Bản án số 533/2024/HC-PT ngày 24/09/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 533/2024/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 533/2024/HC-PT ngày 24/09/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Hà Nội
Số hiệu: 533/2024/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/09/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: “Khiếu kiện quyết định hành chính về lĩnh vực quản lý đất đai” giữa Người khởi kiện
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 533/2024/HC-PT
Ngày: 24/9/2024
Về việc “Khiếu kiện quyết định hành
chính về lĩnh vực quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Vũ Thị Thu Hà;
Ông Phạm Đình Khánh;
Bà Hoàng Thị Bích Hải.
Thư phiên tòa: Hoàng Hải An - Thư Toà án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Nội tham gia phiên
tòa: Bà Trần Thị Thanh Thủy, Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 24 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Nội
mở phiên tòa công khai xét xử vụ án hành chính phúc thẩm thụ số
284/2024/TLPT-HC ngày 11 tháng 7 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định
hành chính vlĩnh vực quản lý đất đai”, do kháng cáo của người bị kiện đối
với Bản án hành chính thẩm số 85/2023/HC-ST ngày 23 tháng 10 năm 2023
của Tòa án nhân dân tỉnh T.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10567/2024/QĐ-PT ngày 10
tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
* Người khởi kiện: Ông Nguyễn Công T sinh năm 1978; Địa chỉ: ngõ I
M, phường Đ, thành phố T, tỉnh T (Có mặt).
* Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T và UBND thành
phố T;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn H - Phó Chủ tịch UBND
thành phố T (Vắng mặt và có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện: Ông Nguyễn
Xuân K - Chuyên viên phòng Tài nguyên Môi trường UBND thành phố T
(Vắng mặt và có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố T.
2
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Anh T1 - Chủ tịch UBND
phường Đ (Vắng mặt và có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt).
2. Ông Nguyễn Công T2 sinh năm 1967 bà Nguyễn Thị H1 sinh năm
1974; Cùng địa chỉ: Đ, Ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh B (Đều vắng mặt).
3. Thị Phương T3 (vợ ông Nguyễn Công T); Địa chỉ: nI M,
phường Đ, thành phố T, tỉnh T (Có mt).
* Người kháng cáo: Người bị kiện UBND thành phố T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, người
khởi kiện ông Nguyễn Công T trình bày:
Gia đình ông đang sử dụng thửa đất số 03, tờ bản đồ số 61, diện tích
4.138,4m
2
(theo bản đồ địa chính đo vẽ năm 2011), địa chỉ thửa đất: Ngõ I M,
phường Đ, thành phố T, tỉnh T. Thửa đất có nguồn gốc trước đây là nhà máy cưa
quản lý, sau đó bỏ hoang. Khoảng năm 1990-1991, ông Phạm Hữu M ra khai
hoang, sau đó khoảng năm 1992 bán lại cho anh Nguyễn Công T2, đến năm
1996 anh T2 xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống trên đất và sinh
sống ổn định. Năm 2008, anh T2 chuyển nhượng lại cho ông (bằng giấy viết
tay). Từ đó đến nay gia đình ông trực tiếp quản lý và sinh sống ổn định trên thửa
đất này, không tranh chấp với ai.
Ngày 10/10/2011, gia đình ông làm hồ gửi UBND phường Đ, thành
phố T đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên.
Ngày 02/10/2020, ông nhận được Thông báo s546/UBND-ĐCXD của UBND
phường Đ về việc Từ chối cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa
đất nêu trên”. Không đồng ý với Thông báo của UBND phường Đ, ông đã
Đơn khiếu nại trực tiếp gửi đến UBND thành phố T.
Ngày 20/7/2021, Chủ tịch UBND thành phố T ban hành Quyết định giải
quyết khiếu nại số 6160/QĐ-UBND Về việc không chấp nhận nội dung khiếu
nại đnghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với ông”, do: Vị trí
khu đất gia đình ông đang sử dụng nằm trong ranh giới quy hoạch Khu di tích
thắng cảnh M thời điểm ông xây dựng ntừ m 2008 là không đúng,
không sở, xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi ích hợp pháp của gia đình
ông, bởi các lý do:
- Thứ nhất: Theo quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013, khoản 2
Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai thì: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử
dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác trong thời gian từ ngày 15/10/1993
đến trước ngày 01/7/2004; nay được UBND cấp xác nhận không tranh
chấp sử dụng đất, phù hợp với quy hoạch hoặc không phù hợp với quy hoạch
nhưng đất đã sử dụng ttrước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất
tại nơi chưa quy hoạch; chưa thông báo hoặc quyết định thu hồi đất của
3
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp phải thu hồi thì được công
nhận quyền sử dụng đất”.
Như vậy, thời điểm ông làm đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền s
dụng đất năm 2011 nhưng mãi đến năm 2017 mới quyết định phê duyệt
quy hoạch của UBND tỉnh T. Do đó, việc sử dụng đất của ông phù hợp với
quy định tại khoản 2 Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ.
- Thứ hai: Theo Báo cáo số 1081/UBND-ĐCXD ngày 18/10/2021 của
UBND phường Đ gửi Thanh tra Sở T4 đã xác nhận: tính đến thời điểm hiện tại
UBND phường Đ chưa nhận được thông báo thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn
Công T, hiện sử dụng ổn định, không tranh chấp.
Ngoài ra, tính đến thời điểm hiện tại thửa đất diện tích đất nói trên của
ông chưa có cắm mốc giới quy hoạch.
Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên căn cứ vào Báo cáo s
1081/UBND-ĐCXD ngày 18/10/2021 của UBND phường Đ, ông khẳng định
gia đình ông đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất theo
quy định tại các Điều 101 Luật Đất đai năm 2013, Điều 20 Nghị định
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.
- Thứ ba: UBND thành phố T cho rằng ông sử dụng đất nông nghiệp để
xây dựng nhà thời điểm năm 2008 hành vi tự ý chuyển mục đích s dụng
đất chưa được quan Nhà nước cho phép, trong khi đất ông mua lại của
ông T2 năm 2008 đã có nhà ở ổn định.
Theo Thông báo số 1081/UBND-ĐCXD của UBND phường Đ thì đất của
gia đình ông thuộc thửa đất số 111, tờ bản đồ số 02, bản đồ phường Đ đo vẽ năm
1984 là đất thổ cư (T) chứ không phải đất nông nghiệp.
vậy, Quyết định giải quyết khiếu nại số 6160/QĐ-UBND ngày
20/7/2021 của Chủ tịch UBND thành phố T từ chối, không giải quyết việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với gia đình ông là không có cơ sở, xâm
phạm trực tiếp đến quyền lợi ích hợp pháp đối với gia đình ông. vậy, để
đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của gia đình mình, ông làm đơn khởi kiện,
yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau đây:
1. Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 6160/QĐ-UBND ngày
20/7/2021 của Chủ tịch UBND thành phố T về việc “Giải quyết khiếu nại của
ông Nguyễn Công T, ngõ I M, phường Đ, thành phố T”.
2. Buộc UBND phường Đ UBND thành phố T cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số
03, tờ bản đồ số 61, diện tích 4.138,4m
2
(theo bản đồ địa chính đo vẽ năm 2011),
địa chỉ thửa đất: Ngõ I M, phường Đ, thành phố T cho gia đình ông theo đúng
quy định của pháp luật.
4
* Người đại diện theo ủy quyền người bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của người bị kiện - Chủ tịch UBND và UBND thành phố T trình bày:
Qua kiểm tra hồ lưu trữ tại UBND thành phố T, thửa đất của ông
Nguyễn Công T đang sử dụng được thể hiện qua các thời kỳ như sau:
- Bản đồ phường Đ lập năm 1985 theo Chỉ thị 299/TTg của Thủ tướng
Chính phủ, khu đất thuộc thửa đất số 111, tờ bản đồ số 02, diện tích nguyên thửa
43.572m
2
, loại đất (T), sổ mục kê ghi tên Nhà máy cưa.
- Bản đồ phường Đ lập năm 1994 theo Chỉ thị 364/TTg của Thủ tướng
Chính phủ, khu đất thuộc tờ bản đồ số 03, không thể hiện số thửa đất.
- Bản đồ địa chính đo vẽ năm 2011, khu đất thuộc thửa đất số 03, tbản
đồ s61, diện tích 4.138,4m
2
, loại đất (ONT), sổ mục ghi tên ông Nguyễn
Công T.
- Về nguồn gốc đất: Khu đất của ông Nguyễn ng T đang sử dụng
nguồn gốc trước đây Nhà máy cưa quản sau đó bỏ hoang, khoảng năm
1990-1991 ông Phạm Hữu M trú tại thôn M, phường Đ ra khai hoang để làm
nông nghiệp, sau đó vào khoảng năm 1992-1993 bán lại cho ông Nguyễn Công
T2, đến năm 2008 ông T2 chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Công T, ông T
xây dựng nhà công trình phụ. Việc sử dụng đất không giấy tờ vquyền
sử dụng đất theo quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 Điều 18 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Đất đai.
- Về quy hoạch: Vị trí khu đất của ông Nguyễn Công T đang khiếu nại
nằm trong quy hoạch chi tiết xây dựng tỉ lệ 1/500 Khu vực di tích thắng cảnh M,
thành phố T, đã được Ch tịch UBND tỉnh T phê duyệt tại Quyết định số
3791/QÐ-UBND ngày 05/10/2017 dự án đã được phê duyệt kế hoạch sử
dụng đất năm 2020 tại Quyết định số 982/QĐ-UBND ngày 20/3/2020, được
chuyển tiếp sang năm 2021.
Quyết định số 881/QĐ-UBND ngày 12/3/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh T
về việc phê duyệt cục bộ quy hoạch Khu nhà hội tại phường Q thuộc quy
hoạch chi tiết tỉ lệ 1/500 Khu vực di tích thắng cảnh M, thành phố T thì vị trí
khu đất của hộ ông Nguyễn Công T đang khiếu nại nằm trong ranh giới quy
hoạch thực hiện dự án.
Căn cứ quy định tại điểm a khoản 3 Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-
CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ vviệc huớng dẫn thi hành một sđiều của
Luật Đất đai thì khu đất gia đình ông Nguyễn ng T đang sử dụng không đủ
điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hộ ông T được sử dụng
tạm thời cho đến khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng phải giữ nguyên hiện trạng
đang sử dụng đất. Việc ông Nguyễn Công T sử dụng đất nông nghiêp để xây
dựng nhà thời điểm năm 2008 hành vi vi phạm do tự ý chuyển mục đích s
dụng đất thuộc trường hợp phải xin phép theo quy định của pháp Luật Đất đai
5
chưa được quan Nhà nước thẩm quyền cho phép theo quy định tại
khoản 3 Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ
về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đất đai.
Từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên, quan điểm của UBND thành phố T
giữ nguyên Quyết định giải quyết khiếu nại số 6160/QĐ-UBND ngày 20/7/2021
của Chủ tịch UBND thành phố T về việc “Giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn
Công T, ngõ I M, phường Đ, thành phố T”.
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
- UBND phường Đ trình bày:
Thực hiện nội dung buổi làm việc ngày 25/8/2021 của Đoàn thanh tra Sở
T4, thanh tra thành phố T Ủy ban nhân dân phường Đ, UBND phường Đ đã
phối hợp với tổ dân phố M1 hoàn thiện việc xác định nguồn gốc và thời điểm sử
dụng đất của ông Nguyễn Công T, địa chỉ thửa đất tại ngõ I M, phường Đ, thành
phố T làm cơ sở để Đoàn thanh tra giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Công T.
UBND phường Đ giữ nguyên quan điểm giải quyết nội dung yêu cầu khởi
kiện của ông Nguyễn Công T theo nội dung Quyết định giải quyết khiếu nại số
6160/QĐ-UBND ngày 20/7/2021 của Chủ tịch UBND thành phố T về việc “Giải
quyết khiếu nại của ông Nguyễn Công T, ngõ I, M, phường Đ, thành phố T”.
- Thị Phương T3 (vợ ông Nguyễn Công T) trình bày: Bà hoàn toàn
thống nhất với trình bày và đề nghị của ông Nguyễn Công T.
* Ông Nguyễn Công T2 và bà Nguyễn Thị H1 trình bày:
Truớc đây, vào năm 1991 gia đình ông mua khu đất của ông Phạm
Hữu M, địa chỉ: sau khu tập thể V, phường Đ, thành phố T để ở. Khi mua trên
đất gồm 02 gian nhà cấp 4, một khu bếp, chuồng nuôi dê, chuồng lợn, ao thả
cá và một ít loại cây trồng, diện tích khoảng hơn 4.000m
2
.
Sau khi mua của ông M, gia đình ông m thêm chuồng gà, chuồng vịt
bờ ao. Đến năm 1996, ông sửa chữa, nâng cấp lại nhà ở, cơi nới
thêm 01 gian mái che phía trước, làm sân bằng gạch tro lò. Khi làm và sử
dụng không bị chính quyền địa phương UBND phường Đ yêu cầu dừng lại,
không bị xác định xây dựng trái phép. Đến năm 2008, gia đình ông đi làm
ăn sinh sống tỉnh B. Ngày 06/01/2008, gia đình ông đã viết giấy chuyển
nhượng lại khu đất cho ông Nguyễn Công T sinh sống đến nay. Khi bán
cho ông T, trên đất một nhà cấp 04 ba gian, khu bếp, vệ sinh, khu chăn nuôi
có chuồng dê, chuồng lợn, chuồng gà, chuồng vịt, ao thả cá và các loại cây trồng
trên đất với tổng diện tích hơn 4.000m
2
. Hiện nay gia đình ông T đề nghị được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng chưa được cấp.
Gia đình ông bà có ý kiến như sau:
6
- Việc gia đình ông T đề nghị đuợc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất là có cơ sở.
- Đất từ thời ông Phạm Hữu M đã nhà ổn định từ trước năm 1991.
Khi bán lại cho gia đình ông cũng không tranh chấp với ai, không bị xác định
xây dựng trái phép. Đến nay đã được UBND phuờng Đ xác nhận không
tranh chấp với ai và đang ở ổn định.
Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh T căn cứ vào hồ sơ, chúng cứ giải quyết
được cấp giấy chứng nhận quvền sử dụng đất tại khu đất Ngõ I, M, phường Đ,
thành phố T cho gia đình ông T, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho gia đình
ông T.
Do điều kiện ở xa và sức khỏe không được tốt, ông bà đề nghị Tòa án giải
quyết vắng mặt.
Những người làm chứng trình bày:
- Nguyễn Thị P trình bày: vợ ông Phạm Hữu M, ông M đã chết
năm 2010 do bị bệnh hiểm nghèo.
Khoảng năm 1990-1991 do gia đình đông con, ăn chật chội nên ông
M chồng đã ra mảnh đất bỏ hoang xây 02 gian nhà cấp 04 để sinh hoạt
chăn nuôi. Khoảng năm 1994-1995 ông T2 đi bộ đội về đã mua lại của gia đình
để lấy chỗ ở. Gia đình đã để lại cho ông T2 chuyển về với bố mẹ
chồng.
Sau khi mua của gia đình bà, gia đình ông T2 sau này bán lại cho ai
thì bà không nắm rõ.
Vì lý do công việc, bà đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt bà.
- Ông Bùi Văn K1 trình bày: Gia đình ông hiện khu mộ của người em
họ tên Bùi Thị Mộng H2, sinh năm 1945, năm 1948 bị giặc bắn chết. Do gia
đình Mộng H2 đến nay bố mẹ đã chết, con cháu sinh sống xa nên gia đình
ông là người chăm nom hương khói.
Trước đây, khi chưa ai đến thì gia đình ông đi lại thăm nom khu mộ
trên đất bỏ hoang. Năm 1987 ông đi bộ đội, khi về thì thấy trên đất bỏ hoang
trước đây đã nhà (nhà cấp 04) và gia đình ông vẫn đi lại thăm nom khu mộ
bình thường. Khoảng 10 năm trở lại đây, khi gia đình ông T rào cổng lại (làm
cổng) thì mỗi lần gia đình ông đi thăm mộ phải đi nhờ qua nhà ông T.
Ông khẳng định địa phận khu mđất không thuộc về ai, là đất của Nhà
nước. Nếu Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông T
thì đề nghị trừ phần đất có khu mộ của gia đình nhà ông ra.
Vì lý do công việc, ông đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt ông.
7
- Ông Nguyễn Thế D trình bày: Do ông làm nghthợ xây nên vào năm
1996 ông Nguyễn Công T2 nhờ ông đến sửa chữa nhà do xuống cấp, xây
dựng công trình phụ, kè ao làm đường để tiện cho việc sinh hoạt.
Trước khi sửa chữa lại thì trên đất đã 02 gian nhà cấp 04, công trình
phụ tạm thời, chuồng trại cũ. Gia đình ông T2 đã sinh sống trên diện tích đất này
trước khi nhờ ông sửa chữa lại.
Ông chỉ được ông T2 nhờ sửa chữa, cải tạo, xây dựng thêm đtiện sinh
hoạt và sinh sống, sau đó gia đình ông T2 bán lại cho ai thì ông không nắm rõ.
Vì lý do công việc, ông đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt ông.
* Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ: Theo sự chỉ dẫn của gia đình ông T,
khu đất gia đình ông đang sdụng tổng diện tích 4.848,1m
2
(chưa trừ diện
tích khu mộ và hành lang núi), trong đó:
- Diện tích khu mộ 10,8m
2
.
- Diện tích ao 1.526,9m
2
.
- Diện tích khu nhà ở 324,9m
2
.
- Diện tích chuồng trại 251,3m
2
(144,8m
2
lợp tôn kèo sắt gạch tông,
106,5m
2
lợp prôximăng, tường gạch bê tông).
- Bờ đá bao ao: dài 153,6m (dưới kè chân móng đá, trên xây gạch
tông).
- Lưới sắt B40 đổ trụ bê tông, mái lợp prôximăng, diện tích 37,3m
2
.
- Tường xây gạch tông cao 90cm, dài 20,1m bên trên lưới sắt B40
cao 1m.
- Nhà cấp 04 xây tường gạch 20cm, mái tôn, khu bếp mái tôn.
Ý kiến ông Nguyễn Công T: Khi ông Nguyễn Công T2 mua của ông
Phạm Hữu M đã có 02 gian nhà cấp 04 lợp ngói và công trình vệ sinh kèm theo.
Năm 1996 ông T2 làm thêm phòng khách, khu bếp và chuồng trại. Năm 2008
gia đình ông mua lại của gia đình ông T2 đến nay. Quá trình sinh sống, gia
đình ông vẫn giữ nguyên hiện trạng chỉ sửa chữa cải tạo do công trình đã
xuống cấp, bị hỏng và láng lại sân xi măng.
Tại Bản án hành chính thẩm số 85/2024/HC-ST ngày 23 tháng 10
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh T đã quyết định:
Căn cứ khoản 3, khoản 4 Điều 32, khoản 1 Điều 115, điểm a khoản 2,
điểm a khoản 3 Điều 116, khoản 1 Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều
204, khoản 1 Điều 206 Luật Tố tụng hành chính; Khoản 5, 6 Điều 103 Luật Đất
đai năm 2013; Khoản 1 Điều 18, khoản 2 Điều 21, Điều 27, Điều 28, Điều 36 và
Điều 37 Luật Khiếu nại năm 2011; Khoản 2, 3, 4 Điều 20, khoản 1 Điều 21
Nghđịnh 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi
8
hành một số điều của Luật Đất đai; Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-
CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ; Khoản 1 Điều 7 Nghị định số 45/2014/NĐ-
CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ; Khoản 2 Điều 32 Nghị quyết 326/2016/NQ-
UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Công T.
Hủy một phần Quyết định giải quyết khiếu nại số 6160/QĐ-UBND ngày
20/7/2021 của Chủ tịch UBND thành phố T về việc “Giải quyết khiếu nại của
ông Nguyễn Công T, địa chỉ: ngõ I, M, phường Đ, thành phố T” về nội dung “…
ông Nguyễn Công T sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng nhà ở thi điểm năm
2008 hành vi vi phạm do tự ý chuyển mục đích sử dụng đất thuộc trường hợp
phải xin phép theo quy định của pháp Luật Đất đai chưa được quan
thẩm quyền cho phép theo quy định tại khoản 3 Điều 22 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP này 15/5/2014 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Đất đai”.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm n quyết định về án phí thông báo
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xthẩm, ngày 06/11/2024 người bị kiện UBND thành phố
T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Người khởi kiện ông Nguyễn Công T giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Hội đồng xét xxem xét việc Tòa án cấp
thẩm chưa giải quyết yêu cầu khởi kiện buộc UBND phường Đ UBND
thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài
sản gắn liền với đất tại thửa đất số 03, tờ bản đồ số 61, diện tích 4.138,4m
2
(theo
bản đồ địa chính đo vẽ năm 2011), địa chỉ thửa đất: Ngõ I, M, phường Đ, thành
phố T cho gia đình ông.
Người bị kiện giữ nguyên nội dung kháng cáo đơn đề nghị xét xử
vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Nội sau khi phân tích tài
liệu trong hồ ý kiến thể hiện: Về nguồn gốc đất, người khởi kiện
người bị kiện đều thừa nhận trước đây do nhà máy cưa quản lý sau đó bỏ hoang.
Ông M, ông T2, ông T không đăng sử dụng đất, không được giao đất, ông T
không đăng hộ khẩu tại địa chỉ thửa đất này. Như vậy, nguồn gốc đất của
tổ chức, không phải đất ở, ông M, ông T2, ông T tự ý chuyển mục đích sử dụng
xây dựng công trình để ở, diện tích đất nằm trong quy hoạch dự án khu di tích
nên không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tòa án cấp
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện hủy một phần Quyết định 6160 không
đúng. Đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 241 Luật Tố tụng
hành chính, chấp nhận kháng cáo của UBND thành phố T, sửa bản án thẩm
theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Công T.
9
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án, lời trình bày của các bên
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận và nghị án;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào kết quả tranh tụng, các tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án
được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
tại Hà Nội, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Ngày 27/01/2022, ông Nguyễn Công T khởi kiện yêu cầu Tòa án
hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 6160/QĐ-UBND ngày 20/7/2021 của
Chủ tịch UBND thành phố T; Buộc UBND phường Đ và UBND thành phố T
cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền
với đất đối với thửa đất số 03, tờ bản đồ số 61, diện tích 4.138,4m
2
(theo bản đồ
địa chính đo vẽ năm 2011), địa chỉ thửa đất: Ngõ I M, phường Đ, thành phố T
cho gia đình ông. Đây quyết định hành chính của quan thẩm quyền
trong lĩnh vực quản đất đai. Tòa án nhân dân tỉnh T thụ giải quyết vụ án
đúng thẩm quyền trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại khoản 3, khoản
4 Điều 32; khoản 1 Điều 115; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 116 Luật Tố
tụng hành chính.
[1.2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện có kháng cáo có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt một số người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu
tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không sự kiện bất khả kháng hoặc
trở ngại khách quan. Căn cứ Điều 225 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử
quyết định xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2]. Bản án thẩm xác định về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện,
về quyết định hành chính liên quan, về tư cách những người tham gia tố tụng
trong vụ án đúng quy định pháp luật. Việc chứng minh, thu thập chứng cứ đã
được thực hiện đầy đủ đúng theo quy định tại chương VI Luật Tố tụng hành
chính. Đơn kháng cáo của người bị kiện trong hạn luật định nên được chấp nhận
xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[3]. Về nội dung:
[3.1]. Quyết định giải quyết khiếu nại số 6160/QĐ-UBND ngày 20/7/2021
của Chủ tịch UBND thành phố T được ban hành đúng trình tự, thủ tục thẩm
quyền.
[3.2]. Về nguồn gốc đất: Ông Nguyễn Công T trình bày, nguồn gốc thửa
đất gia đình ông đang sử dụng tại thửa đất số 03, tờ bản đồ số 61, diện tích
4.138,4m
2
(theo bản đồ địa chính đo vẽ năm 2011), địa chỉ thửa đất: Ngõ I M,
phường Đ, thành phố T, tỉnh T trước đây do Nhà máy cưa quản lý, sau đó bỏ
hoang. Khoảng năm 1990-1991, ông Phạm Hữu M ra khai hoang, sau đó khoảng
năm 1992 bán lại cho ông Nguyễn Công T2, năm 1996 ông T2 xây dựng nhà
các công trình phục vụ đời sống trên đất sinh sống ổn định đến năm 2008
10
ông T2 chuyển nhượng lại cho ông (bằng giấy viết tay). Từ đó đến nay gia đình
ông trực tiếp quản và sinh sống ổn định trên thửa đất này, không tranh chấp
với ai.
Ngày 10/10/2011, ông T làm hồ sơ gửi UBND phường Đ, thành phố T đề
nghị cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất. Ngày 02/10/2020, ông nhận được
Thông báo số 546/UBND-ĐCXD UBND phường Đ về việc Từ chối cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất nêu trên”. Không đồng ý với Thông
báo của UBND phường Đ, ông đã Đơn khiếu nại trực tiếp gửi đến UBND
thành phố T.
Ngày 20/7/2021, Chủ tịch UBND thành phố T ban hành Quyết định giải
quyết khiếu nại số 6160/QĐ-UBND Không chấp nhận nội dung khiếu nại đề
nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với ông”. Không đồng ý với
Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND thành phố T, ông T khởi
kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 6160/QĐ-UBND
ngày 20/7/2021 của Chủ tịch UBND thành phố T buộc UBND phường Đ,
UBND thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 03, tờ bản đồ số 61, diện tích 4.138,4m
2
(theo bản đồ địa chính đo vnăm 2011), địa chỉ thửa đất: Ngõ I M, phường Đ,
thành phố T cho gia đình ông.
Bản án sơ thẩm đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông
Nguyễn Công T, hủy một phần quyết định giải quyết khiếu nại số 6160/QĐ-
UBND ngày 20/7/2021 của Chủ tịch UBND thành phố T. Sau khi xét xử sơ
thẩm người bị kiện UBND thành phố T kháng cáo cho rằng việc Tòa án
cấp thẩm tuyên ông Nguyễn Công T khiếu nại đề nghị cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất có cơ sở là chưa phù hợp với quy định của pháp luật.
[4]. Xét kháng cáo của người bị kiện, Hội đồng xét xử thấy:
[4.1]. Đối với yêu cầu khởi kiện Quyết định giải quyết khiếu nại số
6160/QĐ-UBND ngày 20/7/2021 của Chủ tịch UBND thành phố T: Căn cứ nội
dung phiếu lấy ý kiến khu dân cư về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất của hộ
ông Nguyễn Công T, địa chỉ thửa đất tại Ngõ I, M, phường Đ, thành phố T do
Tổ dân phố M1 tổ chức ngày 21/9/2021, ngày 01/10/2021 hồ quản đất
đai tại địa phương thì nguồn gốc thời điểm sử dụng đất của hộ ông Nguyễn
Công T được xác định như sau:
- Về hồ sơ quản lý đất đai qua các thời kỳ:
+ Hồ sơ 299/TTg đo vẽ năm 1984, thuộc một phần thửa đất số 111, tờ bản
đồ số 02, diện tích nguyên thửa 43.572m
2
, loại đất T, sổ mục kê ghi tên sử dụng
là Nhà máy cưa.
+ Hồ địa chính phường Đ năm 1994, thuộc tờ bản đồ số 03, không
số thửa.
11
+ Hồ sơ địa chính phường Đ năm 2011, thuộc thửa đất số 03, tờ bản đồ số
61, diện tích 4.138,4m
2
, loại đất ODT; sổ mục kê ghi tên ông Nguyễn Công T.
- Về nguồn gốc sử dụng đất: Thửa đất ông Nguyễn Công T đang sdụng
nguồn gốc trước đây Nhà máy cưa quản sau đó bỏ hoang, khoảng năm
1990-1991 ông Phạm Hữu M, trú tại thôn M, phường Đ, T khai hoang thả cá,
nuôi gia cầm, năm 1993 bán lại cho ông Nguyễn Công T2, sau đó ông T2 vào
miền N sinh sống mới chuyển lại cho ông Nguyễn Công T một phần vào năm
2008.
- Thời điểm y dựng công trình trên đất: Căn cứ nội dung phiếu lấy ý
kiến khu dân về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất đối với thửa đất mà ông
Nguyễn Công T đang đơn khiếu nại: nguồn gốc ngôi nhà ông Nguyễn Công
T đang do ông Nguyễn Công T2 đầu xây dựng năm 1996, đến năm 2008
bán lại cho ông Nguyễn Công T.
Quá trình giải quyết vụ án, Nguyễn Thị P (vợ ông Phạm Hữu M) trình
bày khu đất ông T đang khiếu nại do chồng khai hoang từ năm 1990-1991
làm nhà và thả cá, nuôi gia cầm, khoảng năm 1994-1995 đã bán lại cho ông
Nguyễn Công T2. Ông Nguyễn Thế D cho biết năm 1996 ông Nguyễn Công T2
đã nhờ ông đến sửa chữa nhà do xuống cấp, xây dựng công trình phụ, ao làm
đường để tiện cho việc sinh hoạt. Trước khi sửa chữa lại thì trên đất đã 02
gian nhà cấp 04, công trình phụ tạm thời, chuồng trại cũ.
Như vậy, khu đất của ông Nguyễn Công T đang sdụng nguồn gốc
của ông Phạm Hữu M sử dụng để thả cá, nuôi gia cầm giai đoạn 1990-1991, sau
đó ông M bán lại cho ông Nguyễn Công T2 vào khoảng năm 1992-1993, xây
dựng nhà vào mục đích đất khoảng năm 1996, sau đó ông T2 nhượng lại cho
ông Nguyễn Công T một phần vào năm 2008. Khu nhà đất hộ ông T đang s
dụng có nhà ở, công trình phụ trợ trên đất, được xây dựng sử dụng vào mục đích
đất tnăm 1996, sử dụng n định, không tranh chấp; hiện tại không phù
hợp với quy hoạch nhưng đất đã sử dụng trước thời điểm phê duyệt quy hoạch
(thời điểm sdụng vào mục đích đất từ năm 1996, đến năm 2017 mới phê
duyệt quy hoạch), đến nay chưa có thông báo thu hồi đất để thực hiện quy hoạch
Khu di tích danh thắng M.
Quá trình sử dụng đất, các hộ ông Phạm Hữu M, ông Nguyễn Công T2,
ông Nguyễn Công T đều không bị quan thẩm quyền nào ngăn chặn, xử
vi phạm về việc sử dụng đất. Việc sử dụng đất của hộ ông T sau khi nhận
chuyển nhượng của ông T2 đã thể hiện trong hồ địa chính phường Đ đo vẽ
năm 2011, hộ ông T đã có tên trong hồ sơ địa chính và thể hiện loại đất là ODT.
Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, UBND phường Đ UBND thành phố T
không xuất trình được chứng cứ chứng minh việc ngăn chặn, xử vi phạm đối
với các hộ sử dụng đất nêu trên do vi phạm về việc sdụng đất. Theo hồ
địa chính và trình bày của UBND phường Đ, UBND thành phố T thì khu đất gia
đình ông T đang sử dụng trước đây thuộc Nhà máy cưa quản lý, đã được xác
12
định là đất “T”, sau đó nhà máy cưa bỏ hoang, ông M ra khai hoang sử dụng đến
năm 1993 bán lại cho ông T2, ông T2 sử dụng vào mục đích đất từ năm 1996
phù hợp với quá trình quản lý đất cũng như các văn bản xác minh quá trình biến
động đất và ý kiến của đại diện lãnh đạo Nhà máy cưa thể hiện Nhà máy không
quản phần diện tích đất đang bị khởi kiện. UBND phường Đ UBND thành
phố T không cung cấp được tài liệu nào chứng minh đất nông nghiệp, cũng
không thuộc trường hợp đất do UBND phường thực hiện quyền quản lý đất chưa
sử dụng. Tại phiên tòa thẩm, đại diện UBND phường Đ UBND thành phố
T xác định ông Phạm Hữu M trước đây đã vi phạm về việc sử dụng đất, đã
chiếm đất sử dụng chưa được sự cho phép của quan thẩm quyền, tự ý
chuyển đổi mục đích sử dụng đất phi nông nghiệp để xây dựng nhà cho
rằng việc lập bản đồ 299 (năm 1984) đã ghi sai loại đất là đất “T” là không đúng
hiện trạng sử dụng đất thời điểm đó, nhưng không xuất trình được chứng cứ
chứng minh.
vậy, không căn cứ xác định ông Nguyễn Công T sử dụng đất nông
nghiệp đxây dựng nhà thời điểm năm 2008, không hành vi vi phạm do tự
ý chuyển mục đích sử dụng đất thuộc trường hợp phải xin phép theo quy định
của pháp Luật Đất đai mà chưa được quan thẩm quyền cho phép theo quy
định tại khoản 3 Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP này 15/5/2014 của
Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đất đai như trình bày
của UBND phường ĐUBND thành phố T.
[4.2]. Ông Nguyễn Công T còn có yêu cầu khởi kiện buộc UBND phường
Đ và UBND thành phố T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản gắn liền với thửa đất đang khiếu kiện nhưng Tòa án cấp thẩm
chưa thu thập tài liệu chứng cứ đlàm rõ: thời điểm ông T đơn đề nghị cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thời điểm nào? đúng thời điểm ngày
10/10/2011 như ông T trình bày không? Diện ch đất đề nghị cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ở thời điểm đó có phù hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất của địa phương không? do chưa được quan thẩm quyền tại thời
điểm đó xem xét giải quyết? Lãnh đạo Nhà y cưa xác định Nhà máy
không quản phần diện tích đất gia đình ông T đang sử dụng, vậy ý kiến của
UBND phường Đ UBND thành phố T về nội dung này như thế nào? Không
xem xét và quyết định chấp nhận hay bác yêu cầu đối với nội dung yêu cầu khởi
kiện trên là giải quyết thiếu yêu cầu của người khởi kiện, ảnh hưởng đến quyền
lợi của đương sự.
Do Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ; quyết
định của bản án giải quyết thiếu yêu cầu của người khởi kiện, cấp phúc thẩm
không khắc phục được. Từ đó căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của
người bị kiện, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo đúng quy
định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
13
[5]. Về án phí: Án phí hành chính thẩm sđược xem xét khi Tòa án
cấp thẩm giải quyết lại vụ án; các đương sự không phải chịu án phí hành
chính phúc thẩm.
Từ những nhận định trên, căn cứ khoản 3 Điều 241 Luật Tố tụng hành
chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của người bkiện Ủy ban nhân dân
thành phố T; Hủy Bản án hành chính thẩm số 85/2023/HC-ST ngày
23/10/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh T chuyển hồ vụ án cho Toà án nhân
dân tỉnh T giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Về án phí: Người kháng cáo không phải chịu án phí hành chính phúc
thẩm, hoàn trả Ủy ban nhân dân thành phố T số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
tại Biên lai thu số 0000138 ngày 07/02/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh T.
Án phí hành chính thẩm sẽ được xem xét khi Tòa án cấp thẩm giải
quyết lại vụ án.
3. Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi tuyên án.
* Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh T;
- VKSND tỉnh T;
- Cục THADS tỉnh T;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Vũ Thị Thu Hà
Tải về
Bản án số 533/2024/HC-PT Bản án số 533/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 533/2024/HC-PT Bản án số 533/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất