Bản án số 69/2024/DS-ST ngày 13/09/2024 của TAND huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 69/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 69/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 69/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 69/2024/DS-ST ngày 13/09/2024 của TAND huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Trần Đề (TAND tỉnh Sóc Trăng) |
Số hiệu: | 69/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 13/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc các bị đơn có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho nguyên đơn số tiền là 50.054.910 đồng (Năm mươi triệu không trăm năm mươi bốn ngàn chín trăm mười đồng). |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TRẦN ĐỀ
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 69/2024/DS-ST
Ngày 13/9/2024
Về “Tranh chấp bồi thường thiệt
hại do sức khỏe bị xâm phạm”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Chu Đức Chương.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Trần Hoàng Việt;
2. Ông Thạch Văn Mến.
- Thư ký phiên tòa: Ông Trần Khánh Huy, là Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng tham
gia phiên tòa: Ông Lý Út Hoài - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh
Sóc Trăng; xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 230/2023/TLST-DS
ngày 11 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị
xâm phạm”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2024/QĐXXST-DS ngày 20
tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 69/2024/QĐST-DS ngày 05
tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1968 (Vắng mặt); địa chỉ:
Số nhà 117 ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng;
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1995
(Có mặt); địa chỉ: Số nhà 278/46/77 đường T, khóm 5, Phường 2, thành phố S, tỉnh
Sóc Trăng.
2. Bị đơn: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1991 (Vắng mặt) và anh Lý Hồng D,
sinh năm 1989 (Vắng mặt); địa chỉ: Ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Trong đơn khởi kiện ngày 07/9/2023 (Bút lục 01), quá trình giải quyết vụ án
(Bút lục 181) và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là ông Nguyễn Thanh T và
người đại diện theo ủy quyền của ông T là chị Nguyễn Thị T đều trình bày:
2
Vào lúc 00 giờ 56 phút ngày 16/02/2023, ông T từ nhà hàng xóm về gần đến
nhà thì bị anh Phạm Văn H và anh Lý Hồng D chặn đường hành hung gây thương
tích, ông T phải nằm viện điều trị. Sự việc được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
huyện Trần Đề giải quyết, theo Thông báo số 107 ngày 20/4/2023 về Kết luận giám
định thì ông T bị thương tích 5% nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm Cố ý gây
thương tích. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định số 26 ngày
05/7/2023 về không khởi tố vụ án hình sự. Nay, ông T yêu cầu Tòa án giải quyết,
buộc anh H và anh D bồi thường tổng số tiền là 50.054.910 đồng (Năm mươi triệu
không trăm năm mươi bốn ngàn chín trăm mười đồng); trong đó, chi phí điều trị là
7.359.910 đồng, chi phí thuê xe là 2.925.000 đồng, tổn thất tinh thần là 14.900.000
đồng, mất thu nhập của người chăm sóc trong thời gian điều trị là 7.200.000 đồng,
thu nhập thực tế của ông T bị mất là 7.200.000 đồng, chi phí phục hồi sức khỏe sau
điều trị là 4.470.000 đồng và thu nhập bị giảm sút sau điều trị thương tích là
6.000.000 đồng.
Tài liệu, chứng cứ nguyên đơn giao nộp là: Bản sao Căn cước công dân; Hợp
đồng ủy quyền; bản sao Thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm và
không khởi tố vụ án hình sự, Giấy chứng nhận thương tích; Bảng kê tiền thuốc điều
trị thương tích; bản sao Đơn xin xác nhận thu nhập cá nhân của ông T và của người
chăm sóc; bản fotocoppy các hóa đơn bán hàng, đơn thuốc, phiếu bán thuốc, phiếu
chỉ định Xquang KTS, phiếu chỉ định chụp CT Scanner, phiếu chỉ định điện não,
Giấy ra viện; Đơn yêu cầu miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí; Đơn yêu không
hòa giải theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án (Bút lục 02-41).
- Theo Biên bản lấy lời khai ngày 11/4/2024 (Bút lục 62) cũng như quá trình
giải quyết vụ án (Bút lục 181), bị đơn là anh Phạm Văn H và Lý Hồng Di cùng trình
bày:
Anh H với anh D thống nhất thay đổi ý kiến theo Biên bản lấy lời khai ngày
11/4/2024, cụ thể là: Anh H và anh D hoàn toàn thống nhất, đồng ý với các ý kiến
trình bày cũng như yêu cầu và tài liệu, chứng cứ của bên nguyên đơn giao nộp;
đồng ý nghĩa vụ liên đới bồi thường cho ông T tổng số tiền là 50.054.910 đồng
(Năm mươi triệu không trăm năm mươi bốn ngàn chín trăm mười đồng), theo yêu
cầu của ông T. Tuy nhiên, do hoàn cảnh khó khăn, không có việc làm và còn nuôi
con nhỏ nên anh H với anh D không có khả năng trả tiền một lần với thời hạn do
nguyên đơn đưa ra; anh H và anh D thống nhất nghĩa vụ liên đới bồi thường số tiền
nêu trên nhưng chỉ đồng ý trả chậm, mỗi tháng trả 200.000 đồng (Mỗi tháng trả hai
trăm ngàn đồng). Anh H với anh D đều khẳng định không thuộc trường hợp hộ
nghèo, cận nghèo, gia đình liệt sĩ hoặc có công với cách mạng được Nhà nước cấp
giấy chứng nhận.
3
- Tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập được gồm: Biên bản lấy lời khai của các
bị đơn (Bút lục 62); bản sao hồ sơ giải quyết tin báo tố giác tội phạm của Cơ quan
Cảnh sát điều tra – Công an huyện Trần Đề (Bút lục 79-162). Các đương sự đều
không có ý kiến phản đối về tài liệu, chứng cứ do đương sự khác giao nộp và do
Tòa án thu thập được.
- Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề
nêu quan điểm: Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định chính xác quan hệ
pháp luật tranh chấp; thu thập chứng cứ đầy đủ, đúng pháp luật; Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng
quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của ông T, buộc bị đơn Phạm Văn H và Lý Hồng D phải trả ông
T số tiền là 50.054.910 đồng (Năm mươi triệu không trăm năm mươi bốn ngàn chín
trăm mười đồng); quyết định về nghĩa vụ chịu án phí đối với đương sự theo quy
định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng.
Ông T khởi kiện, yêu cầu anh H và anh D có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do
cùng thực hiện hành vi gây thương tích, xâm phạm sức khỏe của ông T. Tranh chấp
này được pháp luật điều chỉnh tại Điều 590, các quy định tương ứng khác của Bộ
luật Dân sự; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh
Sóc Trăng quy định tại Khoản 6 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1
Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bị đơn Phạm Văn H và Lý Hồng D được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng
mặt, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên phải chịu hậu
quả pháp lý về việc vắng mặt của mình. Tại phiên tòa, nguyên đơn và Kiểm sát viên
yêu cầu giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật; Hội đồng xét xử căn cứ vào
điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử
vụ án vắng mặt anh H, anh D.
[2] Về nội dung giải quyết.
- Căn cứ ý kiến thừa nhận, thống nhất của các bên cũng như hồ sơ giải quyết
tin báo tố giác tội phạm của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Trần Đề,
thì: Các đương sự xác định anh H với anh D gây thương tích cho ông T nhưng chưa
đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Phía bị đơn đã có lỗi, có nghĩa vụ liên đới
bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông T. Bên nguyên đơn, phía bị đơn cùng thừa
nhận ông T bị thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm với tổng số tiền là 50.054.910
đồng (Năm mươi triệu không trăm năm mươi bốn ngàn chín trăm mười đồng).
4
- Căn cứ lời trình bày của các bị đơn, thì: Do hoàn cảnh khó khăn, không có
việc làm và còn nuôi con nhỏ nên anh H với anh D không có khả năng bồi thường
một lần toàn bộ thiệt hại của ông T; chỉ đồng ý trả chậm, mỗi tháng trả 200.000
đồng (Mỗi tháng trả hai trăm ngàn đồng).
Từ các căn cứ trên, đối chiếu với quy định tại điểm c Khoản 1, Khoản 2 Điều
92 của Bộ luật Tố tụng dân sự, có cơ sở khách quan để kết luận về hành vi của anh
H với anh D và hậu quả đã xâm phạm sức khỏe của ông T, gây thiệt hại cho ông T
như sau:
Vào tối ngày 16/02/2023, anh H và anh D với ông T cùng đi dự đám cưới của
người cùng xóm. Đến hơn 12 giờ khuya thì anh H ra về, anh D còn về sau anh H.
Khi anh H về đến gần cổng nhà ông T thì gặp ông T, tại đây hai bên cự cãi qua lại,
do thiếu kìm chế nên anh H đã dùng tay đánh ông T nhưng không nhằm vào vị trí
nào, chỉ quơ tay hai cái trúng ông T; lúc này anh D cũng về tới, dù có can ngăn
nhưng vẫn cùng anh H ẩu đả với ông T và chỉ chấm dứt khi vợ của ông T có mặt.
Hậu quả làm ông T bị thương tích nhẹ, phải điều trị tại bệnh viện; phải tốn chi phí
thuê xe, điều trị, tổn thất tinh thần, mất thu nhập của ông T và người chăm sóc trong
thời gian điều trị, chi phí phục hồi sức khỏe với tổng số tiền là 50.054.910 đồng
(Năm mươi triệu không trăm năm mươi bốn ngàn chín trăm mười đồng). Mặc dù
thừa nhận có lỗi, đồng ý bồi thường tổng số tiền thiệt hại này nhưng anh H với anh
D chỉ đưa ra phương án thanh toán mỗi tháng 200 ngàn đồng, ông T không chấp
nhận nên yêu cầu Tòa án giải quyết.
Xét tài liệu, chứng cứ do đương sự giao nộp và do Tòa án thu thập được, thì:
Việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án được thực hiện đúng quy định tại
điểm a, điểm g Khoản 2 Điều 97 và Điều 98, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
các đương sự đều thừa nhận tài liệu, chứng cứ do đương sự khác giao nộp và do Tòa
án thu thập được. Vì vậy, toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ vụ án có giá trị là chứng cứ
để giải quyết vụ án.
Xét yêu cầu khởi kiện của ông Tòng, thì thấy:
Các yêu cầu bồi thường về loại thiệt hại, mức thiệt hại phù hợp với quy định
tại Điều 590 của Bộ luật Dân sự, Điều 7 của Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP
ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Thiệt hại của nguyên đơn do anh H, anh D gây ra. Cho nên, nguyên đơn yêu
cầu các bị đơn cùng bồi thường là có căn cứ chấp nhận quy định tại Khoản 1 Điều
584 của Bộ luật Dân sự, được hướng dẫn tại Khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số
02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao và Điều 587 của Bộ luật Dân sự.
Xét các lý lẽ, nguyện vọng của phía bị đơn thì thấy:
5
Anh H với anh D đều khẳng định không thuộc trường hợp hộ nghèo, cận
nghèo, gia đình liệt sĩ hoặc có công với cách mạng được Nhà nước cấp giấy chứng
nhận; đồng thời, thiệt hại của ông T hoàn toàn do lỗi của các bị đơn. Trong khi đó,
về nguyên tắc bồi thường tại Điều 585 của Bộ luật Dân sự và Điều 3 của Nghị quyết
số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao quy định: Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời nếu
không có thỏa thuận khác, người chịu trách nhiệm bồi thường không được giảm
mức bồi thường nếu có lỗi và thiệt hại không quá lớn so với khả năng kinh tế. Vì
vậy, các bị đơn đưa ra lý do hoàn cảnh khó khăn, không có việc làm và còn nuôi
con nhỏ; chỉ đồng ý trả chậm, mỗi tháng trả 200.000 đồng nhưng nguyên đơn không
đồng ý nên không có cơ sở chấp nhận.
Từ những phân tích và nhận định như trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn
bộ yêu cầu của ông T, về buộc anh H với anh D bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị
xâm phạm với tổng số tiền là 50.054.910 đồng.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được chấp
nhận, các bị đơn phải chịu toàn bộ án phí quy định tại Khoản 1 Điều 147 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV. Cụ thể: Anh H với anh D
phải liên đới chịu (50.054.910 đồng x 5%) = 2.502.745 đồng.
[4] Về quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần
Đề là có căn cứ pháp lý và cơ sở thực tiễn như đã nhận định ở trên, Hội đồng xét xử
cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đã nêu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Khoản 6 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều
39, Khoản 2 Điều 143, Khoản 1 Điều 147, điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều
228, Khoản 2 Điều 482 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 590, Khoản 1 Điều 584, Điều 585, Điều 586, Khoản 2 Điều
468 của Bộ luật dân sự;
Căn cứ Khoản 1 Điều 2, Điều 3, Điều 7 của Nghị quyết số 02/2022/NQ-
HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh T đối với anh
Phạm Văn H và anh Lý Hồng D, về “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe
bị xâm phạm”.
6
Buộc anh H và anh D có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại cho ông T số
tiền là 50.054.910 đồng (Năm mươi triệu không trăm năm mươi bốn ngàn chín trăm
mười đồng). Việc bồi thường được thi hành ngay mặc dù Bản án có thể bị kháng
cáo, khiếu nại, kháng nghị, kiến nghị.
Nếu anh H với anh D không thực hiện bồi thường thì kể từ ngày ông T có
đơn yêu cầu thi hành án, anh H với anh D phải trả tiền lãi theo lãi suất quy định tại
Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thanh
toán quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự.
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
Anh Phạm Văn H với anh Lý Hồng D phải liên đới chịu số tiền là 2.502.745
đồng (Hai triệu năm trăm lẻ hai ngàn bảy trăm bốn mươi lăm đồng).
Ông T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, do ông T được miễn nộp tiền
tạm ứng án phí nên không phải xử lý.
3. Nguyên đơn có quyền kháng cáo đối với Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể
từ ngày Tòa tuyên án; các bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn nêu trên, kể
từ ngày nhận được Bản án hoạc Bản án được niêm yết hợp lệ; để yêu cầu Tòa án
nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự
thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND huyện Trần Đề;
- Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng;
- Lưu HSVA, VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
CHU ĐỨC CHƯƠNG
Tải về
Bản án số 69/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 69/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 01/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm