Bản án số 550/2024/DS-PT ngày 08/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 550/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 550/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 550/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 550/2024/DS-PT ngày 08/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 550/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn là bà Ngô Thị T, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2023/DS-ST ngày 05/10/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 550/2024/DS-PT
Ngày: 08/10/2024
V/v “Tranh chấp quyền sử dụng đất
và yêu cầu hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa: Ông Hồ Sỹ Hưng;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Tất Nam;
Ông Trần Quang Minh.
Thư ký ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Mai, Thẩm tra viên
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa:
Ông Phạm Quốc Huy, Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 10 năm 2024, tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở
phiên tòa phúc thẩm xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý thụ lý số
309/2024/TLPT-DS ngày 07 tháng 6 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử
dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, do có kháng cáo
của nguyên đơn đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2023/DS-ST ngày 05 tháng
10 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10885/2024/QĐ-PT ngày 23 tháng
9 năm 2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, vụ án có các đương sự sau:
1. Nguyên đơn: Bà Ngô Thị T, sinh năm 1953; trú tại: Số nhà X, khối X1
(nay là khối X2), thị trấn H, huyện H, tỉnh Nghệ An, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Các Luật sư
Nguyễn Văn G, sinh năm 1983 và Nguyễn Thị T1, sinh năm 1987 - Công ty Luật
trách nhiệm hữu hạn một thành viên (viết tắt là TNHH MTV) V thuộc Đoàn Luật
sư tỉnh Nghệ An; địa chỉ: Số X3, đường Trần Quang D, phường T2, thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An; Luật sư G vắng mặt, Luật sư T1 có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hồng T3; sinh năm 1949; trú tại: Khối X4 (nay là
khối X5) thị trấn H, huyện H, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Công S, sinh năm 1952; trú tại: Số nhà X, khối X1 (nay là
khối X2), thị trấn H, huyện H, tỉnh Nghệ An; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Công S: Các Luật
2
sư Nguyễn Văn G, sinh năm 1983 và Nguyễn Thị T1, sinh năm 1987 - Công ty
Luật TNHH MTV V thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Nghệ An; địa chỉ: Số X3, đường
Trần Quang D, phường T2, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Luật sư G vắng mặt,
Luật sư T1 có mặt.
- Anh Nguyễn Tất T4, sinh năm 1981; trú tại: Khối X5, thị trấn H, huyện
H, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
- Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) huyện H, tỉnh Nghệ An; địa chỉ: Khối
X6, thị trấn H, huyện H, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
- UBND thị trấn H, huyện H, tỉnh Nghệ An; địa chỉ: Khối X6, thị trấn H,
huyện H, tỉnh Nghệ An.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Cao Xuân B, chức vụ: Chủ tịch; vắng
mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân N, chức vụ: Phó chủ tịch;
có đơn xin xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên tòa, nguyên đơn bà Ngô Thị T và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho nguyên đơn thống nhất trình bày:
Năm 1983, UBND huyện H ban hành Quyết định số 270/UB (viết tắt là
Quyết định số 270/UB) về việc cho phép gia đình bà Ngô Thị T được sử dụng
300m
2
đất để xây dựng nhà ở riêng tại trường cấp 3 cũ; phần đất này lúc đó là ao
trũng do trước đây bộ đội đào hào đắp lũy, thuộc lô đất số 06; phía Đông giáp kho
của huyện đội (nay là đất ông T3, bà T5); phía Bắc giáp nhà thầy L (nay là đất cô
X7); phía Tây giáp đất cô L1; phía Nam giáp đường xóm. Nội dung này cũng đã
được ông Phan Văn T6 lúc bấy giờ là Phó chủ tịch UBND huyện H ký quyết định,
xác nhận và ông Nguyễn Trọng T7 nguyên là Trưởng phòng xây dựng huyện H
xác nhận. Tại thời điểm được cấp đất, do điều kiện còn khó khăn chưa xây dựng
được nhà ở, nên thửa đất vẫn giữ nguyên hiện trạng. Đến năm 2005, khi đã có đủ
điều kiện kinh tế thì cũng là lúc gia đình ông T3, bà T5 đổ đất lên thửa đất này
của gia đình bà T và bà T đã có đơn đến các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải
quyết. Đến năm 2011, ông Nguyễn Hồng T3 được UBND huyện H cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) thửa đất số 202, tờ bản đồ số 05,
diện tích 572m
2
bao gồm cả phần diện tích đất cũ gia đình bà T.
Theo Giấy cấp quyền sử dụng đất ngày 23/3/1982 của UBND xã H1 thì gia
đình ông Nguyễn Hồng T3 được cấp đất là 330m
2
có tứ cận như sau: Phía Đông
giáp nhà anh T8, phía Tây giáp hết nhà vệ sinh cấp 3, phía Bắc giáp trường cấp 3,
phía Nam giáp đường cái. Tuy nhiên, theo kết quả thẩm định tại chỗ và Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 132780 mà UBND huyện H, tỉnh Nghệ An
cấp cho gia đình ông Nguyễn Hồng T3 thì diện tích thửa đất lại là 572m
2
, tăng
242m
2
và trong đó có 170m
2
đất của gia đình bà T mà gia đình ông T3 đã lấn
chiếm. Nguồn gốc đất của gia đình bà T được UBND huyện H cấp tại quyết định
cấp đất ngày 26/7/1983 là lô số 6, khu đất trường cấp 3 cũ, có nhà vệ sinh của
trường cấp 3 và giáp với đất của nhà kho huyện đội cũ, chính là giáp đất của gia
đình ông Nguyễn Hồng T3. Người phân đất giao cho bà T lúc đó là ông Nguyễn
3
Trọng T7 cũng đã khẳng định phần đất giao cho bà T chính là phần diện tích đất
mà gia đình ông T3 đang sử dụng. Như vậy, rõ ràng gia đình ông T3 đang có hành
vi sử dụng lấn chiếm phần diện tích đất đã được giao cho bà T.
Nay bà T5 (vợ ông T3) đã chết, hàng thừa kế thứ nhất ngoài ông Nguyễn
Hồng T3 còn có các con của ông T3 và bà T5 là anh Nguyễn Thành T9, sinh năm
1978 (đã chết) và anh Nguyễn Tất T4, sinh năm 1981 (trú tại khối X5, thị trấn H,
huyện H, tỉnh Nghệ An).
Vì vậy, bà T yêu cầu Toà án buộc gia đình ông Nguyễn Hồng T3 cùng
những người thừa kế phải trả lại cho bà T 300m
2
đất bị lấn chiếm. Yêu cầu Tòa
án tuyên hủy một phần GCNQSDĐ mà UBND huyện H đã cấp cho ông Nguyễn
Hồng T3 và bà Nguyễn Thị T5 ngày 08/9/2011 đối với thửa đất số 202, tờ bản đồ
số 05 tại khối X4 (nay là khối X5), thị trấn H, huyện H, tỉnh Nghệ An.
- Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn ông Nguyễn Hồng T3
trình bày:
Năm 1982, ông Nguyễn Hồng T3 và vợ là bà Nguyễn Thị T5 có làm đơn
xin cấp đất làm nhà theo diện gia đình chính sách, có công với cách mạng. Sau
đó UBND xã H1 (nay là UBND thị trấn H), huyện H đã cấp cho gia đình ông T3
một thửa đất có diện tích 330m
2
tại đội 9, xã H1 (khối X4 cũ và nay là khối X5,
thị trấn H), huyện H. Thửa đất có ranh giới, tứ cận như sau: Phía Đông giáp nhà
ông T8, phía Tây giáp hết nhà vệ sinh trường cấp 3 T10, phía Bắc giáp trường
cấp 3 T10, phía Nam giáp đường cái. Ông Trần Công S1 - nguyên là Chủ tịch
UBND xã H1 thời điểm đó đã ký quyết định cấp đất cho gia đình ông T3. Sau khi
nhận đất năm 1982, gia đình ông đã ở và trồng cây phi lao. Hiện nay gốc cây vẫn
còn nguyên vẹn.
Năm 1986, có đoàn đo đạc của tỉnh về kiểm tra lại thì diện tích đất thừa so
với quyết định cấp đất. Gia đình ông đã nộp tiền đất thừa thể hiện tại Phiếu thu
số 645 với số tiền 300 đồng (ba trăm đồng), vị trí ở phía Tây giáp đường đi ra
công trình vệ sinh của trường cấp 3 cũ, số diện tích đất thừa này là diện tích nằm
trên ao của huyện đội cũ chứ không liên quan đến diện tích của nền trường cấp 3
cũ. Đến năm 2011, thì gia đình ông T3 được cấp GCNQSDĐ số BE 132780 ngày
08/9/2011 với diện tích 572m
2
(trong đó đất ở 200m
2
, đất trồng cây hàng năm
khác là 372m
2
). Kể từ khi được cấp đất đến nay gia đình ông T3, bà T5 sử dụng
ổn định thửa đất, không có tranh chấp với ai.
Do gia đình ông đã được cấp đất từ trước khi bà T được cấp đất, sử dụng
ổn định, lâu dài, không có tranh chấp và thửa đất đã được UBND huyện H cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định pháp luật, nên ông không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Nguyễn Công S trình bày: Tôi hoàn toàn đồng ý với lời trình bày
của vợ tôi là bà Ngô Thị T. Tôi không có đề nghị và bổ sung gì thêm.
- Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban
nhân dân huyện H, tỉnh Nghệ An (người đại diện theo ủy quyền ông Hoàng Anh
T11 – Phó Chủ tịch UBND huyện H) có văn bản trình bày: Kiểm tra hồ sơ địa
chính qua các thời kỳ thể hiện ông Nguyễn Hồng T3 và bà Nguyễn Thị T5 trú tại
khối X4, thị trấn H, huyện H được UBND xã H1 (cũ) cấp đất năm 1982. Kiểm tra
4
hồ sơ địa chính thể hiện diện tích như sau: Ông Nguyễn Hồng T3 là chủ sử dụng
tại thửa đất số 202, diện tích 572m
2
. Ông Nguyễn Hồng T3 và bà Nguyễn Thị T5
được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ số BE 132780 ngày 08/9/2011 tại thửa đất
số 202, tờ bản đồ số 5, diện tích 572m
2
, khối X5 (khối X4 cũ), thị trấn H, huyện
H, tỉnh Nghệ An.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và có yêu cầu thay đổi một phần
diện tích đất mà nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại 170m
2
đất. Bị đơn không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Các đương sự không thống nhất, thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2023/DS-ST ngày 05/10/2023, Tòa án
nhân dân tỉnh Nghệ An, quyết định: Áp dụng khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 4
Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 157, Điều 227, Điều 228, Điều
271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành
chính; Điều 99, Điều 100, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; khoản 3 Điều 26
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
Hội 14 quy định về án phí, lệ phí của Tòa án, xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị T về việc buộc ông
Nguyễn Hồng T3, anh Nguyễn Thành T9, anh Nguyễn Tất T4 phải trả lại diện
tích đất 170m
2
.
2. Không chấp nhận yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BE 132780 ngày 08/9/2011 của UBND huyện H đã cấp cho ông Nguyễn
Hồng T3 và bà Nguyễn Thị T5.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, lệ phí
và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/10/2024, nguyên đơn là bà Ngô Thị T có
đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và người bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn đều cho rằng diện tích đất đang tranh chấp đã có quyết định
cấp đất cho nguyên đơn từ năm 1983; gia đình nguyên đơn có quản lý sử dụng;
khi bị đơn lấn chiếm đất thì nguyên đơn đã có khiếu nại và có khởi kiện đến Tòa
án, nhưng không được giải quyết; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông T3, bà T5 khi chưa giải quyết tranh chấp, khiếu nại là không đúng pháp luật;
quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm không đưa những người thừa kế
của bà T5 tham gia giải quyết vụ án là vi phạm tố tụng. Do đó đề nghị Hội đồng
xét xử phúc thẩm xem xét chấp nhận nội dung kháng cáo và hủy bản án sơ thẩm
để xét xử sơ thẩm lại.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa sau
khi đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của đương
sự tại phiên tòa phúc thẩm, đã khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và quyết
định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Do đó, đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bà Ngô Thị T,
giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; trên cơ sở ý kiến trình
bày của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của bà Ngô Thị T đối với Bản án dân sự sơ thẩm số
68/2023/DS-ST ngày 05/10/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An là hợp lệ và
trong thời hạn luật định, nên được xem xét theo quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn và một số người có quyền, nghĩa vụ
liên quan vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai hoặc có đơn
xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định.
[3] Xét kháng cáo của bà Ngô Thị T:
[3.1] Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của
các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án thể hiện: Ngày 26 tháng 7 năm 1983,
UBND huyện H ban hành Quyết định số 270/UB về việc cho phép gia đình bà
Ngô Thị T được sử dụng 300m
2
đất để xây dựng nhà ở riêng tại trường cấp 3 cũ
và nội dung của quyết định đã thể hiện rõ: Sau khi được cấp đất, bà Ngô Thị T
phải xây dựng nhà ở riêng, nếu đến ngày 31 tháng 9 năm 1983 không xây dựng
UBND huyện sẽ thu hồi lại; trước lúc xây dựng phải duyệt thiết kế mặt bằng; ban
công nghiệp xây dựng huyện có quyền thay mặt UBND huyện giám sát việc này.
Tuy nhiên, từ đó đến nay, gia đình bà T không xây dựng nhà ở trên thửa đất đã
được giao và theo ý kiến của UBND huyện H (BL 274) thì tại thời điểm từ năm
1983, việc lưu trữ hồ sơ đối với diện tích đất giao cho gia đình bà T theo Quyết
định số 270/UB chắc chắn không đầy đủ nên không thể căn cứ vào việc chỉ kiểm
tra hồ sơ lưu trữ thời điểm hiện tại và cũng không có cơ sở để trả lời việc có hay
không ban hành quyết định thu hồi đất của bà Ngô Thị T.
Đối với diện tích đất của bị đơn là ông Nguyễn Hồng T3 thì năm 1982, gia
đình ông T3 có làm đơn xin cấp đất làm nhà theo diện gia đình chính sách, có
công với cách mạng và được UBND xã H1 (nay là UBND thị trấn H), huyện H
cấp “Giấy cấp quyền sử dụng ruộng đất” ngày 23/3/1982 với diện tích 330m
2
tại
Đội 9, xã H1 (khối X4 cũ và nay là khối X5, thị trấn H), huyện H, tỉnh Nghệ An.
Thửa đất có ranh giới, tứ cận như sau: Phía Đông giáp nhà ông T8, phía Tây giáp
hết nhà vệ sinh trường cấp 3 T10, phía Bắc giáp trường cấp 3 T10, phía Nam giáp
đường cái. Sau khi nhận đất (năm 1982), gia đình ông T3 đã ở và trồng cây trên
đất. Ngoài ra, theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì năm 1986 đoàn đo đạc của tỉnh
về kiểm tra lại thì diện tích đất thừa so với quyết định cấp đất, nên gia đình ông
Nguyễn Hồng T3 và bà Nguyễn Thị T5 đã nộp tiền đất thừa thể hiện tại Phiếu thu
số 645 với số tiền 300 đồng (ba trăm đồng) (Bl 87), vị trí ở phía Tây giáp đường
đi ra công trình vệ sinh của trường cấp 3 cũ, số diện tích đất thừa này là diện tích
nằm trên ao của huyện đội cũ. Đồng thời, theo hồ sơ theo dõi, quản lý đất đai của
các cơ quan chức năng có thẩm quyền (Bản đồ 299, bản đồ 2000, bản đồ địa
chính, sổ mục kê,…) qua các thời kỳ, không có tài liệu nào thể hiện bà T có thửa
đất tại vị trí đang tranh chấp hiện nay. Năm 2011, gia đình ông Nguyễn Hồng T3
và bà Nguyễn Thị T5 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 132780
ngày 08/9/2011 với diện tích 572m
2
(trong đó đất ở 200m
2
, đất trồng cây hàng
năm khác là 372m
2
), nhưng không có khiếu nại hoặc phản đối từ gia đình bà T.
6
Như vậy, từ năm 1983, gia đình bà T không quản lý sử dụng diện tích đất
300m
2
theo Quyết định số 270/UB ngày 26 tháng 7 năm 1983 của UBND huyện
H; không có hồ sơ quản lý đất đai đối với diện tích đất này, trong khi đó gia đình
ông T3 đã được cấp đất từ năm 1982 (trước khi bà T được cấp đất) và không có
tài liệu nào thể hiện diện tích đất của gia đình bà T có vị trí tại thửa đất đang tranh
chấp hiện nay. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn là có căn cứ.
[3.2] Xét việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 132780 ngày
08/9/2011 của UBND huyện H, tỉnh Nghệ An cấp cho ông Nguyễn Hồng T3, bà
Nguyễn Thị T5 tại thửa đất số 202, tờ bản đồ số 05, diện tích 572m
2
thuộc khối
X5 (khối X4 cũ), thị trấn H, huyện H, tỉnh Nghệ An là bảo đảm đúng trình tự, thủ
tục và thẩm quyền theo quy định pháp luật. Đồng thời, như đã nhận định và thực
tế thì diện tích đất đang có tranh chấp là do gia đình ông T3 đã sử dụng ổn định,
lâu dài; việc nguyên đơn cho rằng có khiếu nại khi gia đình ông T3 lấn chiếm đất
nhưng không được giải quyết là không có tài liệu, chứng cứ chứng minh; thời
điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông T3 thì vụ án tranh
chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Ngô Thị T và bị đơn là ông Nguyễn
Hồng T3 đã được đình chỉ tại Quyết định số 01/2010/QĐ-PT ngày 16/3/2010 của
Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An (BL 84b). Như vậy, UBND huyện H cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 132780 ngày 08/9/2011 cho gia đình ông
T3 là đúng quy định pháp luật; Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên là
có căn cứ.
[3.3] Việc Tòa án cấp sơ thẩm không đưa những người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của bà T5 tham gia tố tụng là có thiếu sót nhưng không làm ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, nên không cần thiết phải xem xét
lại.
[3.4] Từ những nhận định nêu trên, xét thấy tại cấp phúc thẩm không phát
sinh tình tiết mới, nên không có cơ sở để xem xét nội dung kháng cáo của nguyên
đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm như quan điểm giải quyết vụ án của đại diện
Viện kiểm sát đã phát biểu tại phiên tòa là phù hợp.
[4] Các nội dung khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí: Do bà Ngô Thị T là người cao tuổi nên được miễn án phí dân
sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
7
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn là bà Ngô Thị T, giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2023/DS-ST ngày 05/10/2023 của Tòa án nhân dân
tỉnh Nghệ An.
4. Về án phí: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà Ngô Thị T.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- V
KSND cấp cao tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Nghệ An;
- VKSND tỉnh Nghệ An;
- Cục THADS tỉnh Nghệ An;
- C
ác đương sự (theo địa chỉ);
- L
ưu hồ sơ vụ án, P. HCTP TANDCC.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hồ Sỹ Hưng
8
CÁC THẨM PHÁN
Nguyễn Tất Nam Trần Quang Minh
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hồ Sỹ Hưng
9
Nơi nhận:
- V
KSND cấp cao tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Nghệ An;
- VKSND tỉnh Nghệ An;
- Cục THADS tỉnh Nghệ An;
- C
ác đương sự (theo địa chỉ);
- L
ưu hồ sơ vụ án, P. HCTP TANDCC.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hồ Sỹ Hưng
10
CÁC THẨM PHÁN
Nguyễn Tất Nam Trần Quang Minh
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hồ Sỹ Hưng
11
Nơi nhận:
- V
KSND cấp cao tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Nghệ An;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
12
- VKSND tỉnh Nghệ An;
- Cục THADS tỉnh Nghệ An;
- C
ác đương sự (theo địa chỉ);
- L
ưu hồ sơ vụ án, P. HCTP TANDCC.
Hồ Sỹ Hưng
13
CÁC THẨM PHÁN
Nguyễn Tất Nam Võ Hồng Sơn
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Tiến Dũng
Tải về
Bản án số 550/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 550/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm