Bản án số 43/2019/HSST ngày 25/11/2019 của TAND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 43/2019/HSST

Tên Bản án: Bản án số 43/2019/HSST ngày 25/11/2019 của TAND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Tội danh: 250.Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Phù Cát (TAND tỉnh Bình Định)
Số hiệu: 43/2019/HSST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/11/2019
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ CÁT, TỈNH BÌNH ĐỊNH

 BẢN ÁN 43/2019/HSST NGÀY 25/11/2019 VỀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 25/11/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2019/TLST-HS, ngày 08/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2019/QĐXXST-HS ngày 14/10/2019 và Thông báo thay đổi lịch xét xử số 338/TB-TA ngày 31/10/2019 đối với các bị cáo:

1- Họ và tên: Nguyễn Văn H - sinh năm: 1978 tại: H-Ph; Nơi cư trú: thôn N-H, xã Đ-X, huyện K-Th, TP. H-Ph; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: lớp 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Quốc Đ – sinh năm: 1949 và bà Phạm Thị Th – sinh năm 1952; Vợ, Con: chưa có;

- Tiền án, tiền sự và đặc điểm nhân thân:

+ Ngày 24/4/2012 bị TAND quận Thanh Khê, TP.Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 07/01/2013;

+ Ngày 10/01/2014 bị TAND TP.Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 16/7/2014;

+ Ngày 07/5/2015 bị TAND huyện Tuy Phước xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999; Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 20/10/2015;

+ Ngày 03/3/2017 bị TAND TP.Hải Dương xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999, thuộc trường hợp tái phạm; Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 08/01/2018.

+ Ngày 03/7/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 43/2019/HSST ngày 03/7/2019, đã có hiệu lực pháp luật);

+ Ngày 23/7/2019 bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định truy tố về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm g Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự (Cáo trạng số 48/CT-VKSHN)

+ Ngày 07/11/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Ph-Y xử phạt: Tù chung thân về tội “Giết người”, 10 năm tù về “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt của cả 02 tội là: Tù chung thân (Theo bản án số 15/2019/HSST, bản án chưa có hiệu lực pháp luật) Bị cáo bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Cát bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/11/2018 đến ngày 19/4/2019 về tội “Trộm cắp tài sản”; Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ph-Y theo Quyết định tạm giam số 29/2019/HSST-QĐTG ngày 07/11/2019 của HĐXX Tòa án nhân dân tỉnh Ph-Y- trong vụ án "Giết người, Cướp tài sản"; (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

2- Họ và tên: Nguyễn Tiến N - sinh ngày: 21/4/1993 tại: H-N; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã B-M, huyện Th-O, TP. H-N; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: lớp 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Tiến Th – sinh năm: 1969 và bà Nguyễn Thị Th1 – sinh năm: 1972; Vợ, con: chưa có; Tiền án; tiền sự: không;

- Đặc điểm nhân thân:

+ Ngày 03/7/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 43/2019/HSST ngày 03/7/2019, đã có hiệu lực pháp luật).

+ Ngày 23/7/2019 bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định truy tố về tội "Trộm cắp tài sản" theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự (Cáo trạng số 48/CT-VKSHN) Bị cáo đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam K-S- – thuộc Cục Cảnh sát Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng – Bộ Công an; (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

3- Họ và tên: Hoàng Đức S – sinh ngày: 13/4/1983 tại: H-Ph; Nơi cư trú: thôn 3, xã K-B, huyện Th-Ng, TP. H-Ph; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: lớp 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Đức B – sinh năm: 1959 và bà Đào Thị Th – sinh năm: 1960; Vợ: Phạm Thị L – sinh năm 1984 (đã ly hôn); Con: có 01 người, SN: 2001; Tiền án; tiền sự: không;

- Đặc điểm nhân thân:

+ Ngày 03/7/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 43/2019/HSST ngày 03/7/2019, đã có hiệu lực pháp luật).

+ Ngày 23/7/2019 bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định truy tố về tội "Trộm cắp tài sản" theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự (Cáo trạng số 48/CT-VKSHN) + Ngày 07/11/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Ph-Y xử phạt: Tù chung thân về tội “Giết người", 06 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt của cả 02 tội là: Tù chung thân (Theo bản án số 15/2019/HSST, bản án chưa có hiệu lực pháp luật) Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ph-Y theo Quyết định tạm giam số 29/2019/HSST-QĐTG ngày 07/11/2019 của HĐXX Tòa án nhân dân tỉnh Ph-Y trong vụ án "Giết người", "Cướp tài sản"; (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

4- Họ và tên: Trần Quang V – sinh ngày: 31/12/1963 tại: B-Đ; Nơi cư trú: thôn Ph-K, xã C-Tr, huyện P-C, tỉnh B-Đ; Nghề nghiệp: Buôn bán phế liệu; Trình độ học vấn: lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Quang Đ (Chết) và bà Hồ Thị D – sinh năm: 1937; Vợ: Nguyễn Thị Phương Th – sinh năm: 1965; Con: có 03 người, lớn nhất SN: 1990, nhỏ nhất SN: 2006; Tiền án; tiền sự: không;

- Đặc điểm nhân thân:

+ Ngày 21/10/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (Bản án số 51/2019/HS-PT ngày 21/10/2019, đã có hiệu lực pháp luật) + Ngày 23/7/2019 bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định truy tố về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo Khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự (Cáo trạng số 48/CT-VKSHN) Bị cáo bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Cát áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại:

1. Nhà thờ họ đạo HD; Địa chỉ: Thôn H-D, xã C-T, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.

- Người đại diện hợp pháp: ông Đặng Quang Tr – sinh năm: 1953 – Là Biện trưởng họ đạo HD; Trú tại: thôn H-D, xã C-T, Ph-C, B-Đ (vắng mặt - có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

2. Niệm Phật Đường MH; Địa chỉ: Thôn M-H, xã C-H, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.

Người đại diện hợp pháp: Bà Hồ Thị S – sinh năm: 1978 - Là Trụ trì Niệm phật đường Mỹ Hóa; Địa chỉ: thôn M-H, xã C-H, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định (vắng mặt - có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

3. Chị Hồ Thị Bích Ph – sinh năm: 1995; Trú tại: thôn M-H, xã C-H, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định (vắng mặt - có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)

4. Anh Phan Ph1 – sinh năm: 1989. Trú tại: Số 137 N-Q-, TT. Q-Ph, huyện C-M, tỉnh Đăk Lăk. (vắng mặt - có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn H ở N-H, Đ-X, K-Th, Hải Phòng cùng Nguyễn Tiến N ở thôn Đ, B-M, Th-O, Hà Nội và Hoàng Đức Sinh ở thôn 3, K-B, Th-Ng, Hải Phòng là những đối tượng không có việc làm, sống lang thang tại khu vực ga Diêu Trì, huyện Tuy Phước, Bình Định. Để có tiền tiêu xài cá nhân, từ ngày 04/8/2018 đến ngày 20/11/2018, H, N, S đã nhiều lần lén lút lấy trộm tài sản trên địa bàn huyện Phù Cát. Cụ thể:

- Lần thứ nhất: Vào chiều tối ngày 03/8/2018, H và N đi xe buýt đến huyện Phù Cát để tìm tài sản trộm cắp. Khi đi đến thôn H-D-, xã C-T-, huyện Phù Cát, H và N xuống xe ở khu vực gần Nhà thờ họ đạo HD rồi móc võng ngủ dưới chân cầu đường sắt C-T đợi đến đêm tối sẽ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Khoảng 01 giờ ngày 04/8/2018, H và N đi bộ đến Nhà thờ họ đạo HD, H dùng thanh sắt, có một đầu dẹp và một đầu uốn cong (còn gọi là báy nhổ đinh) cạy phá cửa trước phía Bắc rồi cả hai đột nhập vào bên trong nhà thờ. Khi vào bên trong, N lấy trộm được 02 cây đèn thờ bằng đồng, còn H cạy phá thùng phước sương lấy được số tiền 530.000 đồng, rồi quay lại cầu đường sắt C-T ngủ. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, cả hai đem 02 cây đèn trên bán cho Trần Quang V ở Ph-K, C-Tr, Phù Cát được 500.000 đồng, chia đều nhau tiêu xài cá nhân. Khi mua, V không biết 02 cây đèn đó là do H và N trộm cắp mà có. Sau đó, V đem số tài sản trên bán cho ông Nguyễn Văn A ở phường Đ-Đ, TX.A-Nh, Bình Định với giá 1.100.000 đồng.

- Lần thứ hai: Khoảng 01 giờ ngày 30/8/2018, S điều khiển xe mô tô chở H và N đi tìm tài sản để lấy trộm. Khi đi đến Niệm Phật đường MH thuộc thôn M-H, xã C-H, huyện Phù Cát, S dựng xe ở hẻm bên hông phía Nam, H đứng ngoài giữ xe và cảnh giới, còn N và S leo qua hàng rào đột nhập vào trong khuôn viên rồi leo lên tầng hai của Niệm Phật đường. Khi lên lầu, N lấy một thùng phước sương bằng gỗ đưa cho S ôm xuống sân trước Niệm Phật đường dùng búa cạy phá lấy được số tiền 850.000 đồng, còn N tiếp tục lục tìm tài sản. N cạy phá thùng phước sương bằng kính gắn trên vách tường lấy được số tiền 1.500.000 đồng, rồi tiếp tục vào phòng nghỉ trộm được 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A3 và số tiền 7.000.000 đồng trong ba lô của Hồ Thị Bích Ph ở M-H, C-H, Phù Cát, là ni cô ở Niệm Phật đường. Số tiền lấy trộm được, cả ba chia nhau tiêu xài. S được chia số tiền 1.300.000 đồng, H được 900.000 đồng, số còn lại N sử dụng; điện thoại di động N bán cho một tiệm điện thoại trên Quốc lộ 1A (không rõ tên, địa chỉ) được 1.500.000 đồng, số tiền này N giữ tiêu xài cá nhân.

- Lần thứ ba: Khoảng 01 giờ ngày 10/11/2018, S điều khiển xe mô tô chở H và N đi đến Nhà thờ họ đạo HD, C-T, Phù Cát để lấy trộm tài sản. Khi đến nơi, S dùng báy nhổ đinh cạy phá cửa trước phía Nam rồi cả 03 đột nhập vào bên trong. Vào bên trong, N lấy trộm được 02 cây đèn thờ và 01 cái lư bằng đồng, còn H cạy phá thùng phước sương bằng gỗ lấy trộm số tiền 2.400.000 đồng. Sau đó, cả ba đi đến cầu đường sắt C-T ngủ. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, S chở N đem số đồ đồng trộm được bán cho Trần Quang V được số tiền 1.100.000 đồng, rồi cả ba chia nhau tiêu xài. Trong lần mua này, V biết rõ số tài sản trên do trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý mua. Sau đó, V đem số tài sản trên bán cho ông Nguyễn Văn A với giá 2.200.000 đồng.

- Lần thứ tư: Khoảng 01 giờ ngày 13/11/2018, N điều khiển xe mô tô chở H đi đến Niệm phật đường MH, C-H, Phù Cát để lấy trộm tài sản. Khi đến nơi, cả hai dựng xe ở vỉa hè rồi trèo qua cổng sắt đột nhập vào trong khuôn viên, sau đó leo qua ô thông gió vào trong một phòng gần cầu thang lên tầng hai. Cả hai lục tìm trong ba lô của anh Phan Ph1 ở TT.Q-Ph, C-M, Đăk Lak để trong tủ gỗ đầu giường ngủ, lấy trộm 01 điện thoại di động Samsung galaxy J3 và 01 cái ví bên trong có số tiền 3.000.000 đồng cùng một số giấy tờ tùy thân của anh Ph1. Số tiền trộm được N và H chia đều nhau tiêu xài, còn điện thoại Samsung galaxy J3 H giữ để sử dụng.

- Lần thứ năm: Tối ngày 19/11/2018, S điều khiển xe mô tô chở H và N đi đến huyện Phù Cát để tìm tài sản lấy trộm. Khi đến thôn H-D, C-T, Phù Cát thì xe bị gãy phuộc nhún nên H xuống xe tại cầu H-D rồi đi bộ đến cầu đường sắt C-T ngủ. Đến khoảng 01 giờ ngày 20.11.2018, H đi bộ đến Nhà thờ họ đạo HD, dùng báy nhổ đinh cạy phá cửa bên hông đột nhập vào bên trong lấy trộm đồ đồng gồm: 01 bộ chuông bằng đồng, 02 ly bằng đồng, 01 dĩa tròn bằng đồng và 01 thanh đồng hình trụ để ở bục làm lễ giữa nhà thờ. Sau đó, H quay lại cầu đường sắt C-T ngủ chờ đến sáng sẽ đem tài sản đi tiêu thụ thì bị Công an huyện Phù Cát phát hiện bắt giữ.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật: Cơ quan điều tra đã thu giữ:

- 01 bộ chuông bằng đồng cao 17cm, đế chuông hình tròn đường kính 08cm, gồm 04 quả chuông nhỏ, mỗi chuông cao 04cm, đường kính 6,5cm;

- 01 ly đựng nước bằng đồng cao 18cm, miệng ly hình tròn đường kính 11cm, đế ly hình tròn đường kính 10,5cm;

- 01 đĩa tròn bằng đồng, đường kính 13cm;

- 01 ly bằng đồng cao 10,5cm, miệng ly hình tròn đường kính 09cm, có quai, đế ly hình tròn đường kính 7,5cm;

- 01 thanh đồng hình trụ dài 13,5cm, một đầu đường kính 0,8cm, một đầu hình cầu đường kính 03cm;

Đã xử lý trả lại cho Nhà thờ họ đạo HD (do ông Đặng Quang Tr – Biện trưởng, là đại diện chủ sở hữu đã nhận lại tài sản) - 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J3 2016, vỏ màu vàng, có ốp lưng màu đen, số IMEI 1: 358986073625442, IMEI 2: 358987073625440; đã xử lý trả lại cho anh Phan Ph1.

Đối với 04 đèn thờ bằng đồng, 01 lư bằng đồng, sau khi mua Nguyễn Văn A đã đem đi tái chế; điện thoại di động Samsung Galaxy A3 N bán cho một tiệm điện thoại không xác định được địa chỉ nên không thu hồi được.

- 01 cây búa bằng sắt, kích thước (26 x 13)cm;

- 01 mũi thanh sắt kích thước (30 x 2,5)cm, có 01 đầu bằng, 01 đầu dẹp;

- 01 thanh sắt kích thước (31,5 x 2)cm, có 01 đầu bằng, 01 đầu dẹp lệch được uốn cong;

- 01 thanh sắt kích thước (50 x 2)cm, có 02 đầu dẹp, trong đó có một đầu được uốn cong 90 độ.

Đã chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Cát bảo quản.

* Theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Phù Cát, xác định:

- 01 bộ chuông bằng đồng cao 17cm, đế chuông hình tròn đường kính 08cm, gồm 04 quả chuông nhỏ, mỗi chuông cao 04cm, đường kính 6,5cm có trị giá 900.000 đồng;

- 01 ly đựng nước bằng đồng cao 18cm, miệng ly hình tròn đường kính 11cm, đế ly hình tròn đường kính 10,5cm có trị giá 600.000 đồng;

- 01 đĩa tròn bằng đồng, đường kính 13cm có trị giá 200.000 đồng;

- 01 ly bằng đồng cao 10,5cm, miệng ly hình tròn đường kính 09cm, có quai, đế ly hình tròn đường kính 7,5cm có trị giá 400.000 đồng;

- 01 thanh đồng hình trụ dài 13,5cm, một đầu đường kính 0,8cm, một đầu hình cầu đường kính 03cm có trị giá 200.000 đồng;

- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J3 2016, vỏ màu vàng, có ốp lưng màu đen, số IMEI 1: 358986073625442, IMEI 2: 358987073625440 có trị giá 1.000.000 đồng;

- 04 cây đèn thờ bằng đồng, mỗi cây cao 55cm, đế hình tròn có đường kính 18cm, có trị giá 2.400.000 đồng;

- 01 lư bằng đồng cao 50cm, đường kính rộng nhất là 30cm có trị giá 2.600.000 đồng;

- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A3, vỏ màu vàng (đã qua sử dụng) có trị giá 1.700.000 đồng.

* Về trách nhiệm dân sự:

- Tại phiên tòa, đại diện Nhà thờ họ đạo H-D, ông Đặng Quang Tr có đơn yêu cầu xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt. Phần trách nhiệm dân sự, ông Tr không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại đối với số tài sản bị chiếm đoạt không thu hồi được theo giá trị đã được định giá là 7.930.000 đồng; đối với số tài sản đã được Cơ quan điều tra thu hồi, trả lại ông Tr cũng không yêu cầu gì thêm;

- Tại phiên tòa, bà Hồ Thị S – người đại diện hợp pháp của Niệm phật đường MH có đơn yêu cầu xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt. Phần trách nhiệm dân sự, bà S cũng không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại đối với số tài sản bị chiếm đoạt trong các thùng phước sương là 2.350.000 đồng;

- Chị Hồ Thị Bích Ph có đơn yêu cầu xét xử theo thủ tục vắng mặt, nhưng vẫn giữ nguyên yêu cầu các bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường số tiền và giá trị điện thoại di động Samsung Galaxy A3 bị chiếm đoạt theo giá trị đã được định giá, tổng cộng là 8.700.000 đồng.

- Anh Phan Ph1 có đơn yêu cầu xét xử theo thủ tục vắng mặt, nhưng vẫn giữ nguyên yêu cầu các bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường số tiền đã bị chiếm đoạt là 3.000.000 đồng, đối với điện thoại di động đã nhận lại được, không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản cáo trạng số: 15/CT-VKSPC, ngày 25.4.2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cát truy tố các bị cáo: Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự (BLHS); Nguyễn Tiến N và Hoàng Đức S về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS; Trần Quang V về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 BLHS.

Tại phiên tòa, trong phần thủ tục tranh luận, đại diện VKSND huyện Phù Cát trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng truy tố đối với các bị cáo; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt cho từng bị cáo như sau:

- Đối với Nguyễn Văn H: Áp dụng Điểm b, g Khoản 2 Điều 173, Điểm s Khoản 1 Điều 51, điểm g Khoản 1 Điều 52, Điều 58 của BLHS xử phạt bị cáo mức án từ 03 năm đến 3 năm 06 tháng tù.

- Đối với Nguyễn Tiến N: Áp dụng Khoản 1 Điều 173, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm g Khoản 1 Điều 52, Điều 58 của BLHS xử phạt bị cáo mức án từ 18 đến 24 tháng tù.

- Đối với Hoàng Đức S: Áp dụng Khoản 1 Điều 173, Điểm g Khoản 1 Điều 52, Điều 58 của BLHS xử phạt bị cáo mức án từ 18 đến 24 tháng tù.

- Đối với Trần Quang V: Áp dụng Khoản 1 Điều 323, Điểm s, p, v Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điền 54 của BLHS xử phạt bị cáo mức án từ 03 đến 06 tháng tù.

Đồng thời, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56 của BLHS tổng hợp hình phạt các bản án số 43/2019/HSST ngày 03/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi và bản án số 51/2019/HSPT ngày 21/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, buộc các bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 bản án.

Về phần trách nhiệm dân sự, đề nghị HĐXX buộc các bị cáo Nguyễn Văn H, Hoàng Đức S, Nguyễn Tiến N phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho chị Hồ Thị Bích Ph 8.700.000 đồng, bồi thường thiệt hại cho anh Phan Ph1 3.000.000 đồng.

Trong phần tự bào chữa, các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N, Trần Quang V đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nhưng đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Riêng bị cáo Hoàng Đức S, tại phiên tòa bị cáo không thừa nhận đã thực hiện hành vi tội phạm cùng Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N tại Niệm Phật Đường MH vào ngày 30/8/2018, xã C-H và tại Nhà thờ Họ đạo HD vào ngày 10/11/2018 vì cho rằng thời gian xảy ra vụ án bị cáo không có mặt trên địa bàn tỉnh Bình Định.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét về mặt thủ tục tố tụng:

[1.1]. Trong các giai đoạn điều tra, truy tố, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS - 2015); các bị cáo, những người bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của những người tiến hành tố tụng. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định có đủ căn cứ để kết luận: ở các giai đoạn tố tụng này, hành vi của những người tiến hành tố tụng và quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2]. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng và giấy triệu tập tham gia phiên tòa, nhưng những người bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại đều có đơn yêu cầu xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt họ. Căn cứ Điều 292 của BLTTHS, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng này.

[2] Xét nội dung của vụ án và hành vi của các bị cáo thực hiện, Tòa án nhân dân huyện Phù Cát thấy rằng:

[2.1] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N, Trần Quang V đã khai nhận toàn bộ diễn biến của vụ án, hành vi của từng bị cáo đã thực hiện đúng với nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cát đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của từng bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập được có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, làm rõ tại phiên tòa. Riêng bị cáo Hoàng Đức S trong các giai đoạn điều tra, truy tố đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, cùng với Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại Niệm Phật Đường MH vào ngày 30/8/2018 và tại Nhà thờ họ đạo HD vào ngày 10/11/2018. Lời khai nhận tội của bị cáo trong các giai đoạn tố tụng này hoàn toàn trùng khớp, thống nhất với lời khai của các bị cáo H, N. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm ngày 01/8/2019, bị cáo S đã thay đổi lời khai, không thừa nhận cùng H, N thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản nào trên địa bàn huyện Phù Cát. Bị cáo chứng minh rằng, trong khoảng thời gian từ ngày 20/8/2018 đến ngày 01/9/2018 bị cáo đi vào Cà Mau, trú tại nhà của chị Trần Thị Thu Tr (tên thường gọi là Th) ở ấp 9, thị trấn Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Trong khoảng thời gian này, hàng ngày bị cáo có sự giao tiếp với anh rể của chị Tr là anh Nguyễn Văn Th ở cùng địa chỉ nêu trên. Từ cuối tháng 10/2018 đến ngày 12/11/2018 bị cáo về quê ở thôn 3, K-B, Th-Ng, Hải Phòng, hàng ngày bị cáo đi làm phụ hồ cho ông Trần Đình Ph ở thôn 1 cùng xã nên thời điểm xảy ra vụ án tại Niệm Phật đường MH, xã C-H vào ngày 30/8/2018 và tại Nhà thờ họ đạo HD, C-T vào ngày 10/11/2018 S không thực hiện tội phạm cùng H, N. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Phù Cát đã ra Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Kết quả điều tra bổ sung cho thấy, trên địa bàn Khóm 9, thị trấn Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau không có ai tên Trần Thị Thu Tr (tên thường gọi là Th). Anh Nguyễn Văn Th có địa chỉ nêu trên có quan hệ quen biết với với bị cáo khoảng 09 năm về trước cũng không có người em vợ nào tên Tr, người mà bị cáo cho rằng sống chung với bị cáo như vợ chồng. Ngoài ra, lời khai của bị cáo hoàn toàn mâu thuẫn với lời khai của anh Nguyễn Văn Th, ông Trần Văn Ph và chính em trai của bị cáo là anh Hoàng Đức Q về thời gian, địa điểm và sự có mặt của bị cáo tại 02 địa chỉ nêu trên. Tại phiên tòa hôm nay, Hoàng Đức S tiếp tục thay đổi lời khai vì cho rằng, thời điểm từ ngày 20/8/2018 đến đầu tháng 9/2018 bị cáo dẫn dắt người ăn xin hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Cuối tháng 10/2018 đến ngày 12/11/2018 bị cáo về quê Hải Phòng và ở tại nhà một người phụ nữ sống chung với bị cáo như vợ chồng tại quận Kiến An, TP. Hải Phòng nên không cùng H, N thực hiện hành vi tội phạm trên địa bàn huyện Phù Cát. Xét lời khai của bị cáo trong các giai đoạn tố tụng có sự bất nhất, mâu thuẫn nhau. Mặt khác, căn cứ vào lời khai của các bị cáo H, N, V trong các biên bản hỏi cung bị can và kết quả đối chất lời khai giữa các bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đều khẳng định vụ án xảy ra tại Niệm phật Đường MH, C-H vào ngày 30/8/2018 và tại Nhà thờ họ đạo HD vào ngày 10/11/2018 có sự tham gia của Hoàng Đức S với vai trò là người thực hành. Sau khi chiếm đoạt được tài sản, S cùng N mang tài sản đi bán cho bị cáo V để lấy tiền tiêu xài. Như vậy, mặc dù bị cáo Hoàng Đức S không thừa nhận thực hiện hành vi tội phạm, nhưng căn cứ vào lời khai của các bị cáo khác trong cùng vụ án, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập được có tại hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ căn cứ để xác định bị cáo S trực tiếp tham gia cùng H, N thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại Niệm phật Đường MH, C-H vào ngày 30/8/2018 và tại Nhà thờ họ đạo HD vào ngày 10/11/2018 với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt được là 17.250.000 đồng.

[2.2] Xét các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N, Hoàng Đức S và Trần Quang V đều là những người có đầy đủ năng lực, sức khỏe để nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Các bị cáo đều biết, tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đều phải được ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên, bởi tính tham lam, xem thường pháp luật, trong khoảng thời gian từ ngày 04/8/2018 đến ngày 20/11/2018, các bị cáo H, N, S đã nhiều lần lén lút đột nhập vào Nhà thờ họ đạo HD ở xã C-T và Niệm phật đường MH ở xã C-H, huyện Phù Cát thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Trong đó, Nguyễn Văn H cùng đồng phạm thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản đã chiếm đoạt là 25.280.000 đồng; Nguyễn Tiến N tham gia cùng đồng phạm thực hiện 04 vụ trộm cắp với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 22.980.000 đồng; Hoàng Đức S tham gia cùng đồng phạm, thực hiện 02 vụ với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 17.250.000 đồng. Sau khi chiếm đoạt được tài sản, các bị cáo đã 02 lần đem các loại đồ đồng như đèn thờ, lư hương bán cho Trần Quang V để lấy tiền tiêu xài. Trong lần tiêu thụ thứ hai vào ngày 10/11/2018, Trần Quang V biết rõ số đèn đồng và lư hương là do N cùng đồng phạm trộm cắp mà có, nhưng vì hám lời, V vẫn mua với giá 1.100.000 đồng để bán lại cho Nguyễn Văn A ở phường Đ-Đ, TX A-Nh với giá 2.200.000 đồng, thu lợi bất chính 1.100.000 đồng.

[2.3] Hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N và Hoàng Đức S đã đủ dấu hiệu cấu thành tội "Trộm cắp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của BLHS; Hành vi của Trần Quang V đủ dấu hiệu cấu thành tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 323 của BLHS.

Bản thân Nguyễn Văn H là đối tượng đã nhiều lần bị Tòa án kết án về tội trộm cắp tài sản, đã được xác định là tái phạm (theo bản án số 32/2017/HSST ngày 03/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, tỉnh Hải Dương) và chưa được xóa án tích theo Khoản 2 Điều 70 của BLHS. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo tiếp tục sống lang thang, không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân. Trong khoảng thời gian ngắn, bị cáo cùng đồng phạm đã 05 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Phù Cát, lấy các lần phạm tội này làm nghề sống và lấy kết quả của hành vi phạm tội là nguồn sống chính. Do vậy, bản cáo trạng số 15/CT-VKSPC, ngày 25.4.2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm b, g Khoản 2 Điều 173 BLHS với tình tiết định khung là "có tính chất chuyên nghiệp" "tái phạm nguy hiểm"; Nguyễn Tiến N và Hoàng Đức S bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 BLHS; Trần Quang V bị truy tố về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Khoản 1 Điều 323 của BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N và Hoàng Đức S đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của các cá nhân, Cơ sở tôn giáo, thờ tự trên địa bàn, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Trần Quang V vì động cơ hám lời nên tiếp tay tiêu thụ tài sản do H, N, S trộm cắp mà có. Do đó, xét cần phải áp dụng chế tài hình sự thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, răn đe đối với từng bị cáo và phòng ngừa chung cho người khác.

[4] Xét vai trò đồng phạm trộm cắp tài sản của Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N và Hoàng Đức S, HĐXX thấy rằng, vụ án tuy có nhiều người tham gia, nhiều lần cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, nhưng hành vi của các bị cáo chỉ mang tính chất đồng phạm giản đơn và đều giữ vai trò là người thực hành, không có sự bàn bạc, phân công thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cá thể hóa hình phạt cho từng bị cáo được xem xét, cân nhắc trên cơ sở số lần thực hiện hành vi phạm tội và giá trị tài sản đã chiếm đoạt.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân của từng bị cáo để quyết định hình phạt, HĐXX thấy rằng: Nguyễn Văn H đã nhiều lần bị Tòa án xử phạt rất nghiêm khắc về tội trộm cắp tài sản, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để hoàn lương mà lại tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội. Đối với Hoàng Đức S, Nguyễn Tiến N, mặc dù không bị coi là có tiền án tiền sự, nhưng trong giai đoạn hiện nay các bị cáo đang bị điều tra, truy tố và xét xử ở nhiều địa phương khác nhau nên bị coi là có đặc điểm nhân thân xấu. Các bị cáo H, S, N phạm tội với tình tiết tăng nặng là "Phạm tội 02 lần trở lên" quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 của BLHS. Tuy nhiên, HĐXX cũng thấy rằng, trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử, các bị cáo H, N và V đều có thái độ thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của BLHS để HĐXX cân nhắc khi lượng hình, quyết định mức hình phạt có lý, có tình tạo điều kiện cho các bị cáo an tâm cải tạo tốt khi chấp hành án. Bị cáo Hoàng Đức S có thái độ quanh co, chối tội, không thành khẩn nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này. Riêng bị cáo Trần Quang V có thời gian dài phục vụ trong quân đội nhân dân Việt Nam, có thành tích xuất sắc trong thời gian tại ngũ, được Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng tặng bằng khen; bị cáo có tiền sử bệnh nhồi máu cơ tim, đã đặt Stent LADII, RCA 4/2019 và đái tháo đường không phụ thuộc insuline, đang điều trị theo chỉ dẫn của y bác sỹ theo định kỳ. Ngày 05/9/2019, Hội đồng giám định y khoa tỉnh Bình Định kết luận bị cáo tổn thương cơ thể 71%, mức độ khuyết tật nặng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo quy đinh tại Điểm v, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của BLHS. Tuy nhiên, bị cáo có đặc điểm nhân thân xấu, đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 06 tháng tù về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" và hiện nay đang bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định truy tố về tội danh này. Do đó, việc bị cáo và gia đình có đơn xin được hưởng án treo là không có căn cứ pháp luật. Từ những nhận định trên, HĐXX cân nhắc áp dụng Điều 54 của BLHS, xử phạt bị cáo V mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 323 của BLHS nhằm tạo điều kiện cho bị cáo an tâm cải tạo tốt, sau khi tái hòa nhập cộng đồng trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[6] Trong vụ án này, ông Nguyễn Văn A ở phường Đ-Đ, TX A-Nh, Bình Định đã có hành vi mua lại của bị cáo V 02 cây đèn thờ và 01 cái lư hương bằn g đồng với giá 2.200.000 đồng rồi đem đi tái chế, nhưng ông A không biết đây là tài sản trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không truy cứu trách nhiệm hình sự ông A là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự và các biện pháp tư pháp khác:

[7.1]. Về trách nhiệm dân sự: Ông Trần Quang Tr – người đại diện hợp pháp của Nhà thờ giáo họ HD, C-T và bà Hồ Thị S – người đại diện hợp pháp của bị hại Niệm phật đường MH, xã C-H có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, phần trách nhiệm dân sự không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại nên HĐXX không xét. Riêng chị Hồ Thị Bích Ph yêu cầu các bị cáo H, N, S bồi thường 8.700.000 đồng (trong đó số tiền bị chiếm đoạt là 7.000.000 đồng và giá trị chiếc điện thoại Samsung Galaxy A3, vỏ màu vàng (đã qua sử dụng) là 1.700.000 đồng); anh Phan Ph1 yêu cầu các bị cáo H, N, S bồi thường 3.000.000 đồng là có căn cứ nên HĐXX xét buộc các bị cáo phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho những người bị hại nêu trên.

[7.2] Về xử lý vật chứng:

- Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 cây búa bằng sắt, kích thước (26 x 13)cm; 01 mũi thanh sắt kích thước (30 x 2,5)cm, có 01 đầu bằng, 01 đầu dẹp; 01 thanh sắt kích thước (31,5 x 2)cm, có 01 đầu bằng, 01 đầu dẹp lệch được uốn cong; 01 thanh sắt kích thước (50 x 2)cm, có 02 đầu dẹp, trong đó có một đầu được uốn cong 90 độ hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Cát (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/4/2019). Đây là những công cụ các bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 47 BLHS, Điều 106 của BLTTHS.

- Ngoài ra bị cáo S còn sử dụng chiếc xe mô tô kiểu dáng Dream màu tím, biển số 75 (không nhớ các số sau) để làm phương tiện di chuyển khi thực hiện hành vi trộm cắp. Theo bị cáo S khai, chiếc xe này bị cáo mua của một người dân ở Thừa Thiên Huế để sử dụng đi lại, sau ngày 20/11/2018 chiếc xe bị gãy phuộc nhún nên S bán cho một tiệm thu mua phế liệu ở Quảng Ngãi nhưng không nhớ địa chỉ, Cơ quan điều tra không thu hồi được chiếc xe này nên không có cơ sở để xem xét, xử lý.

- Bị cáo Trần Quang V đã mua 02 cây đèn thờ và 01 cái lư hương bằng đồng do bị cáo N và đồng phạm trộm cắp của Nhà thờ họ đạo HD với giá 1.100.000 đồng. Sau đó V bán lại cho ông Nguyễn Văn A với giá 2.200.000 đồng để thu lợi bất chính 1.100.000 đồng. Số tiền thu lợi bất chính này cần phải tịch thu sung công là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí HSST, án phí DSST theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của BLTTHS - 2015, Điều 23, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa XIV.

- Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

[1]. Tu yên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N, Hoàng Đức S phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo Trần Quang V phạm tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có".

[1.1]. Áp dụng: Điểm b, g Khoản 2 Điều 173, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm g Khoản 1 Điều 52, Khoản 1 Điều 17, Điều 38, Điều 56, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 03 (Ba) năm tù; Tổng hợp hình phạt của bản án số 43/2019/HSST ngày 03/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 04 năm tù, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 07 (Bảy) năm tù (03 năm + 04 năm). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 21/11/2018 đến ngày 19/4/2019 là 4 tháng 28 ngày, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù còn lại là 06 năm 07 tháng 02 ngày.

[1.2]. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm g Khoản 1 Điều 52, Khoản 1 Điều 17, Điều 38, Điều 56, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tiến N 18 (Mười tám) tháng tù; Tổng hợp hình phạt của bản án số 43/2019/HSST ngày 03/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 30 tháng tù, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 48 (Bốn mươi tám) tháng tù (18 tháng + 30 tháng). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/12/2018.

[1.3]. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, Điểm g Khoản 1 Điều 52, Khoản 1 Điều 17, Điều 38, Điều 56 Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Đức S 18 (Mười tám) tháng tù; Tổng hợp hình phạt của bản án số 43/2019/HSST ngày 03/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 03 năm tù, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 04 (Bốn) năm 06 (sáu) tháng tù (18 tháng + 03 năm), được trừ thời gian tạm giam 02 tháng 29 ngày (từ ngày 18/12/2018 đến ngày 17/3/2019), buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù còn lại là: 04 (bốn) năm 03 (ba) tháng 01 (một) ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án.

[1.4]. Áp dụng: Khoản 1 Điều 323, Điểm s, p, v Khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 và Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Quang V 03 (Ba) tháng tù; Tổng hợp hình phạt của bản án số 51/2019/HSPT ngày 21/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 06 tháng tù, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 09 (Chín) tháng tù (03 tháng + 06 tháng). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án.

[2]. Về trách nhiệm dân sự và các biện pháp tư pháp khác:

[2.1] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự, Điều 584, 587, 589 của Bộ luật dân sự.

 Buộc các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N và Hoàng Đức S phải liên đới bồi thường cho chị Hồ Thị Kim Ph 8.700.000 đồng (Tám triệu bảy trăm nghìn đồng chẵn). Chia phần, mỗi bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho chị Ph 2.900.000 đồng (Hai triệu chín trăm nghìn đồng chẵn)  Buộc các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N và Hoàng Đức S phải liên đới bồi thường cho anh Phan Ph1 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng chẵn). Chia phần, mỗi bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho anh Ph1 1.000.000 đồng (Một triệu đồng chẵn)  Người đại diện hợp pháp của Nhà thờ họ đạo HD, C-T, Phù Cát và người đại diện hợp pháp của Niệm phận đường MH, C-H, Phù Cát không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên HĐXX không xem xét.

[2.2] Về quyền và nghĩa vụ thi hành án dân sự:  Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà các bị cáo không thi hành hoặc thi hành chưa đầy đủ số tiền trên thì các bị cáo còn phải trả tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất 10%/năm, tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

 Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[2.3] Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS, Điều 106 của BLTTHS.

 Tịch thu, tiêu hủy 01 cây búa bằng sắt, kích thước (26 x 13)cm; 01 mũi thanh sắt kích thước (30 x 2,5)cm, có 01 đầu bằng, 01 đầu dẹp; 01 thanh sắt kích thước (31,5 x 2)cm, có 01 đầu bằng, 01 đầu dẹp lệch được uốn cong; 01 thanh sắt kích thước (50 x 2)cm, có 02 đầu dẹp, trong đó có một đầu được uốn cong 90 độ hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Cát (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/4/2019)  Buộc bị cáo Trần Quang V phải nộp 1.100.000 đồng tiền thu lợi bất chính từ hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có để sung ngân sách Nhà nước.

[3]. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS - 2015, Điểm a, c Khoản 1 Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa XIV.

[3.1] Án phí HSST: Buộc các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N, Hoàng Đức S và Trần Quang V mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng.

[3.2] Án phí DSST: Buộc các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến N, Hoàng Đức S mỗi bị cáo phải nộp 300.000 đồng.

[4]. Quyền kháng cáo đối với bản án: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hai, người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày được tống đạt trực tiếp hoặc niêm yết công khai bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật./

Tải về
Bản án số 43/2019/HSST Bản án số 43/2019/HSST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất