Bản án số 55/2025/HNGĐ-ST ngày 04/06/2025 của TAND huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 55/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 55/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 55/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 55/2025/HNGĐ-ST ngày 04/06/2025 của TAND huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Yên Sơn (TAND tỉnh Tuyên Quang) |
Số hiệu: | 55/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/06/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Xét xử sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN YÊN SƠN
TỈNH TUYÊN QUANG
Bản án số: 55 /2025/HNGĐ-ST
Ngày 17/3/2025
Về việc: Tranh chấp Hôn nhân và gia đình
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà: Bà Đào Thị Thu Thuỷ
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Đặng Thị Huệ
2. Bà Hà Thị Vinh
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Hoài Hương - Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang tham gia
phiên tòa: Bà Lương Nguyễn Thảo Phương - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Sơn mở
phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 271/2024/TLST- HNGĐ
ngày 25 tháng 10 năm 2024, về việc “Ly hôn và giao nuôi con khi ly hôn” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/02/2025,
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị T, sinh năm 1982.
- Bị đơn: Anh Triệu Ngọc T, sinh năm 1980.
Cùng địa chỉ: Tổ dân phố H, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh T.
( Chị T có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T có mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị T và anh Triệu Ngọc T cùng xác định
anh chị kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình cưới hỏi theo phong
tục địa phương và có đăng ký kết hôn ngày 08/4/2004 tại Ủy ban nhân dân xã
Thắng Quân (nay là UBND thị trấn Yên Sơn), huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản hoà giải, chị Đặng Thị T trình
bày: Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung cùng gia đình anh T, thời gian đầu vợ
chồng chị chung sống hoà thuận bình thường, sau đó bắt đầu phát sinh mâu thuẫn
do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống và lối sống. Đến năm 2023 thì
phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do tính tình hai bên không hợp nhau, luôn bất
2
đồng về quan điểm, lối sống, hiện tại đã sống ly thân. Nay chị xác định tình cảm
vợ chồng không còn, không yêu thương quý trọng nhau, mục đích hôn nhân không
đạt được, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Triệu Ngọc T.
Về con chung: Chị và anh Triệu Ngọc Tcó 02 con chung tên là Triệu Đức T,
sinh ngày 12/12/2000 và Triệu Thị Hằng N, sinh ngày 28/9/2012. Hiện nay cháu T
đã trên 18 tuổi và đã có gia đình riêng nên anh chị không đề nghị giải quyết; cháu
N đang do anh T nuôi dưỡng nên chị đề nghị anh T tiếp tục là người trực tiếp nuôi
dưỡng con Triệu Thị Hằng N sau khi vợ chồng ly hôn; chị không cấp dưỡng nuôi
con chùng cùng với anh T vì chị không có khả năng cấp dưỡng.
Về tài sản chung: Chị Đặng Thị T xác định tự thoả thuận, không yêu cầu Toà
án giải quyết.
Về vay nợ chung: Chị Đặng Thị T xác định chị và anh T không có vay nợ
chung nên không đề nghị Toà án giải quyết.
Tại bản tự khai và biên bản hoà giải, anh Triệu Ngọc T trình bày: Anh và
chị Đặng Thị T (tên gọi ở nhà là Đặng Thị H) về sống với nhau từ năm 2000, đến
năm 2004 mới đi làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Thắng Quân cũ, nay là
UBND thị trấn Yên Sơn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang trên cơ sở tự nguyện,
không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn anh chị sống chung cùng gia đình anh tại tổ
dân phố H, thị trấn Y, huyện Y. Thời gian đầu vợ chồng sống hoà thuận, hạnh phúc
bình thường. Đến đầu năm 2024 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính
tình hai bên không hợp nhau, bất đồng về quan điểm lối sống. Có lần anh thấy chị
T nói chuyện điện thoại với người đàn ông khác, anh nhắc nhở, thu điện thoại và
tát cảnh cáo chị Tnên chị T bỏ nhà về nhà ngoại, sau đó anh có đón về. Cho đến
tháng 6/ 2024 thì chị T đi làm, không về nhà và ly thân với anh từ đó đến nay. Anh
gọi điện thoại không được vì chị T chặn số của anh và hiện anh cũng không biết
chị T đang ở đâu, làm gì. Anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh vẫn yêu
thương quý trọng chị T, mâu thuẫn chưa đến mức trầm trọng, cuộc sống hôn nhân
vẫn có thể cải thiện được nên anh không nhất trí ly hôn với chị T, đề nghị Toà án
bác đơn ly hôn của chị T để gia đình anh được đoàn tụ, cùng nhau xây dựng gia
đình hạnh phúc, tiến bộ.
Về con chung: Anh và chị T có 02 con chung là Triệu Đức T, sinh năm 2000
và Triệu Thị Hằng N, sinh ngày 28/9/2012. Hiện nay cháu T đã trưởng thành và có
gia đình riêng còn cháu N đang học lớp 7 trường THCS Thắng Quân. Anh mong
muốn được đoàn tụ gia đình nên không nhất trí với ý kiến của chị T và không có ý
kiến gì về con chung.
Về tài sản chung và về nợ chung: Anh không nhất trí ly hôn nên nên không
yêu cầu Toà án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Toà án nhân dân huyện Yên Sơn đã tiến hành
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải giữa chị
Đặng Thị T và anh Triệu Ngọc T nhưng không thành.
Tại phiên toà, chị Đặng Thị T có đơn xin xét vắng mặt và giữ nguyên yêu
cầu xin ly hôn anh Triệu Ngọc T, đề nghị anh T là người trực tiếp nuôi con chung

3
Triệu Thị Hằng N, sinh ngày 28/9/2012, chị không có khả năng cấp dưỡng nuôi
con chung.
Anh Triệu Ngọc T có mặt tại phiên toà, anh T trình bày thêm:
Ngày 26 Tết âm lịch 2025 vừa qua chị T có ghé qua ghé lại thăm con gái
Triệu Thị Hằng N xong lại đi ngay, trong Tết gia đình anh và họ hàng đã nhiều lần
khuyên can và hoà giải nhưng chị T vẫn không ở nhà với chồng con, sau Tết chị T
lại đi tiếp, anh cũng không biết chị đi đâu và cũng không thể liên lạc được. Tuy
anh mong muốn đoàn tụ với chị T để nuôi dạy con cái nhưng anh cũng xác định từ
khi vợ chồng ly thân đến nay anh không biết chị T ở đâu và cũng không có cách
nào để chị T trở về chung sống với anh và các con, hiện nay gia đình anh đã không
còn tồn tại một gia đình đầy đủ và hạnh phúc như trước nữa, vì vậy anh đồng ý ly
hôn với chị Đặng Thị T.
Về con chung: Anh và chị Đặng Thị T có 02 con chung là Triệu Đức T, sinh
ngày 12/12/2000 và Triệu Thị Hằng N, sinh ngày 28/9/2012. Hiện nay cháu T đã
trên 18 tuổi và đã có gia đình riêng nên anh chị không đề nghị Toà án giải quyết;
cháu N đang do anh nuôi dưỡng nên anh đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng
con Triệu Thị Hằng N sau khi ly hôn; anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con
chung cùng với anh.
Về tài sản chung: Anh xác định anh và chị T không có nhà và quyền sử dụng
đất chung (vì vợ chồng sống tại nhà của bố mẹ đẻ anh), anh chị chỉ có một số tài
sản là vật dụng sinh hoạt hàng ngày trong gia đình nên anh và chị T sẽ tự thoả
thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Sơn:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của
nguyên đơn, bị đơn khi tham gia tố tụng dân sự đều đảm bảo đúng quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị
Hội đồng xét xử cho chị Đặng Thị T (tên gọi khác Đặng Thị H) và anh Triệu Ngọc
T ly hôn. Về con chung: Đề nghị HĐXX giao cháu Triệu Thị Hằng N, sinh ngày
28/9/2012 cho anh Triệu Ngọc T trực tiếp trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục sau ly hôn. Về cấp dưỡng nuôi con, do anh Tiếp không yêu cầu nên chị Thặc
không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung
theo quy định. Về tài sản và vay nợ chung: Các đương sự cùng xác định tự thoả
thuận về tài sản; vay nợ chung không có nên đề nghị HĐXX không xem xét giải
quyết. Đề nghị HĐXX tuyên chị Đặng Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; các
đương sự được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà,
Hội đồng xét xử nhận định:
4
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Đặng Thị T (tên gọi khác Đặng Thị
H) và anh Triệu Ngọc T chung sống trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn đúng
quy định pháp luật tại UBND xã Thắng Quân (nay là UBND thị trấn Yên Sơn),
huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang vào ngày 08/4/2004. Như vậy quan hệ hôn
nhân của chị Đặng Thị T và anh Triệu Ngọc T là hợp pháp. Chị Đặng Thị T khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung, do vậy Toà án nhân
dân huyện Yên Sơn xác định quan hệ pháp luật là: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con
chung khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Các tài liệu, chứng cứ thể hiện bị
đơn - anh Triệu Ngọc T hiện đang cư trú và sinh sống tại tổ dân phố H, thị trấn Y,
huyện Y, tỉnh T. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa
án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên
Quang.
[3] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ (tống đạt
trực tiếp, gửi tổ trưởng dân phố giao trực tiếp) các văn bản tố tụng cho nguyên đơn
và bị đơn. Tại phiên toà, anh Triệu Ngọc T có mặt, chị Đặng Thị T có đơn xin xét
xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng
xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn là đúng quy định pháp luật.
[4] Về yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị T (tên gọi khác Đặng Thị H),
HĐXX nhận định:
[4.1] Đối với yêu cầu xin ly hôn với anh Triệu Ngọc T: Quá trình chung
sống, vợ chồng anh chị T – T phát sinh mâu thuẫn trong cuộc sống sinh hoạt hàng
ngày do bất đồng quan điểm, thiếu sự tin tưởng và tôn trọng nhau nhưng không có
cách giải quyết, dẫn đến sống ly thân; chị Đặng Thị T có đơn yêu cầu ly hôn với
anh T và đề nghị anh T nuôi dưỡng con chung Triệu Thị Hằng N.
Quá trình Toà án giải quyết vụ án, chị T và anh T đều có bản tự khai về quan
hệ hôn nhân; anh T có mặt tại phiên họp và phiên hoà giải do Toà án tiến hành
nhưng không ký biên bản với lý do anh không nhất trí ly hôn với chị T. Chị T có
đơn đề nghị Toà án không tiếp tục tiến hành hoà giải, chị xác định vợ chồng không
thể chung sống với nhau được nữa, chị giữ nguyên nội dung khởi kiện.
Như vậy, có đủ cơ sở cho thấy hôn nhân của chị Đặng Thị T và Triệu Ngọc
T đã lâm vào tình trạng thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ
chồng không có khả năng đoàn tụ tiếp tục chung sống. Tại phiên toà anh T đồng ý
ly hôn theo yêu cầu của chị T. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật
Hôn nhân và gia đình, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Đặng Thị T
được ly hôn với anh Triệu Ngọc T.
[4.2] Đối với yêu cầu giao nuôi con chung khi ly hôn: Chị Đặng Thị T và
anh Triệu Ngọc T cùng xác định có 02 con chung là Triệu Đức T, sinh ngày
12/12/2000 và Triệu Thị Hằng N, sinh ngày 28/9/2012. Hiện nay cháu T đã trên 18
tuổi, trưởng thành và có gia đình riêng nên anh chị không đề nghị Toà án giải
quyết; cháu N đang do anh T nuôi dưỡng. Chị T yêu cầu anh T tiếp tục nuôi dưỡng

5
và giáo dục con Triệu Thị Hằng N sau ly hôn, chị không cấp dưỡng nuôi con
chung cùng anh T vì hiện nay không có chỗ ở, công việc và thu nhập không ổn
định nên không có khả năng cấp dưỡng. Anh T nhất trí tiếp tục trực tiếp nuôi
dưỡng con Triệu Thị Hằng N, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. HĐXX
xét thấy việc giao cháu Triệu Thị Hằng N, sinh ngày 28/9/2012 cho anh T tiếp tục
là người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp, vì vậy cần chấp nhận ý kiến
của các đương sự về giao nuôi con chung. Về cấp dưỡng nuôi con: Do hiện tại anh
Triệu Ngọc T không yêu cầu nên HĐXX không giải quyết.
[5] Về tài sản chung: Chị Đặng Thị T và anh Triệu Ngọc T xác định vợ
chồng tự thoả thuận nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Về vay nợ chung: Chị Đặng Thị Tvà anh Triệu Ngọc T đều xác định vợ
chồng không có vay nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[7] Về án phí: Chị Đặng Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm; anh Triệu
Ngọc T không phải nộp án phí.
[8] Về quyền kháng cáo: Chị Đặng Thị T và anh Triệu Ngọc T được quyền
kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 238, 264, 266, 271, 273
của Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 và các Điều 81, 82, 83 của Luật
Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị T (tên gọi khác:
Đặng Thị H) về việc xin ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn đối với anh Triệu
Ngọc T.
1. Về quan hệ hôn nhân:
Tuyên xử: Chị Đặng Thị T (tên gọi khác: Đặng Thị H) và anh Triệu Ngọc T
được ly hôn.
(Giấy chứng nhận kết hôn số 48 do UBND xã Thắng Quân, huyện Yên Sơn,
tỉnh Tuyên Quang cấp ngày 08/4/2004).
2. Về con chung:
Giao con chung là Triệu Thị Hằng N, sinh ngày 28/9/2012 cho anh Triệu
Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục sau khi ly hôn. Chị Đặng Thị T không
phải cấp dưỡng nuôi con chung (do hiện tại anh T không yêu cầu) và có quyền,
nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
6
3. Về án phí: Chị Đặng Thị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp trực
tuyến là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Giấy thu tiền tạm ứng án phí, lệ
phí Tòa án số 000002081166 ký bởi Công ty cổ phần thanh toán Quốc gia Việt
Nam ngày 25/10/2024 tương ứng với Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0002189 ngày 25 tháng 10 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên
Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Chị Đặng Thị T đã nộp đủ án phí của vụ án.
Anh Triệu Ngọc T không phải nộp án phí.
4. Về quyền kháng cáo bản án:
Anh Triệu Ngọc T có mặt tại phiên toà, được quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (17/3/2025).
Chị Đặng Thị T vắng mặt tại phiên toà, được quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm
yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Tuyên Quang;
- VKSND huyện Yên Sơn (02 bản);
- CC THA DS huyện Yên Sơn (để thi hành);
- UBND thị trấn Yên Sơn (Nơi ĐKKH);
- Các đương sự (để thi hành);
- Lưu HS vụ án;
- Lưu TA.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đào Thị Thu Thuỷ
7
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đặng Thị Huệ - Hà Thị Vinh Đào Thị Thu Thủy
8
Báo cáo xét xử vụ án HNGĐ
Hồi 14h ngày 10 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên
Quang
Hội đồng xét xử sơ thẩm: Thẩm phán Đào Thị Thu Thuỷ
Các Hội thẩm nhân dân: Lý Thúy Hà và Lý Thị Nhân
- Thư ký: Phạm Kim Tuyến
- Kiểm sát viên Nguyễn Thị Linh
Các đương sự:
9
- Nguyên đơn: Chị Trần Thanh Nga, sinh năm 1989
Địa chỉ: Thôn 1, xã Đạo Viện, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Hoàng Văn Sơn, sinh năm 1988
Địa chỉ: Tổ dân phố 6, phường Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên
Quang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Chị Trần Thanh Nga và anh Hoàng Văn Sơn kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có
đăng ký kết hôn ngày 03/5/2009 tại Ủy ban nhân dân xã Đạo Viện, huyện Yên Sơn, tỉnh
Tuyên Quang. Sau khi kết hôn anh chị sinh sống tại dân phố 6, phường Hưng Thành, thành
phố Tuyên Quang. Theo chị Nga thì vợ chồng chung sống bình thường đến năm 2015 thì phát
sinh mâu thuẫn lớn do cách sống hai bên không hòa hợp, luôn xảy ra xung khắc nhất là về làm
ăn kinh tế, anh Sơn thường xuyên rượu chè và không tôn trọng gia đình chị. Đỉnh điểm là
năm 2018, anh Sơn lao vào cờ bạc không dứt ra được mặc dù hai bên gia đình khuyên
can, hậu quả phải bán nhà đất để trả nợ. Do cuộc sống như vậy nên chị đã phải đưa con
nhỏ về nhà bố mẹ đẻ chị sinh sống, vợ chồng ly thân từ năm 2018 đến nay không còn
liên quan gì đến nhau. Nay chị Trần Thanh Nga xác định tình cảm vợ chồng không còn,
cuộc sống không có tương lai, không thể đoàn tụ chung sống được nữa, đề nghị Tòa án
giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Văn Sơn.
Về con chung: Chị Trần Thanh Nga và anh Hoàng Văn Sơn có 01 con chung
tên là Hoàng Ngọc Trâm, sinh ngày 30/11/2009, hiện đang do chị Nga nuôi dưỡng. Chị
Nga đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung sau ly hôn, không yêu cầu anh
Sơn cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị Trần Thanh Nga xác định chị và anh
Hoàng Văn Sơn hiện không có tài sản chung và không vay nợ chung nên không đề nghị
Toà án giải quyết.
Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã
nhiều lần báo gọi làm việc, tiến hành các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hoà giải giữa chị Trần Thanh Nga và anh Hoàng Văn Sơn nhưng anh
Sơn đều vắng mặt không có lý do.
* Kết quả xác minh với gia đình của anh Hoàng Văn Sơn thể hiện: Anh Hoàng
Văn Sơn và chị Trần Thanh Nga được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn, có tổ
chức cưới theo phong tục địa phương. Anh chị chung sống tại tổ 6, phường Hưng Thành,
thành phố Tuyên Quang thời gian đầu hạnh phúc, sau khoảng 4-5 năm thì mâu thuẫn,
trục trặc do bất đồng trong cuộc sống và làm ăn kinh tế, anh Sơn là lao động tự do công
việc không ổn định. Sau đó chị Nga đi làm công nhân ở Thái Nguyên, vợ chồng xa cách
nên tình cảm không còn. Khoảng năm 2015 chị Nga chuyển về ở nhà ngoại và đến năm
2020 thì chị chuyển khẩu về Đạo Viện, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Anh chị Sơn
– Nga có 01 con chung hiện đang do chị Nga nuôi dưỡng. Anh chị không có tài sản
chung gì có giá trị và không thấy vay nợ của ai. Hiện anh Sơn đang đi làm xa không biết
địa chỉ chính xác, gia đình có thông báo qua điện thoại cho anh Sơn về giải quyết ly hôn
10
theo các văn bản của Tòa án nhưng vì công việc anh không về được, đề nghị Tòa án giải
quyết theo quy định pháp luật.
* Kết quả xác minh với gia đình của chị Trần Thanh Nga thể hiện: Năm 2009, chị
Trần Thanh Nga và anh Hoàng Văn Sơn tự nguyện kết hôn, sau đó sinh sống tại tổ 6 (tổ
9 cũ), phường Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang. Đến năm 2015, anh chị mâu thuẫn
do anh Sơn có hiện tượng nợ nần do cờ bạc, ngoài ra còn hay uống rượu say dẫn đến vợ
chồng thường xuyên xô xát cãi vã. Đầu năm 2018, vợ chồng mâu thuẫn gay gắt nên chị
Nga đã đưa con nhỏ Hoàng Ngọc Trâm về sống với nhà bố mẹ đẻ tại thôn 1, xã Đạo Viện,
huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Từ đó không thấy anh Sơn qua lại thăm nom, nghe nói đi
làm ăn xa nhưng không rõ đi đâu, làm gì. Đề nghị Tòa án giải quyết yêu cầu ly hôn của chị Nga
theo quy định pháp luật.
* Kết quả xác minh với chính quyền cơ sở thể hiện: Anh Hoàng Văn Sơn và chị
Trần Thanh Nga sau khi đăng ký kết hôn và tổ chức cưới thì về sinh sống tại tổ dân phố 6,
phường Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Cách nay 6 -7 năm thì chị
Nga không còn ở tổ 6, phường Hưng Thành nữa còn anh Sơn đi làm xa, nhà thường xuyên
khóa cửa. Anh chị Sơn – Nga hiện sống ly thân, chị Nga đã đưa con nhỏ của anh chị về ở tại
nhà ngoại. Chính quyền tổ 6 có lần có nhận được phong bì của Tòa án gửi cho anh Sơn nhưng
cũng không gặp và chuyển được cho anh Sơn. Anh chị Sơn – Nga không vay nợ các tổ chức
của tổ dân phố, về vay nợ khác thì địa phương không nắm được.
Do anh Hoàng Văn Sơn không có mặt tại các buổi làm việc theo các giấy báo và
thông báo của Toà án vì vậy không tiến hành được phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, công khai chứng cứ và hoà giải giữa chị Trần Thanh Nga và anh Hoàng Văn Sơn.
Đề xuất hướng xét xử vụ án
Áp dụng các Điều 28, 35, 147, 166, khoản 2 Điều 227, 228, 271, 273 của Bộ luật
tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân:
Xử: Cho chị Trần Thanh Nga được ly hôn anh Hoàng Văn Sơn.
2. Về con chung:
Xử: Giao con chung là Hoàng Ngọc Trâm, sinh ngày 30/11/2009 cho chị Trần
Thanh Nga trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục sau khi ly hôn. Anh Hoàng Văn
Sơn không phải cấp dưỡng nuôi con chung (do hiện tại chị Nga không yêu cầu). Anh
Hoàng Văn Sơn có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về án phí:
Chị Trần Thanh Nga phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0000196 ngày 14/01/2022
11
của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang. Chị Trần Thanh Nga đã nộp đủ
án phí của vụ án.
Anh Hoàng Văn Sơn không phải nộp án phí.
Thẩm phán báo cáo
Đào Thị Thu Thuỷ
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 23/2025/HNGĐ-PT ngày 08/08/2025 của TAND TP. Cần Thơ về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm