Bản án số 58/2024/DS-ST ngày 16/07/2024 của TAND huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 58/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 58/2024/DS-ST ngày 16/07/2024 của TAND huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng
Quan hệ pháp luật: Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Châu Thành A (TAND tỉnh Hậu Giang)
Số hiệu: 58/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/07/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

-1-
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CHÂU THÀNH
TỈNH BẾN TRE
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 58/2024/DS-ST
Ngày: 16/7/2024
V/v: “Yêu cầu bồi thường thiệt
hại do sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm bị xâm phạm”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE
-Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa: Bà Hoàng Thị Tuyết
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Trần Văn Tiền
2. Ông Trần n Phước
- Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Phạm Thị Mai Đình- Thư ký tòa
án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre tham gia
phiên tòa:Trần Hiền Diệu - Kiểm sát viên.
Trong ngày 16/7/2024, tại trụ stòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh
Bến Tre xét xử thẩm công khai vụ án dân sthụ số: 32/2024/TLST-DS ngày
26 tháng 01 năm 2024 về việc yêu cầu bồi thường do sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm bị xâm phạmtheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2024/QĐST-DS
ngày 26 tháng 6 năm 2024 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Ông Trần Văn B, sinh năm: 1953;
Địa chỉ: 2,A ấp Q, xã Q, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Nguyễn Trung H, sinh
năm 1989; địa chỉ liên hệ: 92, ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre.
2.Bị đơn: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm:1963;
Địa chỉ: B ấp B, xã Q, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông L: Ông Văn S- Luật
văn phòng L3 thuộc đoàn luật sư tỉnh T
-2-
2. Người làm chứng: Phạm Thị B1, sinh năm 1959;
Địa chỉ: A, ấp Q, xã Q, huyện C, tỉnh Bến Tre.
(Ông H, ông L, ông S, bà B1 có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải cũng như tại phiên tòa, người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông H trình bày:
Vào lúc 8 giờ, ngày 04 tháng 12 năm 2023 (nhằm ngày 22/10/2023 âm lịch)
ông B vợ ra chỗ khui hụi của ông Nguyễn Văn L (hai L1) để thảo luận về
việc ông L nhiều lần không cho vợ ông B bỏ thăm khui hụi. Trong khi hụi của vợ
chồng ông B còn sống và đồng thời yêu cầu ông L trả cho ông B số tiền đã mượn là
100.000.000 đồng. Trước đó, khi ông B đến khui hụi của dây 1 thì ông L không
cho tôi bỏ thăm mắng chửi ông B Mày nói tao hốt hụi ma, tao không cho mày
hốt hụi, hụi và 100 triệu của mày tao không trả, để ra chính quyền bồi thường danh
dự tổn thất tinh thần cho tao”. Đến dây hụi 2 ông B ra khui hụi thì ông L vẫn
không cho bỏ thăm, chửi và đuổi ông B đi về rồi nói “tao biểu mày đi thưa sau mày
không thưa mà mầy ra khui hụi hoài".
Đến ngày 04/12/2023 dây hụi thứ ba, vợ chồng ông B ra nơi khui hụi tại
quán C1, địa chỉ: tại ấp C, Q, huyện C, tỉnh Bến Tre điểm khui hụi để thảo
luận về việc tại sao nhiều lần không cho vợ chồng ông B bỏ hụi, trong khi hụi của
vchồng ông B hụi sống. Ông B hỏi ông L là “tại sao hụi sống không cho
hốt, tiền mượn thì không trả, ông định ăn cướp hả". Thì ông L chỉ chỏ vào mặt ông
B chửi “Mấy thằng ngu thằng không biết , đánh ông B ngã, sau đó tiếp
tục lao vào dùng nón bảo hiểm đánh vào đầu ông B liên tục, cố ý gây thương ch,
lúc đó ông B đội nón bảo hiểm trên đầu nếu không thì đầu ông B đã vỡ và bị
thương nặng hơn. Sau đó, được mọi người can ngăn nhưng ông hai vẫn hung
hăng hăm doạ:“Gia đình mày có bao nhiêu người hãy cẩn thận tạo sức mua
đứt mạng từng người trong gia đình mày".
Ông L đập bao nhiêu cái vào đầu ông B thì ông B không nhớ. Ông L chỉ dùng
nón đập vào đầu ông B chứ không đánh vào các vùng khác của thể ông B.
Sau khi bị ông L đánh thì phần nón bảo hiểm của ông B bị bể lưỡi trai (phần mỏ
nón), còn ông B bị té ngã phần mông chạm đất .
Sau khi bị ông L đánh, cơ thể thể ông B đau nhức nên ngày 05/12/2023 vợ ông
B đưa ông B đến Trung tâm y tế huyện C để kiểm tra ông B được yêu cầu nhập
-3-
viện để theo dõi vì trong phim chụp kết quả thể hiện di chứng nhồi máu não, cơ thể
bị chấn thương phần mền cần được theo dõi trong 20 ngày. Nhưng sau đó, ông B
xin được về nhà đ tịnh dưỡng, ông B không muốn lại bệnh viện. Đến ngày
09/12/2023, ông B có dấu hiệu nôn ói, đau đầu, co giật nên gia đình đưa đi cấp cứu
Trung tâm y tế huyện C và ngay lập tức được Trung tâm y tế huyện C chuyển cấp
cứu bệnh viện N. Sau khi được cấp cứu điều trị sức khoẻ ông B dần ổn định
nên được xuất viện về nhà. Ngoài khám bệnh bệnh viện, Ông B cũng thăm
khám thêm ở cơ sở phòng khám Đ.
tuổi đã cao nên sau khi bị ông L đánh sức khoẻ ông B giảm sút nghiêm
trọng, đau đầu, mất ngủ, sợ hãi từng người trong gia đình bị tổn hại đến tính mạng
theo lời hăm doạ của ông L. Đến nay, sức khocủa ông B vẫn rất yếu, tinh thành
luôn trong trạng thái hoảng sợ. vậy ông B yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông
Nguyễn Văn L bồi thường chi pđiều trị là: 5.311.816 đồng (Năm triệu ba trăm
mười một ngàn tám trăm mười sáu đồng). Chi phí nuôi bệnh: 3 ngày x 200.000
đồng = 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng). Bồi thường tổn thất về tinh thần: 10
tháng x 1.800.000 đồng = 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng). Tổng số tiền tôi
yêu cầu ông Nguyễn Văn L phải bồi thường cho tôi 23.911.816 đồng (Hai mươi
ba triệu chín trăm mười một nghìn tám trăm mười sáu đồng) công khai xin lỗi
ông B tại UBND xã Q, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Qúa trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, ông Bạch c yêu cầu ông L
bồi thường khoản tiền chi phí thăm khám điều trị bệnh 3.533.178 đồng (ba triệu
năm ba mươi nghìn một trăm bảy mươi tám đồng), tiền bồi thường tổn thất tinh
thần 10 tháng lương sở theo mức lương 1.800.000 đồng một tháng,
không yêu cầu mức lương sở mới; Yêu cầu ông L xin lỗi công khai tại UBND
Q ông L chửi ông B tại nơi đồng người làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự
của ông B. Ông B t yêu cầu về việc buộc ông L trả tiền công chăm bệnh.
Sự việc xảy ra tại quán C1, ông B tranh luận qua lại với ông L, không
chửi thề đối với ông L, không lời lẽ nào xâm phạm đến uy tín, danh dự nhân
phẩm của ông L như ông L trình bày nên ông B không đồng ý với yêu cầu phản tố
của ông L.
Qúa trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho bị đơn và bị đơn cùng trình bày nội dung như sau:
-4-
Khoảng 08 giờ sáng ngày 04/12/2023, tại quán nước phê giải khát Khả Hân
ông L tổ chức khui hụi. Thời điểm này một số hụi viên đến khui hụi và ông
Trần Văn B cùng vợ Hồ Thị Mỹ A cùng đến khui hụi .Tại đây, ông B bỏ thăm
đòi hốt luôn phần hụi mua còn lại. Để đảm bảo lợi ích chung của các hụi viên trong
dây hụi, ông L không đồng ý. Thấy vậy, ông B liền văng tục chửi thề, nói: “Đ. M
mầy ăn cướp”. Ông L liền nói: “Chỗ đông người, anh nói năng đàng hoàng chút,
mình người lớn không mà, hơn nữa, anh không là gì trong dây hụi này hết”. Ông B
nói tiếp: “Đ.M mầy đồ ăn cướp”.“Tại sao không cho hốt hụi?” Ô ng nói: “Anh
đừng nói vậy khó nghe lắm”. Một lần nữa, ông B đáp trả:“Đ. M mầy đồ ăn cướp,
mầy m tao”. Ba lần ông B cớ chửi“Đ.M tôi”;“Ba lần ông B chửi tôi
quân ăn cướp”. Trong khi, ông L không lời lẽ hay thái độ thể hiện sự xem
thường xúc phạm đến ông B. Các câu nói ông B trình bày như Mày thằng
ngu hay Gia đình mày bao nhiêu người hãy cẩn thận tao sức mua đứt
mạng từng người trong gia đình mày"..v..vv ông L không nói. Ông L không
xúc phạm đến danh dự nhân phẩm uy tín của ông B. Ông L chỉ nói qua nói lại
với ông B bằng ngôn ngữ bình thường; trong khi ông B thì lại liên tục xúc phạm
ông L nên ông L mới bỏ ra xe nói với các hụi viên khác đi chỗ khác khui hụi.
Khi đó ông B vẫn tiến ra chỗ xe của ông L. Do bức xúc vì bị ông B xúc phạm nên
lúc đó trên xe nón bảo hiểm, ông L mới dùng nón bảo hiểm của ông L quơ về
phía ông B, làm trúng vành lưỡi trai nón bảo hiểm ông B đang đội, và dùng tay đẩy
ông B ra. Ông B ngã theo dạng ngồi, phần mông của ông B chạm đất, chứ phần
đầu không chạm đất khi đó trên nền đất không vật cản gì. Thấy việc xảy ra,
mọi người kịp thời can ngăn, xong ai về nhà nấy. Vài ngày sau, Công an Q
mời ông L đến giải quyết việc ông B trình báo việc ông L gây rối trật tự. Công an
xã ra quyết định xử phạt hành chính 400.000 đồng, ông L đã nộp phạt xong. Ông L
khẳng định, không dùng sức mạnh bắp, lực (đấm, đá,...) đánh ông Trần Văn
B để gây thiệt hại về sức khỏe của ông. Ông L dùng nón bảo hiểm của ông L
quơ trúng nón bảo hiểm của ông B làm bể mỏ nón bảo hiểm của ông B nhưng hành
vi này của ông L không phải cố ý, cũng không dẫn đến bất kỳ hậu quả nào,
không gây tổn thương đến thể ông B. Việc ông L dùng nón bảo hiểm quơ làm
trúng lưỡi trai nón bảo hiểm của ông B có chú L2, cháu H, Phạm Thị B1 tên thường
gọi là cô M cùng ở ấp C, xã Q, huyện C, tỉnh Bến Tre, chứng kiến từ đầu tới khi kết
-5-
thúc mọi người ra về. Các nhân chứng này ng đã gửi văn bản trình bày ý kiến
cho Tòa án.
Do đó, việc ông B yêu cầu ông L bồi thường tiền chi pđiều trị sở y tế
chuyên khoa, yêu cầu ông L bồi thường danh dự, nhân phẩm bị xâm hại với tổng số
tiền 21.533.178 đồng (Hai mươi mốt triệu năm trăm ba mươi ba ngàn một trăm
bảy mươi tám đồng) yêu cầu ông L xin lỗi công khai tại UBND xã Q ông L
không đồng ý.
Ông L yêu cầu phản tố, yêu ông Trần Văn B bồi thường danh dự, nhân
phẩm cho ông số tiền tượng trưng bằng 01 tháng lương sở, mức lương
1.800.000 đồng (Một triệu m trăm nghìn đồng). do ông L yêu cầu do danh
dự, nhân phẩm của ông L tại chỗ đông người, cớ bị ông Trần Văn B xâm phạm,
bằng những lời lẽ vô văn hóa, nhằm thóa mạ danh dự nhân phẩm của ông L, lời nói
của ông B cứ lặp đi lặp lại nhiều lần 03 lần ông B vô cớ chữi "Đ.M tôi", Ba lần ông
B chi ông L “quân ăn cướp" trước chỗ đông người tại quán nước giải khát Khả
Hân sáng ngày 04/12/2023 với dụng ý cho nhiều người nghe. Từ sau sự việc xảy ra
ở quán cà phê thì ông L vẫn đi làm, tiếp xúc với mọi người bình thường không bị ai
xa lánh.
Người làm chứng là bà Phạm Thị B1 trình bày: Bà là hụi viên của ông L, ngày
04/12/2023 thì bà cũng có mặt tại quán cả phê K là nơi ông L tổ chức khui hụi. Tại
quán phê nghe thấy được việc ông B nhiểu lần chửi thông L bằng câu
Đ.Má mày; chửi nhiều lần đồng thời bà cũng thấy ông L dùng nón bảo hiểm quơ
trúng nón bảo hiểm mà ông B đang đội trên đầu, bà không thấy ông B té ngã.
không con gì với ông B, ông L; cũng không mâu thuẫn với
gia đình ông B nhưng hiện tại bà và gia đình ông B có vụ kiện mà Tòa án nhân dân
huyện Châu Thành vừa giải quyết xong được khoảng 01 tháng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu quan điểm về
việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng trình tự, thủ tục về tố tụng,
đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự, đảm bảo việc xét xử tư,
khách quan.
Những người tham gia tố tụng: Các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa
vụ của mình.
-6-
Về quan điểm giải quyết vụ án: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Trần Văn B đối với ông Nguyễn n L về số tiền bồi thường chi phí điều trị và tổn
thất tinh thần.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn L đối với ông Trần
Văn B.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, ý kiến phát biểu Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hai về sức khỏe giữa ông B và ông L thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre theo
Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ giải
quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tài Điều 35 Bộ Luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
Ông B khởi kiện cho rằng ông bị ông L đánh gây thương tích dẫn đến ông
phải điều trị, bị tổn thất tinh thần, yêu cầu ông L bồi thường thiệt hại do sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm bxâm hại với tổng số tiền 21.533.178 đồng (Hai mươi mốt
triệu năm trăm ba mươi ba ngàn một trăm bảy mươi tám đồng); yêu cầu ông L phải
xin lỗi ông B công khai tại UBND xã Q.
Ông L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông B, phản tố yêu cầu
ông B bồi thường 1.800.000 đồng là một tháng lương cơ sở (mức cũ) do ông B xúc
phạm danh dự ông L.
Xét yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Tại phiên tòa ông B về việc buộc ông L trả tiền công chăm bệnh với số
tiền là 600.000 đồng nên Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu này.
[2.2] Về yêu cầu bồi thường chi phí điều trị của ông B:
Qúa trình giải quyết ván, ông L ông B thừa nhận ngày hai bên xảy ra
mâu thuẫn ngày 04/12/2023, tại quán C1. Theo ông B, ông bị ông L dùng nón
bảo hiểm đánh trực tiếp vào vùng đầu, cố ý gây thương tích cho ông B, nên ngày
05/12/2023 vì thấy thể đau nhức nên ông đến Trung Tâm Y huyện C phòng
khám Đ để kiểm tra và được yêu cầu nhập viện để theo dõi nhưng ông B xin về nhà
tĩnh dưỡng. Đến này 09/12/2023 thì ông B dấu hiệu nôn ói, đau đầu, co giật nên
được người nhà đưa vào Trung tâm y tế huyện C cấp cứu và được chuyển tuyến tới
-7-
bệnh viện Nguyễn Đình C nằm việnđến khi sức khỏe ông B ổn định thì ông B
được xuất viện.
Ông L không thừa nhận hành vi dùng lực đánh trực tiếp vào đầu ông
B, chỉ thừa nhận do hai bên tranh cãi nên ông dùng nón bảo hiểm của
ông L quơ trúng nón bảo hiểm do ông B đang đội dầu, làm bể phần mỏ (vành nón)
bảo hiểm của ông B chứ không làm tổn thương bất kỳ vùng cơ thể nào của của ông
B.
Tại hồ sơ do công an xã Q cung cấp cũng chỉ có lời khai, bản tường trình của
ông B với nội dung khai bị ông L đánh nhưng ông không yêu cầu ông L bồi thường
tiền thuốc, chi phí điều trị. Lời khai của ông L tạiquan công an xã cũng chỉ thể
hiện ông L thừa nhận dùng nón bảo hiểm đánh vào đầu ông B, trúng nón bảo
hiểm ông B nên ông B xuống; đồng thời Công an ng chỉ xử phạt ông L
400.000 đồng trong lĩnh vực an ninh, trật hội chứ không phải xử phạt hành
chính ông L trong việc ông L xâm phạm sức khỏe danh dự nhân phẩm của người
khác.
Theo các hóa đơn trong hồ thể hiện: Ông B t đi chụp, khám bệnh tại
trung tâm y tế huyện C tại phiếu chụp Xquang ngực thẳng ngày 05/12/2023 kết
luận hóa phổi, cung động mạch chủ bung rộng”; Tại phiếu chụp Xquang ngực
nghiêng ngày 05/12/2023 kết luận: Hiện tại chưa ghi nhận tổn thương xương
sườn trên phim Xquang”; Tại phiếu chụp Xquang sọ thẳng/ nghiêng ngày
05/12/2023 kết luận: “Hiện tại chưa nhận tổn thương sương sọ trên Xquang”. Tại
phiếu chụp CT Scan ngày 05/12/2023 của phòng khám Đ kết luận: Thương tổn
não đồi thị T, não thất bên không bị chèn ép, đường giữa không di lệch, thoái
hóa não theo tuổi; Dày niêm mạc xoang sàng 2 bên bướm P” ; Đơn thuốc của
phòng khám Đ thể hiện chuẩn đoán “di chứng nhồi máu não, tổn thương nông tác
động nhiều vùng cơ thể”. Tại giấy ra viện ngày 11/12/2023; đơn thuốc ngày
11/12/2023; bảng kê chi phí điều trị nội trú ngày 11/12/2023 của Bệnh viện
Nguyễn Đình C thể hiện nội dung chuẩn đoán của bệnh viện là “ Tăng huyết áp
căn (nguyên phát); tăng lipid máu hỗn hợp; đau đầu, hạ kali máu; bệnh trào ngược
dạ dày –thực quản không viêm thực quản”. Như vậy căn cứ theo các kết luận
nên trên thì không có căn cứ nào thể hiện cơ chế hình thành thương tích của ông B
là do đâu, mối quan hệ nhân quả của việc tác động ngoại lực dẫn đến hình thành vết
thương ở vị trí nào trên cơ thể của ông B; Trong khi các kết luận tại các phiếu chụp
-8-
CT, X lại liên quan đến bệnh mà ông B đã trước đó như di chứng nhồi máu
não, tổn thương não cũ đồi thị T; Tăng huyết áp…vvv...
Mặt khác, ngày xảy ra vụ việc ngày 04/12/2023 nhưng ngày 05/12/2023
thì ông B mới đi đến bệnh viện thăm khám. Như vậy trong thời gian ông B chưa
thăm khám, điều trị thì không có cơ sở nào xác định ông B có bị ngoại lực nào khác
tác động làm tổn thương thể hay không. Từ khi xảy ra vụ việc đến nay ông B
cũng không đi giám định thương tích nên ngoài lời khai của ông B thì không có tài
liệu chứng cứ nào xác định những tổn thương thể của ông B do ông L đánh
vào vùng trán.
vậy, Hội đồng xét xử không sở chấp nhận yêu cầu ông của ông B
về việc buộc ông L bổi thường chi phí điều trị tại các sở y tế chuyên khoa với
tổng số tiền 3.533.178 đồng (ba triệu năm ba mươi nghìn một trăm bảy mươi
tám đồng).
[2.2] Về yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần của ông B.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP
ngày 06/9/2022 quy định: Thiệt hại về tinh thần tổn thất tinh thần do bị m
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích nhân thân
khác chủ thể bị xâm phạm hoặc người thân thích của họ phải chịu và cần được
bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất đó.
Như trên đã phân tích, ông L không nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về sức
khỏe cho ông B nên ông L cũng không nghĩa vụ phải bồi thường đắp về tổn
thất tinh cho ông B.
[2.3] Đối với yêu cầu phản tố của ông L và yêu cầu xin lỗi công khai của ông
B:
Qúa trình giải quyết vụ án, ông B không thừa nhận có chửi ông L một số câu
nói như ông L trình bày, cho rằng hai bên xảy ra tranh cãi nhưng không
chửi, không có mục đích xúc phạm danh dự của ông L.
Bản thân ông L cũng không thừa nhận chửi ông B một số câu như ông B
trình bày, cho rằng 2 bên xảy ra tranh cãi nhưng không chửi thề, xúc phạm
ông B.
Người làm chứng của ông L trình bày cam kết lời trình bày đúng sự
thật nội dung chỗ đông người nơi tổ chức khui hụi của ông L, ông B 03 lần
văng tục chửi ông L Đ. Mẹ; Đ. Má; 02 lần chửi ông L “quân ăn cướp”. Tuy
-9-
nhiên người làm chứng lại hụi viên của ông L, đang trực tiếp tham gia việc bỏ thăm
hụi do ông L tổ chức; Ngoài ra người làm chứng cũng đang xảy ra tranh chấp bằng
vụ án khác với gia đình ông B tại Tòa án nhân dân huyện Châu Thành như bản thân
người làm chứng thừa nhận. vậy lời trình bày của người làm chứng do ông L
triệu tập là không khách quan.
Ông L ông B cũng không cung cấp được tài liệu chứng minh mình bị
xúc phạm vdanh dự, nhân phẩm nên không căn cứ chấp nhận yêu cầu của ông
L về việc buộc ông B bồi thường do danh dnhân phẩm bị xúc phạm; cũng không
căn cứ chấp nhận yêu cầu của ông B về việc buộc ông L phải xin lỗi ng khai
tại UBND xã.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông B, ông L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[5] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phù hợp với
quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn phù hợp một
phần với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận một phần.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 26, 35, 147, 157, 165, 266, 271, 273, Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 584, 590, 592 Bộ luật dân sự 2015
Căn cứ Điều 2, nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 09/6/2022 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Áp dụng Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
về án phí, lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
[1] Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn
B đối với ông Nguyễn Văn L. Cụ thể như sau:
Không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Văn B về việc buộc ông Nguyễn Văn
L phải bồi thường thiệt hại vsức khỏe với số tiền thuốc, tiền điều trị 3.533.178
đồng (ba triệu năm trăm ba mươi ba ngàn một trăm bảy mươi tám đồng);
Không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Văn B về việc buộc ông Nguyễn Văn
L phải bồi thường tổn thất tinh thần tương ứng với 10 tháng lương sở (mức cũ)
là 18 triệu đồng (Mười tám triệu đồng);
-10-
Không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Văn B về việc buộc ông Nguyễn Văn
L phải xin lỗi công khai tại UBND xã Q.
[2] Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn L về việc yêu cầu
ông Trần Văn B bồi thường tổn thất tinh thần tương ứng với 01 tháng lương sở
(mức cũ) là 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm ngàn đồng).
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông B và ông L được miễn nộp tiền án phí.
Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm)
ngày kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a, 7b và Điều
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
-TAND tỉnh Bến Tre; Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa
-VKSND huyện Châu Thành;
-Chi cục THADS huyện Châu Thành;
-Các đương sự;
-Lưu hồ sơ vụ án.
Hoàng Thị Tuyết
-11-
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Tải về
Bản án số 58/2024/DS-ST Bản án số 58/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 58/2024/DS-ST Bản án số 58/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất