Bản án số 54/2025/DS-ST ngày 28/04/2025 của TAND TX. Bến Cát, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 54/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 54/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 54/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 54/2025/DS-ST ngày 28/04/2025 của TAND TX. Bến Cát, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Bến Cát (TAND tỉnh Bình Dương) |
Số hiệu: | 54/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tuyên xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ C
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 54/2025/DS-ST
Ngày: 28-4-2025
V/v Tranh chấp quyền sử dụng
đất (mở lối đi qua bất động sản
liền kề) và yêu cầu chấm dứt
hành vi trái pháp luật
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C , TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Kiều Oanh.
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Nguyễn Thị Thắm;
Bà Nguyễn Kim Lý.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thắm - Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố C , tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C , tỉnh Bình Dương
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Trung - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 23 và 28 tháng 4 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân
thành phố C , tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
194/2024/TLST-DS ngày 16 tháng 4 năm 2024 về việc: “Tranh chấp quyền sử
dụng đất (mở lối đi qua bất động sản liền kề) và yêu cầu chấm dứt hành vi trái
pháp luật” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2024/QĐXXST-DS ngày
14 tháng 3 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2025/QĐST-DS ngày
09 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Huỳnh N , sinh năm 1939; địa chỉ thường trú: Tổ 9, khu
phố T, phường T, thành phố C , tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp: Ông Lê T, sinh năm 1977; địa chỉ thường trú: Số
455A, ấp T, xã A, thành phố C , tỉnh Bình Dương; địa chỉ liên hệ: Đoàn luật sư
tỉnh Bình Dương, số 1000, đường T, phường N, thành phố M, tỉnh Bình Dương.
Là người đại diện theo ủy quyền theo Hợp đồng uỷ quyền ngày 30/10/2023. Có
mặt.
- Bị đơn: Ông Phạm H, sinh năm 1981; địa chỉ thường trú: Số 181 Nguyễn
K, khu 9, phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

2
1. Bà Trần M , sinh năm 1981; địa chỉ thường trú: Số 181 Nguyễn K, khu
9, phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Có mặt ngày 23/4/2025, vắng mặt
ngày 28/4/2025.
2. Ông Huỳnh A, sinh năm 1968; địa chỉ thường trú: Khu phố T, phường
T, thành phố C , tỉnh Bình Dương. Có mặt ngày 23/4/2025, vắng mặt ngày
28/4/2025.
3. Ông Lợi T , sinh năm 1975; địa chỉ thường trú: Khu phố T, phường T,
thành phố C , tỉnh Bình Dương. Có Đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
4. Bà Nguyễn S, sinh năm 1963; địa chỉ thường trú: Tổ 3, khu phố 4,
phường L, thị xã T, tỉnh Bình Phước; địa chỉ liên hệ: Khu phố T, phường T,
thành phố C , tỉnh Bình Dương. Có Đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong Đơn khởi kiện ngày 19/10/2023 và lời khai trong quá trình tham
gia tố tụng, nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Lê
Công Trí trình bày:
Hộ bà Huỳnh N là chủ sử dụng thửa đất số 173, diện tích 2245m
2
và thửa
đất số 207, diện tích 2167m
2
, tờ bản đồ số 54, tọa lạc phường T, thành phố C ,
tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N718950, số vào
sổ cấp GCN: 01908 do UBND huyện (nay là thành phố) Bến Cát, tỉnh Bình
Dương cấp ngày 20/12/1999. Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận, hộ gia đình bà
Huỳnh N gồm bà Năm, ông Huỳnh A, ông Lợi T, bà Nguyễn S. Ngoài ra, không
còn thành viên nào khác.
Giáp ranh thửa đất với bà N là thửa đất số 252, tờ bản đồ số 54, diện tích
2121,2m
2
hiện nay do ông Phạm H trực tiếp quản lý, sử dụng có nguồn gốc
trước đây của bà Nguyễn R (đã chết) sử dụng, khi bà R sử dụng, các bên trước
đây có thống nhất sẽ chừa mương dẫn nước chung vào các thửa ruộng chung
quanh, đồng thời chừa lối đi chung với diện tích chiều ngang khoảng 2m x dài
hết đất (tính từ đường chính vào đến đất bà N), lối đi này gia đình bà N được sử
dụng từ năm 1975 cho đến nay.
Sau khi bà R chuyển nhượng phần đất trên qua nhiều người, lối đi chung
gia đình bà N vẫn sử dụng để vào ruộng của mình cho đến khi ông H nhận
chuyển nhượng thì ông H kéo rào kẽm chắn ngang lối đi, không cho gia đình bà
N đi trên lối đi này vào đất của bà N, từ đó phát sinh tranh chấp.
Nhận thấy, đây là lối đi duy nhất để vào đất của bà Huỳnh N, được hình
thành từ năm 1975, gia đình bà N đã sử dụng lối đi này ổn định từ trước đến
nay, nay ông Hải rào chắn, ngăn cản không cho gia đình ông H sử dụng lối đi
này vào đất gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà
Huỳnh N .
Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn bà Huỳnh N yêu cầu Toà án buộc ông
Phạm H tháo dỡ toàn bộ hàng rào với diện tích 93.8m
2
(ngang 1,4m, dài 67m)
đã che chắn lối đi chung và mương dẫn nước chung. Ước tính giá trị tranh chấp
3
50.000.000 đồng. Quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn có đơn sửa đổi, bổ
sung yêu cầu khởi kiện như sau: Yêu cầu Tòa án buộc ông Phạm H mở lối đi
qua cho hộ bà N với diện tích đo đạc thực tế 135.9 m
2
tại thửa đất số 252, tờ bản
đồ số 54 để làm lối đi vào thửa đất 207, 173, tờ bản đồ số 54 của hộ bà N.
Tại phiên tòa, ông T xác định nguyên đơn thay đổi yêu cầu mở lối đi
thành yêu cầu công nhận phần đất có diện tích đo đạc thực tế 135.9 m
2
tại thửa
đất số 252, tờ bản đồ số 54 là lối đi chung và yêu cầu ông Phạm H tháo dỡ toàn
bộ hàng rào trụ xi măng, dây kẽm gai đã che chắn lối đi chung và mương dẫn
nước chung.
Bị đơn ông Phạm H trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 252, tờ bản đồ số 54, toạ lạc phường T, thành phố
C, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DH 194960, số
vào sổ cấp GCN: CS14785 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương
cấp cho ông Phạm H ngày 22/9/2022 là nhận chuyển nhượng. Tại thời điểm
nhận chuyển nhượng, hiện trạng thửa đất trống, chỉ có cỏ dại mọc um tùm, có
đường mương nước rất nhỏ, do cỏ che khuất nên không nhìn thấy. Sau khi nhận
chuyển nhượng, ông H và bà M trực tiếp quản lý, sử dụng đúng phần đất được
cấp giấy chứng nhận. Sau một khoảng thời gian gia đình ông H quản lý, sử dụng
thì đường mương nước được vét, cơ nới nhiều. Ban đầu dự tính nhận chuyển
nhượng khu đất này để làm nhà vườn để cuối tuần gia đình về nghỉ ngơi nhưng
do đất thuộc khu quy hoạch dự án của địa phương nên gia đình không thực hiện
mà để đất trống cho đến nay. Tuy nhiên, vào ngày 21/7/2023, gia đình ông H lên
thăm đất thì thấy phía bà N có đổ cống làm đường kiên cố trên phần đất của ông
H nên ông H có gửi đơn ra Ủy ban nhân dân xã (nay phường) T ngày 22/7/2023
yêu cầu được rào hàng rào lại để bảo vệ phần đất của mình và ngăn cản việc làm
đường của phía bà Năm. Ông H có rào hàng rào nhưng ông H rào trên phần đất
của ông H.
Tuy nhiên, trong thời gian qua phía gia đình bà N đã chủ động chở hết
ống cống đi nơi khác, không còn có ý định mở đường trên đất của ông H nên
ông H đồng ý tháo dỡ hàng rào như hiện trạng trước đây. Ông H có nộp kèm
hình ảnh chụp hiện trạng đất tranh chấp.
Đối với yêu cầu công nhận phần đất có diện tích đo đạc thực tế 135.9 m
2
tại thửa đất số 252, tờ bản đồ số 54 là lối đi chung. Ông H không đồng ý vì khi
nhận chuyển nhượng phía Tây thửa đất số 252 giáp với đất ông P, không có giáp
đường và bị đơn cùng phải trả tiền nhận chuyển nhượng phần đất này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần M trình bày: Bà M là vợ
ông H. Thửa đất số 252, tờ bản đồ số 54 là tài sản chung của vợ chồng bà Mai
và ông H. Bà M thống nhất lời trình bày của bị đơn, không đồng ý với yêu cầu
của nguyên đơn về việc công nhận phần đất có diện tích đo đạc thực tế 135.9 m
2
tại thửa đất số 252, tờ bản đồ số 54 là lối đi chung. Không có bổ sung thêm ý
kiến gì khác.
4
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh A, ông Lợi T và bà
Nguyễn S trình bày: Thống nhất lời trình bày cũng như yêu cầu của nguyên đơn.
Không có bổ sung thêm ý kiến gì khác.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C tham gia phiên
toà:
- Về tố tụng: Việc thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ là đúng theo quy định,
các đương sự và những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tháo dỡ toàn bộ hàng rào
đã che chắn lối đi chung và mương dẫn nước chung. Đối với yêu cầu công nhận
phần đất có diện tích đo đạc thực tế 135.9m
2
tại thửa đất số 252, tờ bản đồ số 54
là lối đi chung của nguyên đơn là không có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận.
Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi
kiện, đơn khởi kiện bổ sung, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Phạm H
tháo dỡ toàn bộ hàng rào và yêu cầu mở lối đi qua bất động sản liền kề (nay thay
đổi thành yêu cầu công nhận phần diện tích đất tranh chấp là lối đi chung). Do
đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất tọa lạc phường T, thành phố C , tỉnh
Bình Dương. Căn cứ Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án xét xử xác định quan hệ tranh chấp của các
bên là “Tranh chấp quyền sử dụng đất (mở lối đi qua bất động sản liền kề) và
yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật” và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Bình Dương.
[1.2] Về phạm vi khởi kiện: Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn xác định nguyên đơn thay đổi yêu cầu mở lối đi thành yêu cầu công
nhận phần đất có diện tích đo đạc thực tế 135.9 m
2
tại thửa đất số 252, tờ bản đồ
số 54 là lối đi chung. Xét yêu cầu thay đổi này phát sinh trên phần đất đã tranh
chấp nên không thuộc trường hợp vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện.
[1.3] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Lợi T và bà Nguyễn S có đơn đề nghị Tòa án giải quyết
vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T và bà S
theo quy định tại khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.4] Về kết quả đo đạc, định giá: Tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ
ngày 30/5/2024, tài sản sản gắn liền trên đất tranh chấp là đất trống. Quá trình
tham gia tố tụng, đương sự thống nhất với kết quả tại Biên bản xem xét thẩm
định tại chỗ, định giá tài sản ngày 30/5/2024 và Mảnh trích lục địa chính có đo
5
đạc chỉnh lý số 03-2024 ngày 02/7/2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất
đai thành phố C và không yêu cầu Tòa án đo đạc hay định giá lại nên Hội đồng
xét xử căn cứ vào kết quả này để giải quyết vụ án.
[1.5] Về chứng cứ: Toà án đã tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đã được Tòa án thông báo đến các
đương sự nhưng không ai có ý kiến khiếu nại hay thắc mắc. Do đó, Hội đồng xét
xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các đương sự giao nộp và tài liệu, chứng
cứ do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Xét yêu cầu buộc bị đơn phải tháo dỡ toàn bộ hàng rào trụ xi măng,
dây kẽm gai đã che chắn lối đi chung và mương dẫn nước chung, xét thấy:
Tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 30/5/2024, thể hiện thửa đất
252 được bao quanh bởi hàng rào trụ xi măng, dây kẽm gai do ông H rào (riêng
hàng rào phía Tây do ông Võ P rào từ trước, phía Nam giáp mương nước nên
ông Hải đã rào hàng rào lại lùi vào trong để chừa làm lối đi). Tại Biên bản xác
minh ngày 25/12/2024, thể hiện ông H xây dựng hàng rào nằm trên thửa đất của
ông Hải. Ngoài ra, tại Công văn số 216/TNMT-TTĐĐ ngày 07/02/2025 cũng
thể hiện: “phần diện tích 135.9m
2
đất tranh chấp thuộc thửa đất số 252, tờ bản
đồ số 54, tọa lạc phường T, thành phố C, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số ĐH 194960, số vào sổ cấp GCN: CS14785 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương cấp cho ông Phạm H ngày 22 tháng 9
năm 2022”. Do đó, có đủ cơ sở xác định bị đơn xây dựng hàng rào nằm trong
diện tích được cấp giấy chứng nhận của bị đơn.
Quá trình tham gia tố tụng cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị đơn đồng ý
mở hàng rào giống như hiện trạng trước đây và nộp kèm hình ảnh hiện trạng
phần đất tranh chấp được chụp vào ngày 22/4/2025. Người đại diện hợp pháp
của nguyên đơn xét thấy bị đơn đã tự tháo dỡ hàng rào, nên yêu cầu này không
cần thiết nên xin rút, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét đây là sự nguyện của
nguyên đơn. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này theo
quy định khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2.2] Xét yêu cầu công nhận phần đất có diện tích đo đạc thực tế 135.9 m
2
tại thửa đất số 252, tờ bản đồ số 54 là lối đi chung, Hội đồng xét xử xét thấy:
Tại Công văn số 222/CNBC-ĐK&CGCN ngày 21/01/2025, đều thể hiện
về trình tự thủ tục thực hiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
N718950, số vào sổ cấp giấy 01908 do Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành
phố) C, tỉnh Bình Dương cấp cho hộ bà Huỳnh N ngày 20/12/1999 và Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số DH 194960, số vào sổ cấp GCN: CS14785 do
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương cấp cho ông Phạm H ngày
22/9/2022 đều phù hợp theo quy định pháp luật.
Theo trình bày nguyên đơn thì nguyên đơn sử dụng thửa đất 173, 207 tờ
bản đồ số 54 từ năm 1975 đến nay, có đường mương nước nối dài từ mương
nước công cộng dọc theo ranh đất ông H vào đất bà N và giáp đường mương
6
nước có 01 lối đi chung diện tích đo đạc thực tế 135.9m
2
. Nay gia đình bà N có
nhu cầu đặt ống dẫn nước để phục vụ canh tác thuận lợi thì chủ đất giáp ranh là
ông H không đồng ý. Tuy nhiên, tại Biên bản giải quyết ngày 26/9/2023, thể
hiện hiện trạng trên phần thửa đất số 252, tờ bản đồ số 54 của ông Phạm H phía
Tây giáp thửa đất 253 của ông Võ P có 01 mương nước có chiều rộng từ 0,5m
đến 1m tùy đoạn, hai bên mương là bờ đất khoảng 0,3m đoạn mương chạy dọc
trên đất của ông H từ mương hiện hữu do nhà nước quản lý vào đất của bà
Huỳnh N. Đây là mương nước do người dân tự thỏa thuận trong quá trình canh
tác trồng lúa, không phải là mương nước do nhà nước quản lý. Nguồn gốc
mương nước trước đây chủ sử dụng đất cũ là bà Nguyễn R (đã chuyển nhượng
qua nhiều người đến nay là ông Phạm H đang là chủ sử dụng đất) có cho bà
Huỳnh N tạo một mương nước để thuận tiện trong việc lấy nước và thoát nước
để canh tác trồng lúa. Tuy nhiên đây chỉ là thỏa thuận miệng giữa các bên không
có lập các giấy tờ mua bán hay tặng cho có liên quan đến phần mương nước này.
Tại hồ sơ gốc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DH 194960, số
vào sổ cấp GCN: CS14785 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương
cấp cho ông Phạm H ngày 22/9/2022 và Mảnh trích lục địa chính có đo đạc
chỉnh lý số 3-2024, ngày 02/7/2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai
thành phố C đều thể hiện thửa đất số 252 giáp với thửa đất 253 (nay thửa 253,
254 hợp thửa thành 849) của ông Võ P, sinh năm 1979; địa chỉ: Phường T, thành
phố C, tỉnh Bình Dương không thể hiện giáp mương nước hay con đường đi.
Quá trình tham gia tố tụng cũng như tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn ông T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông A cũng xác
định giữa bà R (chủ cũ của thửa đất 252) và bà N thỏa thuận miệng tạo một
mương nước để thuận tiện trong việc lấy nước và thoát nước để canh tác trồng
lúa, nhưng các bên không có lập các giấy tờ mua bán hay tặng cho có liên quan
đến phần mương nước này. Lời trình bày của ông T và ông A phù hợp với kết
quả tại Biên bản giải quyết ngày 26/9/2023 của UBND xã (nay là phường) T.
Đây chính là tình tiết không phải chứng minh theo điểm c khoản 1 Điều 92 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Như đã phân tích ở mục [2.1], tại Công văn số 216/TNMT-TTĐĐ ngày
07/02/2025 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố C và Công văn số
31/UBND-ĐC ngày 06/02/2025 của Uỷ ban nhân dân phường T thể hiện: “Tại
Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 3-2024, ngày 02 tháng 7 năm
2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố C, thể hiện phần
diện tích đất tranh chấp là lối đi đo đạc thực tế 135.9m
2
mà nguyên đơn yêu cầu
mở lối đi thuộc thửa đất số 252, tờ bản đồ số 54, tọa lạc phường T, thành phố C,
tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số ĐH 194960, số
vào sổ cấp GCN: CS14785 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương
cấp cho ông Phạm H ngày 22 tháng 9 năm 2022. Lối đi nguyên đơn yêu cầu
nằm trong thửa đất số 252, tờ bản đồ số 54 do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Bình Dương cấp cho ông Phạm H, lối đi này không phải là lối đi chung ra
đường công cộng và hiện tại do ông Phạm H đang quản lý và sử dụng theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp cho ông H nêu trên.”.

7
Do đó, yêu cầu của nguyên đơn về việc công nhận phần đất có diện tích
đo đạc thực tế 135.9 m
2
tại thửa đất số 252, tờ bản đồ số 54 là lối đi chung,
không có cơ sở chấp nhận.
[3] Ngoài ra, tại Công văn số 216/TNMT-TTĐĐ ngày 07/02/2025 thể
hiện: “Theo bản đồ quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 thị xã (nay là thành
phố) C được duyệt tại Quyết định số 08/QĐ-UBND ngày 07 tháng 01 năm 2022
của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương thì các thửa đất số 173, 207, 252 cùng tờ
bản đồ số 54, tọa lạc khu phố T, phường T, thành phố C, tỉnh Bình Dương thuộc
quy hoạch Khu đô thị Đông An Tây”. Việc đất thuộc quy hoạch chưa làm thay
đổi quyền sử dụng hợp pháp của các chủ sử dụng đất cho đến khi có quyết định
thu hồi và việc mở lối đi trong thời gian quy hoạch vẫn cần được giải quyết để
đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người dân.
Công văn số 31/UBND-ĐC ngày 06/02/2025 thể hiện: “Trên bản đồ địa
chính chính quy, tại thửa đất số 207, 173 tờ bản đồ số 54 chỉ thể hiện giáp thửa
đất liền kề không có lối đi hay đường giáp với thửa đất số 207, 173. Hiện tại vị
trí thửa đất số 207, 173 là khu vực người dân sử dụng canh tác nông nghiệp
(trồng lúa) từ trước đến nay nên trong quá trình canh tác để thuận lợi cho việc
đi lại canh tác, thu hoạch cây trồng thì người dân tự thỏa thuận làm các bộ đất
để cùng nhau sử dụng. Căn cứ Bản đồ địa chính tại Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai thành phố C đang quản lý, sử dụng, thửa đất 207, 173, tờ bản đồ số
54 không thể hiện lối đi hoặc đường giao thông trên bản đồ địa chính. Chính vì
vậy ngoài lối đi mà nguyên đơn yêu cầu mở thì nguyên đơn có thể thỏa thuận
bất cứ chủ sử dụng đất liền kề nào để thỏa thuận việc đi lại thuận lợi nhất kết
nối vào đất”. Vì vậy, theo quy định Điều 254 Bộ luật Dân sự thì: “Chủ sở hữu
có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà
không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở
hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của
họ...Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở
hữu bất động sản chịu hưởng quyền...”. Do đó, khi nguyên đơn có yêu cầu giải
quyết lại về việc mở lối đi qua sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.
[4] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C tham gia
phiên toà là có căn cứ và phù hợp các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên
Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận
nên nguyên đơn phải chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá
tài sản là 4.933.906 đồng và đã thực hiện xong theo quy định tại Điều 157 và
165 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn được miễn nộp theo quy định
do thuộc trường hợp người cao tuổi.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
8
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 92, 147, 157, 165, 227, 228, 244, 235, 266,
271, 273, 483 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 159, 160, 163, 164 và 169 Bộ luật Dân sự 2015;
Căn cứ Điều 12 và 26 Luật Đất đai năm 2024;
Căn cứ Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009; Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tháo dỡ toàn bộ hàng rào trụ xi măng,
dây kẽm gai đã che chắn lối đi chung và mương dẫn nước chung (từ điểm 1’ đến
5 và từ điểm 2’ đến 4).
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh N đối
với bị đơn ông Phạm H về việc công nhận phần đất có diện tích 135.9m
2
(ký
hiệu A) thuộc thửa đất số 252, tờ bản đồ số 54, tọa lạc phường T, thành phố C ,
tỉnh Bình Dương là lối đi chung.
(Có sơ đồ bản vẽ kèm theo)
3. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn phải chịu số tiền 4.933.906 đồng (bốn
triệu chín trăm ba mươi ba nghìn chín trăm lẻ sáu đồng) và đã thực hiện xong.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn bà Huỳnh N được miễn nộp.
5. Về quyền kháng cáo:
Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15
(mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15
(mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công
khai.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Dương;
- VKSND thành phố C;
- Chi cục THADS thành phố C;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Kiều Oanh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 05/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm