận chuyển nhượng là từ việc tích góp của cả hai bên sau khi kết hôn. Sau khi nhận
chuyển nhượng, nhiều lần bà H yêu cầu ông C và ông Q1 sang tên Giấy chứng nhận
nhưng ông C không đồng ý. Quá trình sử dụng đất, thời gian đầu ông bà cho người
khác sử dụng. Đến khoảng năm 2012, bà H và ông C trực tiếp canh tác, trồng tiêu
và các loại cây trồng khác. Đến khoảng giữa năm 2015 thì bà H và ông C tiến hành
xây dựng căn nhà trên thửa đất này và sinh sống từ đó cho đến nay. Số tiền xây dựng
nhà cũng là tiền mà cả hai bên tích góp được và vay mượn người khác.
Tại thời điểm ly hôn, ông Nguyễn Văn C thỏa thuận miệng với bà H về việc
sẽ chia đôi thửa đất ra giao cho bà H làm nhà ở để nuôi các con, vì một mình bà H
nuôi 4 cháu. Tuy nhiên, sau đó, ông C đã nhờ ông Nguyễn Trọng Q1 ký công chứng
Hợp đồng chuyển nhượng sang tên cho một mình ông C và ông C cho rằng đó là tài
sản riêng của ông C.
Nhận thấy, đây là tài sản bà H và ông C tạo lập chung nên bà Nguyễn Thị
Mỹ H khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột giải quyết chia
tài sản chung là thửa đất số 136, tờ bản đồ số 12 thuộc thôn H, xã H, thành phố B,
tỉnh Đăk Lăk. Do tài sản không thể chia bằng hiện vật nên bà H yêu cầu được chia
bằng giá trị. Đồng thời, đề nghị tuyên vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông Nguyễn Trọng Q1 với ông Nguyễn Văn C được Văn phòng C1
công chứng ngày 12/10/2023. Ngoài tài sản nêu trên, bà H và ông C không còn tài
sản chung nào khác.
Tại phiên toà sơ thẩm, bà Nguyễn Thị Mỹ H yêu cầu thay đổi nội dung khởi
kiện: Đề nghị Toà án xác định diện tích đất và các tài sản trên thửa đất số 136, tờ
bản đồ số 12 thuộc thôn H, xã H, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk là tài sản chung của bà
Nguyễn Thị Mỹ H và ông Nguyễn Văn C. Bà Nguyễn Thị Mỹ H có ½ quyền trong
khối tài sản trên. Đề nghị buộc ông Nguyễn Văn C có nghĩa vụ giao Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AO 775915 cấp ngày 19/6/2009, đã được đăng ký biến
động sang tên ông Nguyễn Văn C vào ngày 27/10/2023 cho Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai thành phố B để bà Nguyễn Thị Mỹ H thực hiện việc đăng ký quyền
sử dụng đất chung đối với khối tài sản này.
* Quá trình tham gia tố tụng Bị đơn ông Nguyễn Văn C trình bày:
Tôi và cô Nguyễn Thị Mỹ H bắt đầu chung sống với nhau từ cuối năm 2007
nhưng đến năm 2015 mới tiến hành đăng ký kết hôn. Đến ngày 17/01/2023 đã được
ly hôn theo quyết định của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.
Thửa đất số 136, tờ bản đồ số 12, toạ lạc tại xã H, thành phố B là tài sản riêng
của tôi. Thửa đất này tôi nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Trọng Q1 vào ngày
27/10/2023 sau khi ly hôn với cô H.
Từ khi chung sống chúng tôi không tạo lập được tài sản chung nào. Trước
khi chung sống, bản thân tôi có tạo lập được 01 căn nhà tại thôn F, xã H, thành phố
B. Tuy nhiên, trong quá trình sinh sống, chúng tôi cũng đã bán căn nhà này để phục
vụ đời sống chung của gia đình vào năm 2016.
Nay cô Nguyễn Thị Mỹ H khởi kiện thì tôi không đồng ý chia bất cứ tài sản
nào vì đây là tài sản riêng của tôi.
* Người đại diện theo uỷ quyền của Văn phòng C1 trình bày:
Ngày 12/10/2023, Văn phòng C1 có nhận được yêu cầu công chứng Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Trọng Q1 và ông Nguyễn
Văn C đối với thửa đất số 136, tờ bản đồ số 12, tại xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 775915 do Ủy ban nhân dân thành
phố B cấp ngày 19/6/2009.
Sau khi các bên đã nộp đầy đủ các giấy tờ liên quan đến việc chuyển nhượng,
Văn phòng C2 thấy các bên tham gia tự nguyện, hồ sơ đầy đủ theo quy định của
pháp luật, nội dung giao kết là không trái với các quy định của pháp luật. Mặt khác,
tại thời điểm các bên yêu cầu công chứng đã cam kết không có tranh chấp với bên
thứ 3, Văn phòng cũng không nhận được bất cứ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp nào đối với thửa đất nêu trên.
Do vậy, chúng tôi đã tiến hành công chứng Hợp đồng chuyển nhượng theo
số 10537, quển số 10/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/10/2023. Việc thực hiện
công chứng Hợp đồng nêu trên là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật.
* Người làm chứng ông Nguyễn Trọng Q1 trình bày: Tôi và ông Nguyễn
Văn C là bạn bè với nhau. Vào năm 2009, tôi và ông Nguyễn Văn C có trao đổi bằng
miệng với nhau về việc chuyển nhượng thửa đất số 136, tờ bản đồ số 12, tại xã H,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Tôi để cho ông C và gia đình về sống trên đất. Gia đình
ông C về sống trên thửa đất này thời gian nào thì tôi không nhớ rõ. Sau đó, ông C có
xây dựng 01 căn nhà cấp 4 trên đất. Giữa chúng tôi không có tranh chấp gì. Tuy
nhiên, đến năm 2023, hai bên mới làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định của
pháp luật. Khi chuyển nhượng với nhau trên thực tế thì chỉ có tôi và ông C thoả
thuận, giá chuyển nhượng là 100.000.000 đồng. Ông C là người giao tiền cho tôi.
Đối với giá được ghi trên hợp đồng chuyển nhượng là nhằm hợp thức hoá hồ sơ, thủ
tục.
Tại bản án số 168/2024/HNGĐ-ST, ngày 22/8/2024 của Toà án nhân dân
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk quyết định:
[1] Căn cứ: khoản 2 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; Điều 144; Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ
luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng: Điều 33, Điều 37, Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Áp dụng: điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
[2] Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà
Nguyễn Thị Mỹ H.
- Xác định diện tích đất 2.731m
2
và các tài sản gắn liền với đất (Gồm 01
giếng, 01 nhà cấp 4 có kết cấu móng xây đá hộc, tường xây gạch kết hợp gỗ chịu
lực, nền lát gạch ceramic 400x400, không đóng trần, mái lợp ngói, diện tích 78.12m
2
;
nhà dưới móng xây đá hộc, tường xây gạch, nền láng xi măng không đóng trần, mái
lợp ngói diện tích 60.06 m
2
xây dựng năm 2015; hai trụ cổng xây gạch ông không
tô, sân bê tông xi mang diện tích 83.29m2; 51 cây cau lấy quả, 01 cây lộc vừng, 120
trụ tiêu, 02 cây bơ, 03 cây nhãn, 02 cây mít, 01 cây vải, 01 cây bưởi, 162 cây cà phê,
01 cây sapoche, 30 cây mai, 01 cây bằng lăng) trên thửa đất số 136, tờ bản đồ số 12
thuộc thôn H, xã H, Thành phố B, tỉnh Đăk Lăk đã được Ủy ban nhân dân thành phố
B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 775915 cấp ngày 19/6/2009 (được
đăng ký biến động sang tên ông Nguyễn Văn C vào ngày 27/10/2023) là tài sản
chung của bà Nguyễn Thị Mỹ H và ông Nguyễn Văn C. Bà Nguyễn Thị Mỹ H có ½
quyền trong khối tài sản trên.
Bà Nguyễn Thị Mỹ H có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để thực
hiện việc điều chỉnh biến động đối với quyền sử dụng đất.
Buộc ông Nguyễn Văn C có nghĩa vụ giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số AO 775915 cấp ngày 19/6/2009 (được đăng ký biến động sang tên ông
Nguyễn Văn C vào ngày 27/10/2023) cho Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố B để thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến điều chỉnh biến động
đối với quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho
các bên đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/8/2024, bị đơn ông Nguyễn Văn C làm đơn kháng cáo toàn bộ bản
án, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, theo hướng không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị
đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của mình và đề nghị HĐXX giải quyết vụ án
theo quy định pháp luật.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ
án Thẩm phán, Hội đồng xét xử cũng như các đương sự đã tuân thủ đầy đủ và thực
hiện đúng với quy định của pháp luật.
- Xét đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn C: Về hình thức: Đơn kháng
cáo của ông Nguyễn Văn C gửi trong hạn luật định, đảm bảo về mặt hình thức, ông
C được miễn nộp tiền tạm tứng án phí phúc thẩm, nên kháng cáo của ông C là hợp
lệ.
Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cư thu thập có trong hồ sơ, cùng với lời
trình bày của các bên đương sự nhận thấy yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn
Văn C là không có căn cứ. Do đó, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn C, giữ
nguyên bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 168/2024/HNGĐ-ST, ngày 22/8/2024
của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn C trong hạn luật định,
ông C được miễn nộp tiền tạm tứng án phí phúc thẩm, nên kháng cáo của ông C là
hợp lệ. Do đó Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk thụ lý giải quyết là đúng quy định của
pháp luật.
[2] Về nội dung: Bà Nguyễn Thị Mỹ H và ông Nguyễn Văn C chung sống
với nhau như vợ chồng từ cuối năm 2007 nhưng đến năm 2015 mới đăng ký kết hôn
theo quy định của pháp luật. Đến năm 2023, bà H và ông C thuận tình ly hôn theo
Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 24/2023/QĐST-HNGĐ ngày 17/01/2023
của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, chưa yêu cầu giải
quyết về tài sản chung.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn Nguyễn Văn C cho rằng thửa đất số
136, tờ bản đồ số 12, toạ lạc tại xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk và tài sản trên thửa
đất trên là tài sản riêng của ông C, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[3.1] Về nguồn gốc thửa đất số 136, tờ bản đồ số 12, tại xã H, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk: Căn cứ vào hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hồ sơ
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và lời trình bày của các bên đương sự, xác định
thửa đất trên được Ủy ban nhân dân thành phố B cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số A0 775915 ngày 19/6/2009 cho ông Nguyễn Trọng Q1, Tuy nhiên ông
Q1 đã chuyện nhượng cho ông C, bà H vào cuối năm 2009.
[3.2] Xét về quá trình chuyển nhượng đất: Ông Nguyễn Trọng Q1 thừa nhận
vào năm 2009, ông có thoả thuận chuyển nhượng thửa đất trên cho ông Nguyễn Văn
C nhưng chỉ thoả thuận miệng, các bên đã chuyển giao tài sản và giao đủ tiền cho
nhau vào cuối năm 2009 (bút lục số 21). Đồng thời, hợp đồng chuyển nhượng được
lập sau này vào năm 2023 chỉ nhằm hợp thức hoá thủ tục, hồ sơ. Như vậy, ông
Nguyễn Văn C cho rằng thửa đất số 136, tờ bản đồ số 12, toạ lạc tại xã H, thành phố
B là tài sản riêng của ông C và thửa đất này do ông C nhận chuyển nhượng của ông
Q1 vào ngày 27/10/2023 sau khi ly hôn với bà H là không có cơ sở.
Mặt khác, cả bà H và ông C đều thừa nhận ông C và bà H chung sống với
nhau từ năm 2007 nhưng đến năm 2015 thì các bên mới tiến hành đăng ký kết hôn
theo quy định của pháp luật. Tại thời điểm đăng ký kết hôn thì ông bà cũng đồng
thời xây dựng căn nhà trên thửa đất tranh chấp này và sinh sống cho đến nay. Ông
Nguyễn Văn C cho rằng trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến trước ngày
17/01/2023, ông Nguyễn Trọng Q1 cho ông bà mượn, ở trên đất nhưng ông C không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lời trình bày trên của ông.
[3.3] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà sơ thẩm, ông Nguyễn
Văn C xác định bà H và ông đều có công việc tạo ra thu nhập nhưng thu nhập của
bà H không ổn định, các khoản chi phí và tiền tạo lập, xây dựng nhà ở trên thửa đất
tranh chấp đều do ông làm ra nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng
minh cho lời trình bày của ông C. Đối với ý kiến bà H thời gian bà và ông C chung
sống bà H làm nghề đậu khuôn, có thu nhập ổn định nên cần xác định ông Nguyễn
văn C và bà Nguyễn Thị Mỹ H đều có công sức đóng góp ngang nhau trong khối tài
sản này.
Với những căn cứ trên Tòa án cấp sơ thẩm xác định diện tích đất là 2.731m
2
và các tài sản trên thửa đất số 136, tờ bản đồ số 12, tại xã H, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk. Có tổng trị giá tiền đất và tài sản trên đất là 1.034.161.405 đồng là tài sản chung
của bà H và ông C là có căn cứ.
[3.4] Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm lại phân chia tài sản chung của nguyên
đơn bà H và bị đơn ông C có ½ quyền trong khối tài sản trên, là trái với Điều 74 luật
thi hành dân sự và xem như chưa giải quyết vụ án dẫn đến bản án này không thể thi
hành án đươc.
Mặt khác Tòa án cấp sơ thẩm tuyên như vậy là chưa giải quyết yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ H và bị đơn ông Nguyễn Văn C nên Tòa
án cấp phúc thẩm không có căn cứ để giải quyết yêu cầu kháng cáo và yêu cầu khởi
kiện của đương sự.
[4] Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm nguyên đơn
bà Nguyễn Thị Mỹ H yêu cầu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Trọng Q1 với ông Nguyễn Văn C được Văn phòng C1 công chứng ngày
12/10/2023 và được Văn phòng đăng ký đất đai quyền sử dụng đất, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk, đăng ký biến động sang tên cho ông Nguyễn Văn C vô hiệu. Tuy nhiên
trong qua trình giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Văn phòng đăng ký đất
đai quyền sử dụng đất, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, vào tham gia tố tụng là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
[5] Từ những phân tích và nhận định từ mục [3] đến [4] trên, Hội đồng xét
xử nhận thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm chưa giải quyết
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà bà Nguyễn Thị Mỹ H nên Tòa án cấp phúc
thẩm không có căn cứ để giải quyết vụ án. Về tố tụng trong quá trình giải quyết thiếu
người tham gia tố tụng nên cần hủy bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số
168/2024/HNGĐ-ST, ngày 22/8/2024 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk, giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[6] Về chi phí tố tụng, về án phí và các nội dung khác: Sẽ được Tòa án cấp sơ
thẩm xem xét giải quyết lại vụ án.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn C. Hủy bản án Hôn
nhân và gia đình số 168/2024/HNGĐ-ST, ngày 22/8/2024 của Toà án nhân dân thành
phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắk Lắk, giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Về chi phí tố tụng, về án phí và các nội dung khác: Sẽ được giải quyết khi Tòa
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, giải quyết lại vụ án.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Đắk Lắk; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND TP. Buôn Ma Thuột;
- TAND TP. Buôn Ma Thuột;
- Chi cục THADS TP. Buôn Ma Thuột; Đã ký
- Các đương sự;
- Lưu Hồ sơ vụ án.
Nguyễn Văn Bằng
Tải về
Bản án số 41/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 41/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm