Bản án số 44/2025/HNGĐ-ST ngày 26/03/2025 của TAND huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 44/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 44/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 44/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 44/2025/HNGĐ-ST ngày 26/03/2025 của TAND huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Con Cuông (TAND tỉnh Nghệ An) |
Số hiệu: | 44/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/03/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bản án ly hôn giữa chị D và anh P |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN CON CUÔNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH NGHỆ AN
Bản án số: 44/2025/ST-HNGĐ
Ngày 26/3/2025.
“V/v Tranh chấp Hôn nhân và gia đình”.
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG - TỈNH NGHỆ AN
Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lữ Thị Dung.
Các hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Văn Hào; Bà La Thị Huyền.
Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Lê - Thư ký Toà án nhân dân huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An tham gia
phiên toà: Bà Phan Thị Thanh Hoa - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 3 năm 2025, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông,
tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 182/2024/TLST-HNGĐ
ngày 24 tháng 12 năm 2024 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2025/QĐXX-ST, ngày 03 tháng 3 năm 2025
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vi Thị D - sinh năm 1987 – có đơn xin vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Bùi Khắc P - sinh năm 1983 - vắng mặt.
Đều có địa chỉ: Thôn T, xã Y, huyện C, tỉnh Nghệ An.
- Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm
Thế K - Trợ giúp viên thuộc trung tâm T. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn và trong quá trình giải quyết vụ án
cũng như tại phiên tòa chị Vi Thị D trình bày:
- Về tình cảm: Chị Vi Thị D và anh Bùi Khắc P kết hôn vào ngày
31/07/2009, đăng ký kết hôn tại UBND xã Y, huyện C, tỉnh Nghệ An, việc kết hôn
là hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc
đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống
nên vợ chồng thường xuyên cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Vợ chồng chung sống
không hạnh phúc, mặc dù hai vợ chồng đã cố gắng hàn gắn tình cảm, gia đình hai
bên đã hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 cho
2
đến nay không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, tình cảm vợ chồng không còn
nên chị Vi Thị D làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh
Bùi Khắc P.
- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 người con chung là
Bùi Thị Yến N - sinh ngày 05/02/2011. Nếu ly hôn chị D có nguyện vọng trực tiếp
nuôi con chung và không yều cầu anh P phải cấp dưỡng tiền nuôi con.
- Về tài sản chung: Chị Vi Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Vợ chồng chị D không nợ tổ chức, cá nhân nào và cũng
không ai nợ vợ chồng chị.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm anh Bùi Khắc P đều vắng
mặt, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập nhiều lần nên Tòa án
không thể tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 204; 207; 208 và
Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Về tình cảm: Chị Vi Thị D và anh Bùi Khắc P đăng ký kết hôn tại UBND xã
Y, huyện C trên cơ sở tự nguyện, đảm bảo các điều kiện về kết hôn. Tuy nhiên
trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xẩy ra mâu thuẫn và sống ly
thân đã lâu không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, đời sống chung không thể kéo
dài, mục đích hôn nhân không đạt được đề nghị HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện
cho chị Vi Thị D được ly hôn với anh Bùi Khắc P; Về con chung: Vợ chồng chị D
có 01 người con chung là Bùi Thị Yến N - sinh ngày 05/02/2011, chị D có nguyện
vọng trực tiếp nuôi con chung và cháu N có nguyện vọng được sinh sống cùng với
mẹ, để đảm bảo quyền lợi của con đề nghị HĐXX xem xét giao con chung cho chị
Vi Thị D trực tiếp nuôi dưỡng; Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung của vợ
chồng chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông phát biểu
ý kiến theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:
- Về tố tụng:
+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: Quá
trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ
đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng; nguyên đơn
chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định
tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51; Điều 53; Điều 56;
Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn xin
ly hôn của chị Vi Thị D; Về con chung: Giao con chung Bùi Thị Yến N, sinh ngày
05/02/2011 cho chị Vi Thị D trực tiếp nuôi dưỡng; Về cấp dưỡng nuôi con và tài
3
sản chung của vợ chồng chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem
xét; Về án phí chị D phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình, bị đơn hiện cư trú tại Bản T,
xã Y, huyện C, tỉnh Nghệ An nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông thụ lý giải
quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và
Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Qua xác minh tình trạng hôn nhân của chị Vi Thị D và anh Bùi Khắc P tại
UBND xã Y, huyện C cho biết, sau khi kết hôn vợ chồng chị D và anh P sinh sống
tại thôn T, xã Y, huyện C, tỉnh Nghệ An. Quá trình chung sống vợ thường xuyên
xẩy ra mâu thuẫn và sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Hiện tại anh P không có
mặt ở địa phương đi đâu, làm gì, địa chỉ cụ thể thì chính quyền, địa phương không
biết. Tại biên bản lấy lời khai bà Đặng Thị H - Trú tại thôn T, xã Y, huyện C là mẹ
đẻ của anh Bùi Khắc P cho biết, sau khi chị D và anh P kết hôn thì sinh sống cùng
gia đình bà một thời gian rồi cùng nhau đi làm ăn ở các tỉnh phía Nam.Tuy nhiên
mấy năm trở lại đây vợ chồng anh P xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất hòa, cãi
vã nhau, gia đình cũng đã khuyên nhủ, hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Từ
năm 2019 đến nay vợ chồng sống ly thân, anh P thỉnh thoảng có gọi điện về thăm
ông bà và con, ngày lễ, ngày tết có về thăm con, còn địa chỉ cụ thể của anh P thì bà
không biết.
Bà H mặc dù đã được nghe đọc lại biên bản lấy lời khai, xác nhận lời khai
của bà là đúng sự thật nhưng không ký vào biên bản, cũng không nhận các văn bản
tố tụng của Tòa án đến tống đạt cho anh P nên Tòa án đã tiến hành niêm yết công
khai các văn bản tố tụng tại nơi anh P cư trú và tại trụ sở UBND xã Y, huyện C,
tỉnh Nghệ An theo đúng quy định pháp luật.
Như vậy, bị đơn anh Bùi Khắc P vắng mặt nơi cư trú mà không rõ thời điểm
trở về và cũng không xác định được nơi cư trú mới. Theo quy định tại Điều 40;
điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự thì được coi là cố tình che
giấu địa chỉ nên Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tụng chung là phù hợp
với hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 6 nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày
05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Bùi Khắc P đã được Tòa án niêm yết
hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày ý kiến; Thông
báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải;
Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt,
chị Vi Thị D có đơn xin xét xử vắng mặt vì lý do có công việc đột xuất, tại phiên
tòa có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề nghị HĐXX xử
4
vắng mặt nguyên đơn nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng
mặt anh Bùi Khắc P và chị Vi Thị D theo quy định tại Điều 227 và Điều 228; Điều
238 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Bùi Khắc P không nộp văn bản ghi ý
kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện nên Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng
cứ mà nguyên đơn đã giao nộp và Tòa án thu thập được để giải quyết vụ án theo
quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
Xét thấy chị Vi Thị D và anh Bùi Khắc P đăng ký kết hôn vào ngày
31/7/2009, đăng ký kết hôn tại UBND xã Y, huyện C, tỉnh Nghệ An, việc kết hôn
là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn
theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Như vậy, quan hệ hôn
nhân giữa chị Vi Thị D và anh Bùi Khắc P là hợp pháp.Tuy nhiên trong quá trình
chung sống vợ chồng chị D và anh P phát sinh nhiều mâu thuẫn và sống ly thân với
nhau từ năm 2019 cho đến nay, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, như vậy
chị D và anh P đã vi phạm tình nghĩa vợ chồng.
Tại phiên tòa anh Bùi Khắc P vắng mặt không có ý kiến trình bày nhưng qua
xác minh tại địa phương và gia đình cho biết: Quá trình kết hôn và chung sống vợ
chồng chị D và anh P có nhiều mâu thuẫn, vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 cho
đến nay không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, hiện tại anh P không có mặt ở địa
phương đi đâu chính quyền, địa phương không biết. Xét thấy tình cảm vợ chồng
giữa chị Vi Thị D và anh Bùi Khắc P không còn, đời sống chung không thể kéo
dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng Điều 56 của Luật Hôn
nhân và gia đình chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn cho chị Vi Thị D được ly hôn
với anh Bùi Khắc P.
Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị D có 01 người con chung là
Bùi Thị Yến N - sinh ngày 05/02/2011, nếu ly hôn chị D có nguyện vọng trực tiếp
nuôi con chung và không yều cầu anh P phải cấp dưỡng tiền nuôi con. Do hiện nay
anh P không có mặt ở địa phương, việc giao con cho anh P nuôi dưỡng là không
đảm bảo điều kiện về mọi mặt của con. Xét thấy nguyện vọng của chị D là chính
đáng, cháu N có nguyện vọng được sinh sống cùng với mẹ, để đảm bảo quyền lợi
của con nên xét giao con chung cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi tròn 18
tuổi, trưởng thành.Về cấp dưỡng nuôi con do chị D không yêu cầu nên Hội đồng
xét xử không xem xét.
Về tài sản chung: Chị Vi Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên căn cứ vào
khoản 1 Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Chị Vi Thị D phải nộp án phí ly hôn theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
5
Áp dụng: Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84
Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 207;
Điều 227; Điều 228; Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận
đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Vi Thị D.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Vi Thị D được ly hôn với anh Bùi Khắc P, chị
Vi Thị D và anh Bùi Khắc P chấm dứt quan hệ hôn nhân kể từ ngày bản án có hiệu
lực pháp luật.
- Về con chung: Giao con chung Bùi Thị Yến N - sinh ngày 05/02/2011 cho
chị Vi Thị D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi tròn 18 tuổi, trưởng thành. Anh Bùi
Khắc P có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vì lợi ích
mọi mặt của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi cấp
dưỡng nuôi con hoặc người trực tiếp nuôi con. Chị Vi Thị D cùng các thành viên
trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
- Về án phí: Áp dụng khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a, khoản
5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Vi Thị D phải
nộp 300.000 đồng án phí ly hôn nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị D đã
nộp 300.000 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An theo
biên lai thu tiền số 0000811 ngày 24/12/2024.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An
trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh NA; Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
- VKSND huyện Con Cuông; Đã ký
- Chi cục THADS huyện Con Cuông;
- Nguyên đơn, bị đơn;
- UBND xã Y;
- Lưu hồ sơ -VP. Lữ Thị Dung
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 02/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm