Bản án số 62/2022/HNGĐ-ST ngày 15/12/2022 của TAND huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 62/2022/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 62/2022/HNGĐ-ST ngày 15/12/2022 của TAND huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Nga Sơn (TAND tỉnh Thanh Hóa)
Số hiệu: 62/2022/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/12/2022
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Đỗ Thị Th yêu cầu ly hôn anh Mai Văn Tr, yêu cầu chia tài sản khi ly hôn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN ND HUYỆN NGA SƠN
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 62/2022/HNGĐ - ST
Ngày: 15-12-2022
V/v ly hôn, tranh chấp về nuôi con,
chia tài sản khi ly hôn.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Tạ Văn Tuyển.
Các hội thẩm nhân dân: Ông Mai Đăng Ninh và bà Trịnh Thị Yến.
- Thư phiên tòa: Trịnh Thị Thủy - Thư Tòa án nhân dân huyện
Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa tham
gia phiên tòa: Bà Trịnh Thị Hiền - Kiểm sát viên.
Ngày 15/12/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, mở phiên tòa
để xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 117/2022/TLST - HNGĐ ngày
11/8/2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôntheo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 03/11/2022
Quyết định hoãn phiên tòa số 48/2022/QĐST-HNGĐ ngày 22/11/2022 giữa:
- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Th - Sinh năm: 1993 - Địa chỉ: Thôn 5, A,
huyện N, tỉnh Thanh Hóa Có mặt.
- Bị đơn: Anh Mai Văn Tr - Sinh năm: 1990 - Địa chỉ: Thôn Hợp Long 2,
Tr, huyện N, tỉnh Thanh Hóa Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Hoàng Thị M - Sinh năm: 1959 - Địa chỉ: Thôn 5, A, huyện N, tỉnh
Thanh Hóa Có mặt.
2/ Phan Thị N - Sinh năm: 1969 - Địa chỉ: Thôn Hợp Long 2, Tr,
huyện N, tỉnh Thanh Hóa Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Những người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng:
1/ Anh Mai Hữu Ch - Sinh năm 1981 - Địa chỉ: Thôn Đông Kinh, Tr,
huyện N, tỉnh Thanh Hóa - Vắng mặt.
2/ Anh Trần Văn Tr - Sinh năm 1976 - Địa chỉ: Thôn Trung Điền, Tr,
huyện N, tỉnh Thanh Hóa - Vắng mặt (có đơn xin vắng mặt).
2
3/ Chị Đào Thị L - Sinh năm 1996 - Địa chỉ: Thôn 5, A, huyện N, tỉnh
Thanh Hóa - mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện ngày 09/8/2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên tòa, nguyên đơn chị Đỗ Thị Th trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Mai Văn Tr kết hôn ngày 21/01/2016, trên cơ sở tự
nguyện, đăng kết hôn tại UBND Tr, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Vợ chồng
sống hạnh phúc đến năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất
đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Chị cảm thấy cuộc sống vợ
chồng luôn ngột ngạt, không hạnh phúc nên đã về mẹ đtại thôn 5, A sinh
sống, vợ chồng chính thức ly thân từ năm 2018 đến nay, không còn quan tâm đến
nhau. Ngoài mâu thuẫn trên, anh Tr còn quan hệ ngoại tình với người phụ nữa
khác, chị đã khuyên bảo nhiều nhưng anh Tr không thay đổi, mặt khác mẹ đchị
có cho vợ chồng vay vốn làm ăn nhưng bây giờ anh Tr chối bỏ. Do đó, chị xét thấy
mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu được ly
hôn anh Tr.
Về con: Vợ chồng chị 01 con chung Mai Thị Hương Tr - Sinh ngày:
11/11/2016. Hiện cháu Tr đang với chị. Chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng,
yêu cầu anh Tr phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung mỗi tháng là 1.500.000đ.
Về tài sản: Vợ chồng chị có những tài sản chung sau:
01 xe ô tải, nhãn hiệu suzuki, mua năm 2016, đứng tên đăng xe là Mai
Văn Tr, lúc mua trị giá 320.000.000đ, hiện nay trị giá khoảng 160.00.000đ đến
200.000.000đ, chị đnghị được chia đôi giá trị mỗi người 1 nửa, chị nhận giá trị
tiền chênh lệch, anh Tr nhận ô tô;
Vợ chồng cho bà Phan Thị N (mchồng) vay số tiền 80.000.000đ o năm
2017, đây nguồn tiền vàng khi cưới mà có, khi vay không viết giấy tờ cũng
không ai làm chứng người trong gia đình. Chị yêu cầu N phải trách
nhiệm trả cho hai vợ chồng chị số tiền 80.000.000đ, không yêu cầu lãi. Tuy nhiên,
N không thừa nhận vay của vợ chồng 80.000.000đ nên tại phiên hòa giải ngày
21/7/2022 và tại phiên tòa hôm nay chị không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với s
tiền này.
Về nchung: Năm 2016, vợ chồng chị vay của Hoàng Thị M (là m
đẻ của chị) 300.000.000đ để mua xe ô , nhưng anh Tr sử dụng như thế nào
được hưởng lợi như thế nào về stiền này chị không biết, nên chị đề nghị anh Tr
phải có trách nhiệm trả. Tại phiên tòa, chị đề nghị chị và anh Tr đều có trách nhiệm
trả số tiền trên cho bà M.
* Tại bản tự khai ngày 20/9/2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên tòa, bị đơn anh Mai Văn Tr trình bày:
Về hôn nhân: Ngày tháng năm, skết hôn như chị Th trình bày đúng.
Trước khi cưới anh chị Th thời gian tìm hiểu, nhưng thể chưa đđể vợ
chồng hiểu và thương yêu lẫn nhau. Chị Th cho rằng cuộc sống vợ chồng ngột ngạt
3
không có hạnh phúc nên đã bỏ về nhà mẹ đẻ từ năm 2018 đến nay. Bản thân anh
xét thấy tình cảm vợ chồng chưa đến mức độ như chị Th trình bày mâu thuẫn
trầm trọng. Anh chị Th đã ngồi lại 1 lần để nói chuyện nhưng không đi đến
thống nhất. con nhỏ, anh vẫn mong chị Th nghĩ lại vợ chồng đoàn tụ để nuôi
con. Tuy nhiên, từ khi chị Th nộp đơn đến nay anh chị Th vẫn không hàn gắn
được tình cảm. Nay chị Th nhất quyết yêu cầu ly hôn, anh cũng đồng ý.
Về con: Vợ chồng anh có 01 con chung như chị Th khai. Hiện tại cháu đang
02 bên nội ngoại. Nếu phải ly hôn, anh tha thiết được trực tiếp nuôi con. Nếu Tòa
giải quyết cho anh được nuôi con, anh không yêu cầu chị Th phải cấp dưỡng tiền
nuôi con chung. Nếu chTh được quyền nuôi con thì anh ch có th cấp dưỡng t
1.000.000đ đến 1.500.000đ/tháng.
Về tài sản: V chồng anh không có tài sản chung vì t khi lấy nhau vợ
chồng chưa làm gì, ông bà nội đang còn phải h tr.
Đối với 01 xe ô tải, nhãn hiệu suzuki là tài sản riêng của anh mua tháng
5/2016, nguồn tiền là một phần vốn t có và vay của 2 người là anh Mai Hữu Ch
120.000.000đ và anh Trần Văn Tr 150.000.000đ. Khi mua xe giá tr 330.000.000đ,
giá tr hiện gi còn khoảng 160.000.000đ. Chị Th cho rằng đây là tài sản chung của
v chồng, anh không đồng ý vì đây là tài sản riêng của anh.
Đối với s tiền 80.000.000đ chị Th nói v chng cho bà Phan Thị N (m đẻ
anh) vay là không đúng vì b m đang còn phải tr cấp thêm cho v chồng và nuôi
cháu, thời điểm này anh và chị Th chưa đi làm nên không có tiền cho bà N vay.
Đối với s tiền 300.000.000đ, chị Th khai là v chồng có vay của bà Hoàng
Thị M anh khẳng định là không đúng, v chồng anh không vay, anh yêu cầu bà M
xuất trình chứng c. Nếu M kiên quyết bảo cho vay thì việc này là việc riêng
giữa M và chị Th, anh không biết nên anh không có trách nhiệm. Hiện nay đã
có kết luận giám định nếu giả sử đúng là giọng nói của anh thì cũng không thể hiện
việc anh vay của Hoàng Thị M số tiền 300.000.000đ hay không quá trình
vay từ đó đến nay đã trả rồi hay chưa. Nếu anh vay số tiền đó của M phải
hình ảnh hoặc vi deo thể hiện việc anh vay số tiền 300.000.000đ hoặc phải
người làm chứng thì mới có đủ cơ sở để nói rằng anh có vay của bà M hay không.
* Ý kiến của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị N: Khi chị
Th lấy anh Tr v nhà 2 năm chưa có công việc gì, ông đang còn phải h tr
v chồng chị Th và anh Tr sống và nuôi con. Do đó, không chp nhận việc chị
Th trình bày là có cho vay s tiền 80.000.000đ. Nếu v chồng chị Th c nhất
quyết yêu cầu, đề ngh v chồng chị Th, anh Tr phải có căn c trước pháp luật.
* Ý kiến của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị M: Anh
Tr có đến hỏi vay s tiền 300.000.000đ để lấy vốn làm ăn, vì con cái trong gia
đình nên đã không viết giấy t gì. Nguồn tiền cho vay do trước đây đi lao động
xuất khẩu có ít vốn gửi Qu tín dụng nhân dân th trấn Nga Sơn nên đã rút s
tiền 384.898.000đ để cho anh Tr vay s tiền là 300.000.000đ. Khi lấy tiền v
chồng anh Tr chị Th lên nhà buổi tối để lấy nên cũng không có ai làm chứng.
Nhưng quá trình đòi n có nhờ con dâu chị Đào Thị Thúy ghi âm. đã u
cầu Tòa án giám định file ghi âm đó chính là giọng nói của anh Tr. Nay bà u cầu
4
anh Tr, chị Th phải trách nhiệm tr cho số tiền 300.000.000đ, không yêu cầu
lãi.
* Ý kiến của người m chứng anh Mai Hữu Ch: Anh cho anh Mai Văn
Tr vay số tiền 120.000.000đ vào ngày 15/11/2015. Giữa anh anh Tr quan h
họ hàng, anh em đôi con hàng dì. Do đó, khi anh Tr cần tiền đầu mua xe vận
tải anh đã cho vay số tiền trên. Anh đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy
định của pháp luật.
* Ý kiến của người làm chứng anh Trần Văn Tr: Vào ngày 27/10/2015, anh
cho anh Mai Văn Tr vay số tiền 150.000.000đ, không thời hạn, không lãi
suất. Khi vay, anh Tr nói mục đích vay là để mua phương tiện làm ăn. Do anh em
chơi thân tình với nhau vợ chồng anh Tr lục đục nên anh vẫn chưa đòi số tiền
nêu trên. Hiện nay, anh Tr vẫn nợ anh số tiền 150.000.000đ. Đây là việc riêng giữa
anh với anh Tr, anh chưa yêu cầu anh Tr phải trả cho anh.
* Ý kiến của người làm chứng chị Đào Thị L: Chị biết anh Tr vay của m
chồng chị Hoàng Thị M số tiền 300.000.000đ vào khoảng giữa năm 2016,
thông qua M nói chứ không được chứng kiến anh Tr vay tiền của M. Tuy
nhiên, ngày 04/02/2019 (ngày 30/12/2018 âm lịch) anh Tr đến đón con về ăn Tết,
chị chứng kiến việc giữa M hỏi nợ tiền anh Tr, anh Tr khất nói sẽ nói
chuyện với vợ để trả số tiền đó. Anh Tr nói mượn tiền về mua xe phục vụ cho việc
buôn bán của bố mẹ anh Tr, chị Th nhà chăm con không liên quan không
được cầm số tiền đó. M hỏi bảo anh Tr trả 300.000.000đ nhưng anh Tr
nói là 2 vợ chồng đến mượn nên có trách nhiệm nói chuyện và sẽ trả số tiền đó sau.
Cuộc nói chuyện giữa anh Tr và bà M đã được chị ghi âm vào điện thoại.
Vụ án có liên quan đến người chưa thành niên nên Tòa án tiến hành thu thập
tài liệu chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo quy
định tại khoản 3 Điều 208 BLTTDS.
Do mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự về việc chị Đỗ Thị Th
anh Mai Văn Tr cho Phan Thị N vay số tiền 80.000.000đ; chị Th anh Tr vay
của Hoàng Thị M stiền 300.000.000đ nên Tòa án đã tiến hành đối chất giữa
các đương sự.
* Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tài sản ngày 27/12/2022:
01 xe ô tải thùng kín nhãn hiệu Suzuki, màu sơn trắng, biển kiểm soát 36C
173.74, giá trị 170.000.000đ.
Theo yêu cầu của bà Hoàng Thị M, Tòa án đã ra Quyết định trưng cầu giám
định. Theo Kết luận giám định số 54/KL-KTHS ngày 14/6/2022 của Viện khoa
học hình sự Bộ Công an:
- Tiếng nói của người đàn ông xưng là “con”, “em” trong mẫu cần giám định
A1 ược ký hiệu “Nam1” trong Bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định)
và tiếng nói của người đàn ông trong mẫu so sánh M1(từ thời điểm 07 phút 22 giây
đến thời điểm 11 phút 36 giây) là của cùng một người.
- Tiếng nói của người đàn ông xưng “tôi” trong mẫu cần giám định A2
(được hiệu “Nam1” trong Bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định)
5
tiếng nói của người đàn ông trong mẫu so sánh M1 (từ thời điểm 07 phút 22 giây
đến thời điểm 11 phút 36 giây) là của cùng một người.
- Nội dung các cuộc hội thoại trong mẫu cần giám định A1, A2 đã được
chuyển sang văn bản. Nội dung chi tiết được thể hiện trong Bản dịch nội dung ghi
âm mẫu cần giám định.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn phát biểu ý
kiến:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên
tòa đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Các đương sự chấp hành các quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận s thuận tình ly hôn giữa ch Đỗ Thị
Th anh Mai Văn Tr. V con: Giao cháu Mai Thị Hương Tr - Sinh ngày:
11/11/2016 cho chị Th trực tiếp nuôi ỡng; anh Tr nghĩa vụ cấp dưỡng tiền
nuôi con chung theo quy định. Về tài sản: 01 xe ô tải thùng kín, màu sơn trắng,
nhãn hiệu Suzuki, biển kiểm soát 36C 173.74 giá trị 170.000.00tài sản chung
của anh Tr, chTh nên mỗi người được ởng ½ giá trị; giao xe ô cho anh Tr
quản lý, sdụng, anh Tr thanh toán giá trị chênh lệnh cho chị Th. Về nợ: Chị Th,
anh Tr mỗi người trách nhiệm trả ½ số nợ cho M. Về án phí: Chị Th anh
Tr phải chịu án phí DSST theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và ý kiến của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: ChĐỗ Thị Th đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Nga
Sơn, tỉnh Thanh Hóa giải quyết việc ly hôn giữa chị anh Mai Văn Tr. Căn cứ
vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của
BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện Nga Sơn.
Ngày 22/11/2022, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử lần thứ nhất, chị Th
M vắng mặt không do nên phải hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, N
vắng mặt nhưng đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228
BLTTDS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bà N.
[2] Về hôn nhân:
Chị Đỗ Thị Th anh Mai Văn Tr kết hôn ngày 21/01/2016, trên sở tự
nguyện, được hai bên gia đình đồng ý, không cản trở, cưới có đăng ký kết hôn, n
vậy hôn nhân hợp pháp. Anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát
sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân theo chị Th do v chồng bất đồng quan điểm
sống, không tìm được tiếng nói chung, chị cảm thấy cuộc sống vợ chồng luôn ngột
ngạt nên đã về nhà mđẻ tại thôn 5, A sinh sống, vợ chồng chính thức sống ly
thân từ năm 2018 cho đến nay. Còn theo anh Tr do trước khi cưới anh chị Th
thời gian tìm hiểu, nhưng thể chưa đđể vợ chồng hiểu thương yêu lẫn
nhau, chị Th cho rằng cuộc sống vợ chồng ngột ngạt không có hạnh phúc, đã bỏ về
nhà mđẻ ở từ m 2018 đến nay. Nay chị Th anh Tr thấy tình cảm không còn,
chị Th yêu cầu xin ly hôn anh Tr đồng ý.
6
HĐXX xét thấy, cả chị Th anh Tr đều thừa nhận vợ chồng mâu thuẫn
đã thời gian sống ly thân nhau từ năm 2018 cho đến nay. Mặt khác, tại biên
bản xác minh ngày 24/9/2021, đại diện thôn Hợp Long 2, Tr cho biết: Anh Tr
chị Th kết hôn vào năm 2016, sau ngày kết hôn anh chị chung sống tại nanh
Tr Tr, đến năm 2018 anh chị xảy ra mâu thuẫn, chị Th về ngoại A sinh
sống từ đó đến nay không thấy trở về nhà anh Tr.
Như thế, chứng tỏ cuộc hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được,
cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Th anh Tr phù hợp với quy định
của pháp luật.
[3] Về con chung: Chị Th anh Tr 01 con chung là Mai Thị Hương Tr -
Sinh ngày: 11/11/2016. Cchị Th anh Tr đều yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu
Tr.
HĐXX thấy, nguyện vọng yêu cầu được nuôi con của c hai bên đương s
đều phù hợp, cha, m đều có nghĩa v và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm
sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên. Tuy nhiên, cháu Tr đang còn nhỏ, từ khi chị
Th, anh Tr ly thân đến nay, cháu Tr chủ yếu ở với chị Th. Mặt khác, cháu Tr là con
gái cùng giới tính với chị Th. Vì vậy, cần xử giao cháu Tr cho chị Th trực tiếp nuôi
dưỡng là phù hợp với quy định pháp luật và thực tiễn.
Về mức cấp dưỡng: Chị Th u cầu anh Tr cấp dưỡng tiền nuôi con chung
1.500.000đ/tháng; còn anh Tr, nếu chị Th được quyền nuôi con anh chỉ thể cấp
dưỡng cho con từ 1.000.000đ đến 1.500.000đ/tháng. Xét thấy, người không trực
tiếp nuôi con phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con, nên cần buộc anh Tr cấp
dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị Th là 1.500.000đ/tháng, thời gian cấp dưỡng
tính từ tháng 12/2022 cho đến khi cháu Tr thành niên là phù hợp với thực tế và quy
định của pháp luật.
[4] Về tài sản:
[4.1] Đối với 01 xe ô tô tải, nhãn hiệu suzuki, biển kiểm soát
36C.173.74mua năm 2016, trị giá 170.00.000đ (theo giá trị của hội đồng định giá):
Chị Th đề nghị được chia đôi giá trị mỗi người 1 nửa, chị nhận giá trị tiền chênh
lệch, anh Tr nhận ô . Còn anh Tr cho rằng đây là tài sản riêng của anh, anh không
đồng ý chia.
HĐXX xét thấy, anh Tr nói nguồn tiền mua xe một phần vốn của anh
vay 02 người bạn vào tháng 10/2015 11/2015 (trước khi kết hôn), nhưng xe ô tô
được mua vào tháng 5/2016, đăng tháng 6/2016 (sau khi chị Th anh Tr kết
hôn). Số tiền anh Tr vay của 02 người bạn cho đến khi mua xe cách 7 - 8 tháng nên
không thể khẳng định anh Tr sử dụng số tiền đó để mua xe ô hay không.
vậy, không căn cứ để chứng minh xe ô này tài sản riêng của anh Tr.
vậy, đây tài sản chung của vợ chồng chị Th, anh Tr nên cần chia đôi giá trị mỗi
người một nửa. Xét thấy, xe ô tô đứng tên đăng ký là anh Mai Văn Tr, chủ yếu anh
Tr sử dụng nên cần giao xe cho anh Tr tiếp tục quản lý, sử dụng, anh Tr phải thanh
toán lại giá trị chênh lệch cho chị Th là 85.000.000đ (tám mươi lăm triệu đồng).
7
[4.2] Đối với số tiền 80.000.000đ chị Th cho rằng vợ chồng cho bà Phan Thị
N vay: Tại đơn khởi kiện, chị Th yêu cầu Phan Thị N trả cho vợ chồng ch
nhưng quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa hôm nay chị Th không yêu cầu,
anh Tr và bà N không có ý kiến , nên HĐXX miễn xét.
[4.3] Đối với số tiền 300.000.000đ bà Hoàng Thị M cho rằng anh Tr vay:
Xét thấy, khi M cho anh Tr vay số tiền 300.000.000đ, hai bên không viết
giấy vay tiền cũng không có người m chứng. Tuy nhiên, quá trình giải quyết
vụ án, M xuất trình cho Tòa án 01 giấy lĩnh tiền tại Quỹ tín dụng nhân dân
thị trấn Nga Sơn vào ngày 25/4/2016 số tiền 384.898.000đ để cho vợ chồng anh
Tr, chTh vay số tiền 300.000.000đ mua xe ô tô. Thời điểm anh Tr chị Th mua
xe vào tháng 5/2016 phù hợp với thời điểm M rút số tiền tiết kiệm tại quỹ tín
dụng thị trấn Nga Sơn. Mặt khác, M còn xuất trình đoạn ghi âm ghi lại cuộc hội
thoại giữa M với anh Tr về việc vay nợ, kết luận giám định khẳng định giọng
nam trong đoạn ghi âm đó. Nội dung cuộc hội thoại có những câu nói của giọng nữ
và giọng nam như sau:
Giọng nữ: Thì là, mẹ đang bàn chỗ con ý, cái số tiền anh chuẩn bị mua
đất dưới huyện ý. Anh có điện về bảo… con lên vay cái dạo đấy là, tính đến nay
cũng ba năm rồi đấy. Từ hôm hai nghìn mười sáu mà giờ hai nghìn mười chín
rồi. Con tính xem số tiền con vay của mẹ với anh thì con tính đến bao giờ con
thanh toán được cho mẹ hay làm sao…”; Thì đấy con vay đến nay từ hai
mười sáu đến giờ thì con vay của mẹ ba trăm rồi, anh hai trăm với mẹ một trăm là
ba trăm. Thì giờ con đi làm rồi, giờ anh, anh hỏi em con…”; Giả cho anh để anh
mua đất. Trước đây… hỏi đất dưới huyện thì anh bảo đất này nhiều tiền thì hỏi
thằng Trung. Xem ấy số tiền đấy để hoàn lại cho anh để anh mua đất.
Đấy, bảo điện về cho mẹ vậy. Thì xem sắp xếp, thì cũng phải, không
phải là một năm, hai năm”…
Giọng nam: Chuyện vay thì vợ chồng con… vay thì để làm ăn. Thì lúc đấy
phải con, đấy thì cũng lên nói mua xe để vợ chồng làm ăn chứ xây dựng
gia đình chứ phải con vay cho nhân con đâu. Thì vay thì lúc đấy anh
ng bảo cho vay…lúc đấy thì anh gửi”; Lúc đấy ý, con lên con bảo vợ chồng
vay về con đi làm ăn. Thì mẹ nghĩ vay về vợ chồng làm ăn, không ngờ về không
cho con Thúy đi làm”; Vay thì ngày trước vợ chồng con lấy nhau, vợ chồng con
lấy nhau vợ chồng con trách nhiệm chứ, chung chứ phải conn vay, con
vay con về con làm mình con ăn à. Vậy thì từ xưa đến giờ con lấy vợ về rồi con cái,
con vay con làm mỗi cho con không à. Bây giờ vợ chồng lấy nhau về, vợ chồng…”;
Sắp xếp thì cái đấy thì vợ chồng con phải nói chuyện với nhau. Vì cái chuyện đấy,
còn dụ con vay… hai vợ chồng lên nói chuyện với mẹ. Chkhông phải con
vay con đi, đi chơi bời. Cái đấy sự nhất trí của vợ chồng lên để vay anh, nói
với mẹ chứ không phải là con vay để con đi chơi”…
Từ những căn cứ nêu trên thể khẳng định Hoàng Thị M cho vợ chồng
anh Tr, chị Th vay số tiền 300.000.000đ là đúng thực tế. Xét thấy, số tiền
300.000.000đ vay của bà M để mua xe ô tô làm ăn nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của gia đình vay trong thời kỳ hôn nhân nên cả chị Th anh Tr đều phải
trách nhiệm chung phù hợp. M chỉ yêu cầu trả số tiền gốc 300.000.000đ,
8
không yêu cầu lãi nên cần buộc chị Th anh Tr mỗi người phải trả cho bà M số
tiền 150.000.000đ.
[5] Đối với số tiền anh Mai Văn Tr vay của anh Trần Văn Tr là
150.000.000đ vào ngày 27/10/2015 vay của anh Mai Hữu Ch 120.000.000đ
vào ngày 15/11/2015, là các khoản anh Tr vay trước khi kết hôn với chị Th, anh Tr
anh Ch khẳng định đó việc riêng giữa anh Tr với các anh, mặt khác, anh Tr,
anh Ch không yêu cầu giải quyết trong vụ án này, nên miễn xét.
[6] Về chi phí tố tụng: Chị Đỗ Thị Th Hoàng Thị M tự nguyện nộp
toàn bộ chi phí tố tụng và không có yêu cầu gì nên miễn xét.
[7] Về án phí: Chị Đỗ Thị Th phải chịu án phí dân sự thẩm (DSST) về
việc ly hôn, về chia tài sản khi ly hôn án phí đối với nghĩa vụ trả nợ chung; anh
Mai Văn Tr phải chịu án phí DSST về việc cấp dưỡng nuôi con định kỳ, chia tài
sản khi ly hôn và nghĩa vụ trả nợ chung theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Điều 30; Điều 33; Điều 37; Điều 55; Điều 59; Điều 81; Điều 82;
Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4
Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 266; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật TTDS
năm 2015; điểm a, b khoản 1 Điều 24; điểm a, b, e khoản 5; điểm a khoản 6 Điều
27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phílệ phí Tòa án. Xử:
1. Về hôn nhân: Công nhận sthuận tình ly hôn giữa chị Đỗ Thị Th anh
Mai Văn Tr.
2. Về con: Giao cháu Mai Thị Hương Tr - Sinh ngày: 11/11/2016 cho chị Th
trực tiếp nuôi dưỡng; anh Tr nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị
Th là 1.500.000đ/tháng. Thời gian cấp dưỡng tính t tháng 12/2022 cho đến khi
cháu Tr thành niên.
Anh Tr có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.
3. Về tài sản: Giao 01 xe ô tô tải thùng kín, màu sơn trắng, nhãn hiệu suzuki,
biển kiểm soát 36C-173.74 giá trị 170.000.000đ (một trăm bảy mươi triệu đồng)
cho anh Mai Văn Tr quản lý, sử dụng, anh Tr có trách nhiệm thanh toán tiền chênh
lệch chia tài sản chung cho chị Đỗ Thị Th 85.000.000đ (tám mươi lăm triệu
đồng).
4. Về nợ chung: Buộc anh Mai Văn Tr chị Đỗ Thị Th, mỗi người phải
trách nhiệm trả cho Hoàng Thị M số tiền 150.000.000đ (một trăm năm mươi
triệu đồng).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu
cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành án, thì hàng tháng
người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
9
5. Về án phí: Chị Đỗ Thị Th phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí
dân sự thẩm về việc ly hôn; 4.250.00(bốn triệu hai trăm năm mươi nghìn
đồng) án phí về chia tài sản chung 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng)
án phí về nợ chung, tổng cộng là 12.050.000đ (mười hai triệu không trăm năm
mươi nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST mà chị đã nộp
3.800.000đ (ba triệu tám trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số
AA/2019/0011107 ngày 11/7/2021 của Chi cục THADS huyện Nga Sơn; chị Th
còn phải nộp số tiền án phí DSST 8.250.000đ (tám triệu hai trăm năm mươi
nghìn đồng).
Anh Mai Văn Tr phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí DSST về
cấp dưỡng nuôi con định kỳ; 4.250.000đ (bốn triệu hai trăm năm mươi nghìn
đồng) án phí về chia tài sản chung và 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng)
án phí về nợ chung, tổng cộng là 12.050.000đ (mười hai triệu không trăm m
mươi nghìn đồng).
6. Về quyền kháng cáo: c đương sự mặt quyền kháng bản án này
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Phan Thị N quyền kháng bản án này
trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy
định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật THADS thì
người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật THADS; thời hiệu thi hành
án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật THDS.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Thanh Hóa;
- VKSND huyện Nga Sơn;
- Chi cục THADS huyện Nga Sơn;
- UBND xã Tr, huyện N;
- Đương sự;
- Lưu h sơ v án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Tạ Văn Tuyển
Tải về
Bản án số 62/2022/HNGĐ-ST Bản án số 62/2022/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất