Bản án số 42/2025/DS-ST ngày 22/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 42/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 42/2025/DS-ST ngày 22/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 3 - Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Số hiệu: 42/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Công ty Đ khởi kiện ông Trần Danh B về Hợp đồng giao khoán trồng rừng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 3 - BẮC NINH
Bản án số: 42/2025/DS-ST
Ngày 22/9/2025
V/v: Tranh chấp Hợp đồng
giao nhận khoán trồng rừng
sản xuất.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 3- BẮC NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Xuân Toàn
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Thân Văn Bình
2. Ông Dương Ngô Phiên
Thư ký phiên tòa: Trương Thị Minh Trang- Thư viên Toà án nhân n
Khu vực 3- Bắc Ninh.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Khu vực 3 tham gia phiên toà: Ông Ngô
Đức Nghiêm- Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 9 năm 2025, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân Khu vực
3, tỉnh Bắc Ninh xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 90 ngày 01/7/2025
(số 58/2025/TLST-DS ngày 28 tháng 5 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Yên
Thế cũ) về việcTranh chấp Hợp đồng giao nhận khoán trồng rừng sản xuất”. Theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2025/TLST-DS ngày 14 tháng 8 năm 2025;
Quyết định hoãn phiên a số 72/2025/QĐST-DS ngày 04 tháng 9 năm 2025, giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH MTV L1; Địa chỉ trụ sở: Số E đường X, H,
tỉnh Lạng Sơn.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Chu Thanh C, sinh năm 1974; Chức vụ:
Giám Đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đức M; Chức vụ: Giám Đốc Lâm
trường Đ- Chi nhánh Công ty TNHH MTV L1; Địa chỉ: Thôn T, B, tỉnh Bắc Ninh
(Văn bản ủy quyền số 323a/GUQ-CT-TCHC ngày 15/5/2024)- Có mặt.
- Bị đơn: Ông Trần Danh B, sinh 1964; Nơi trú: Bản T, Đ, tỉnh Bắc Ninh
(xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang cũ)- Vắng mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa liên quan:
1. Đặng Thị Y, sinh năm 1967 (vợ ông B); Nơi trú: Bản T, xã Đ, tỉnh
Bắc Ninh- Vắng mặt.
2. Chị Trần Thị Y1, sinh năm 1991 (con ông B); Nơi trú: Bản T, xã Đ, tỉnh
Bắc Ninh- Vắng mặt.
3. Anh Trần Danh L, sinh năm 1993 (con ông B); Nơi trú: Bản T, Đ,
tỉnh Bắc Ninh- Vắng mặt.
4. Ủy ban nhân dân X, tỉnh Bắc Ninh (UBND Đ, huyện Y, tỉnh Bắc
Giang cũ)- Do ông Nguyễn Ngọc T- Phó chủ tịch UBND X đại diện theo ủy
quyền (văn bản ủy quyền số 367/QĐ-UBND ngày 03/9/2025). Địa chỉ trụ sở: xã X,
tỉnh Bắc Ninh- đơn xin vắng mặt.
5. Ủy ban nhân dân tỉnh B (UBND tỉnh B cũ)- Do ông Đào Ngọc Q- Chuyên
viên phòng quản đất đai, Sở Nông nghiệp M1 trường đại diện theo ủy quyền
quyền (văn bản ủy quyền số 782/QĐ-UBND ngày 29/8/2025). Địa chỉ Trụ sở:
Phường B, tỉnh Bắc Ninh- Có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai các tài liệu trong hồ vụ án cũng
như tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn (ông Nguyễn Đức M)
trình bày:
Ngày 05/6/2019, Lâm trường Đ thuộc Công ty TNHH MTV L1 có ký Hợp đồng số
15/HĐ-LT/2019 với ông Trần Danh B địa chỉ thường trú tại bản T, xã Đ, huyện
Y, tỉnh Bắc Giang (Hợp đồng giao khoán đất trồng rừng sản xuất theo chu kỳ kinh
doanh Mô hình 3 trên đất Công ty TNHH MTV L1, trên địa bàn xã Đ; thực hiện tại
a5 khoảnh 5 diện tích 1,94 ha). Mức khoán 36,0m
3
gỗ cây đứng/ha, sản phẩm
khoán hộ ông Ba P trả Lâm trường= 36m
3
gỗ cây đứng/ha x 1,94 ha= 69,84m3 gỗ
cây đứng;
rừng a5 khoảnh 5 thuộc diện tích đất của Lâm trường Đồng Sơn/Công ty
TNHHMTV Lâm nghiệp Đông Bắc, được UBND tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất theo Quyết định 1003/QĐ-CT, GCN QSDĐ số K592198 cấp ngày
15/8/1998
Ngày 27/11/2020 Công ty TNHH L1 được UBND tỉnh B cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo Quyết định số 1086/QĐ-UBND ngày 27/11/2020 quyết định
về việc cho Công ty TNHH L1 chuyển hình thức từ hình thức giao đất không thu
tiền sử dụng đất sang thuê đất (đợt 1) đối với diện ch đất đã được Nnước giao
quản lý, sdụng qua các thời kỳ và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số DB 418500 thuộc thửa đất số 1, tờ bản đồ số 128.
rừng a5 khoảnh 5 diện tích 1,94 ha, ông Trần Danh B hợp đồng với Đ
thuộc diện tích đất của Công ty TNHH MTV L2 được UBND tỉnh B cho thuê theo
Quyết định 1086/QĐ-UBND ngày 27/11/2020 đã được cấp GCN QSDĐ số DB
418500, thuộc thửa đất số 1 tờ bản đồ số 128.
Từ ngày 26 tháng 04 năm 2024 ông Trần Danh B tự ý tổ chức khai thác
rừng, lấy hết sản phẩm gỗ không nộp trả sản phẩm khoán của Lâm trường và chiếm
diện tích đất sau khai thác của Lâm trường Đ thuộc Công ty TNHH L1. Mặc Lâm
trường Đ đã rất nhiều lần làm việc với hộ ông B và đã đề nghị UBND xã Đ (nay là
xã X) hỗ trợ mời ông B đên trụ sở để giải quyết nhưng hộ ông Ba K chấp hành, cố
tình lấy hết sản phẩm khoán chiếm đất để tái sinh cây chồi trên đất của Lâm
trường.
Giá trị về lô đất là 19.400m
2
x 7.000đ/m
2
= 135.800.000 đồng.
Giá trị sản phẩm khoán phải nộp trả Lâm trường theo hợp đồng là 11,94 ha x
36,0 m
3
/ha x 1.000.000 đồng/m
3
= 69.840.000 đồng. Đơn gáp dụng theo Quyết
định số 221/QĐ-CT-LN ngày 21/9/2023 của Công ty TNHH L1 về việc ban hành
đơn giá thu hồi sản phẩm gỗ áp dụng trong thanh thu hồi vốn rừng trồng khoán
hộ (MH3). Hộ ông B chưa nhận tiền đầu tạo rừng của Lâm trường 15.617.000
đồng; số tiền còn phải nộp 54.223.000 đồng.
Tổng giá trị = 190.023.000 đồng (Một trăm chín mươi triệu, không trăm hai
mươi ba nghìn đồng), gồm: tiền sảm phẩm gỗ: Tiền sản phẩm gỗ phải trả Công ty:
54.223.000 đồng, tiền giá trị lô đất: 135.800.000 đồng.
Việc ông Trần Danh B tự ý khai thác sau đó chiếm đất của Lâm trường đã vi
phạm khoản f, h, i mục 5.1 Điều 5 của hợp đồng.
Tài liệu, bằng chứng có liên quan đến hợp đồng và thửa đất nêu trên:
- Quyết định số 175/UB ngày 18/3/1987 của UBND tỉnh H vviệc giao đất, giao
rừng cho liên hiệp các xí nghiệp gỗ trụ mỏ quản lý, đầu tư sản xuất kinh doanh;
- Quyết định số 177/QĐ-UB ngày 23/3/1987 của UBND tỉnh H, về việc giao đất,
giao rừng cho liên hiệp các xí nghiệp gỗ trụ mỏ quản lý, đầu sản xuất kinh doanh;
- Quyết định số 1003/QĐ-CT ngày 15/8/1998 của Chủ tịch UBND tỉnh B về
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Lâm trường Đ.
- Quyết định số 1086/QĐ-UBND ngày 27/11/2020 của UBND tỉnh B về việc
cho Công ty TNHH L1 chuyển hình thức từ giao đất không thu tiền sử dụng đất sang
thuê đất (đợt 1) đối với diện tích đất đã được Nhà nước giao quản lý, sử dụng qua
các thời kỳ.
rừng trên thuộc diện tích đất của Lâm trường Đ, được UBND tỉnh cấp Giấy
CNQSD đất theo Quyết định số 1003/QĐ-CT, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số K 592198, cấp ngày 15/8/1998 và đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
DB 418500 do UBND tỉnh B cấp ngày 25/8/2021 cho Công ty TNHH L1, thuộc thửa
số 1, tờ bản đồ số 128 theo Quyết định số 1086/QĐ-UBND ngày 27/11/2020 của
UBND tỉnh B.
Sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất qua các thời kỳ, Lâm trường
Đ đã thực hiện việc trồng rừng ổn định nhiều chu kỳ.
Ngày 26/4/2024, Lâm trường Đ phối hợp với Hạt kiểm lâm huyện Y đến hiện trường
khai thác để kiểm tra. Sau khi kiểm tra thực tế hiện trạng rừng bị chặt phá 0.06ha,
năm 2023 bị cháy ảnh hưởng khoảng 0,4ha. Hộ ông B ý kiến: Do rừng bị cháy,
chất lượng rừng xấu, gia đình chỉ bns được khoảng 190.000.000đ- 200.000.000đ nên
gia đình xin được nộp số tiền là q0 triệu đồn.
Ngày 15/5/2014, Lâm trường Đ phối hợp với Hạt kiểm lâm huyện Y đến nhà ông B
để làm việc do gia đình ông B đã khai thác rừng chưa nộp sản phẩm khoán, chưa
thanh hợp đồng. Ông B ý kiến đã bán toàn bộ số cây cho ông Trần Thế T1, ông
T1 chịu trách nhiệm nộp tiền sản phẩm khoán
Ngày 04/6/2024 Lâm trường Đ Thông báo số 85 về việc đình chỉ khai thác, vận
chuyển trái phép gỗ rừng trồng sản xuất đối với ông Trần Danh B, nhưng ông Ba K
chấp hành.
Vì vậy, Công ty TNHH L1 có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
Công nhận diện tích 1,94ha đất rừng tại a5, khoảnh 5, đội Đ, Lâm trường
Đ quản lý, thuộc quyền sử dụng của Công ty TNHH MTV L1.
Buộc ông Trần D Ba cùng vợ làĐặng Thị Y chặt toàn bộ số cây trồng trên
đất, trả cho Công ty TNHH MTV L2 01 diện tích 1,94ha đất rừng tại lô a5, khoảnh
5, thuộc đội Đ, Lâm trường Đ quản lý.
Buộc ông Trần D Ba cùng vợ là bà Đặng Thị Y trả tiền sản phẩm khoán cho
Công ty TNHH MTV L1 theo hợp đồng là: 11,94ha x 36,0m3/ha x 1.000.000đ/m3=
69.840.000đ (Sáu mươi chín triệu tám trăm bốn mươi nghìn đồng). Hộ ông B chưa
nhận tiền đầu tạo rừng của Lâm trường 15.617.000đ, số tiền còn phải nộp
54.223.000đ (Năm mươi tư triệu hai trăm hai mươi ba nghìn đồng). Đơn giá áp dụng
theo Quyết định số 221/QĐ-CT-LN ngày 21/9/2023 của Công ty TNHH MTV L1,
về việc Ban hành đơn giá thu hồi sản phẩm gỗ áp dụng trong thanh thu hồi vốn
rừng trồng khoán hộ (MH3);
Tại Tòa án, ngày 13 tháng 8 năm 2025, người đại diện hợp pháp của nguyên
đơn co đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án nhân dân Khu vực 3- Bắc
Ninh giải quyết:
- Đnghị tuyên chấm dứt Hợp đồng số 15/HĐ-LT/2019 ngày 05/6/2019
giữa Lâm trường Đ thuộc Công ty TNHH MTV L1 với ông Trần Danh B, địa chỉ:
Bản T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang (nay là bản T, xã Đ, tỉnh Bắc Ninh) tại lô a5
khoảnh 5 diện tích 1,94 ha giải quyết hậu quả pháp của việc chấm dứt hợp
đồng:
+ Buộc ông Trần D Ba cùng vợ là bà Đặng Thị Y chặt toàn bộ số cây trên đất
(cây mọc chồi), trả cho Công ty TNHH MTV L2 01 diện tích 1,94ha đất rừng tại lô
a5, khoảnh 5, thuộc đội Đ, Lâm trường Đ quản lý.
+ Buộc ông Trần Danh B trả tiền sản phẩm khoán cho Công ty TNHH MTV
L1 theo hợp đồng là: 11,94ha x 36,0m3/ha x 1.000.000đ/m3= 69.840.000đ (Sáu
mươi chín triệu tám trăm bốn mươi nghìn đồng). Ông B chưa nhận tiền đầu tạo
rừng của Lâm trường 15.617.000đ, số tiền còn phải nộp là 54.223.000đ (Năm mươi
tư triệu hai trăm hai mươi ba nghìn đồng).
Đối với yêu cầu: Công nhận diện tích 1,94ha đất rừng tại lô a5, khoảnh 5, đội
Đ, Lâm trường Đ quản lý, thuộc quyền sử dụng của Công ty TNHH MTV L2. Người
đại diện hợp pháp của nguyên đơn xác định lô đất đã được UBND tỉnh B cấp Giấy
CNQSD đất số DB 418500 cấp ngày 25/8/2021 cho Công ty TNHH L1, thuộc thửa
số 1, tờ bản đồ số 128 theo Quyết định s1086/QĐ-UBND ngày 27/11/2020 của
UBND tỉnh B. vậy, Công ty TNHH L1 thay đổi yêu cầu khởi kiện ban đầu, không
yêu cầu Tòa án giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện này.
- Bị đơn (ông Trần Danh B): Không gửi ý kiến, văn bản đến Tòa án, vậy
không ý kiến, quan điểm lưu trong hsơ. Tại Biên bản làm việc giữa Lâm
trường Đ, Hạt Kiểm lâm huyện Y với ông Trần Danh B ngày 26/4/2024 ngày
15/5/2024 do Công ty TNHH MTV L1 giao nộp kèm theo đơn khởi kiện, tại hai biên
bản này ông B Y ý kiến: Do rừng bị cháy, chất lượng rừng xấu, gia đình chỉ
bán được khoảng 190.000.00- 200.000.000đ nên gia đình xin được nộp số tiền là
10 triệu đồng. Ông B đã bán toàn bộ số cây cho ông Trần Thế T1, ông T1 chịu trách
nhiệm nộp tiền sản phẩm khoán.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan (bà Đặng Thị Y) trình bày: yên
thừa nhận gia đình bà có ký kết hợp đồng giao khoán rừng với Lâm trường Đ. Hiện
nay đã khai thác được 03 chu kỳ cây bạch đàn. Hai chu kỳ đầu tiên gia đình Y
vẫn trả tiền theo hợp đồng đầy đủ. Đến chu kỳ thứ 3 do khai thác không hiệu quả, bị
thua lỗ nhiều nên không có tiền để trả cho Lâm trường Đ. Bà Y đã đề nghị với Lâm
trường Đ nhiều lần về việc miễn thuế theo hợp đồng. Tuy nhiên, Lâm trường Đ
không đồng ý. Đối với chu kỳ thứ 3 sau khi khai thác gia đình bà Y có bán cho ông
Trần Thế T1 bản K, xã Đ được 120 triệu đồng, thỏa thuận ông T1 phải thanh toán
tiền thuế cho Lâm trường Đ nên bà Y đề nghị Lâm trường Đ làm việc với ông T1.
Đối với các văn bản tố tụng của Tòa án, gia đình Y đã nhận được, tuy nhiên do
Y lớn tuổi, ông Ba K nghe tốt, mắt kém nên không đi đến Tòa án làm việc được.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan (chị Trần Thị Y1, anh Trần Danh
L): Không gửi ý kiến, văn bản đến Tòa án, vậy không có ý kiến, quan điểm gì lưu
trong hồ sơ.
- Người đại diện hợp pháp của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
(UBND xã X) trình bày:
a5 khoảnh 5 diện tích 1,94 ha, ông Trần Danh B hợp đồng với Lâm
trường Đ không thuộc diện tích đất UBND tỉnh B thu hồi theo Quyết định số 39/QĐ-
UBND, ngày 14/4/2010.
a5 khoảnh 5 diện tích 1,94 ha, ông Trần Danh B hợp đồng với Lâm
trường Đ thuộc diện tích đất của Công ty TNHH MTV L2 được UBND tỉnh B cho
thuê theo Quyết định s1086/QĐ-UBND ngày 27/11/2020 đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 418500 thuộc thửa đất số 1, tờ bản đồ số 128.
Như vậy, quyền quản lý và sử dụng đất thuộc Công ty TNHH MTV L1.
- Người đại diện hợp pháp của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
(UBND tỉnh B) trình y: Qua xem xét hồ sơ cho thấy, quy trình ban hành Quyết
định số 1086/QĐ-UBND ngày 27/11/2020 của UBND tỉnh B là đảm bảo chặt chẽ,
đúng quy định của pháp luật.
- Ngày 25/7/2025, Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ và định giá
tài sản đối với diện tích 1,94ha đất rừng tại lô a5, khoảnh 5; địa chỉ: Bản K, xã X,
tỉnh Bắc Ninh (Bản K, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang cũ):
đất các mặt tiếp giáp: Phía Bắc giáp với đất của Công ty L1 hợp
đồng với hộ Lương Thị T2; Phía Nam giáp với đất của Công ty L1 hợp đồng
với hộ ông Trần Thế T3 (a7, khoảnh 5); Phía Tây giáp với a6, khoảnh 5; Phí
Đông giáp với lô 37 giáp Lạng Sơn.
Trên đất c cây bạch đàn (bạch đàn chồi), đường kính thân cây 3,5cm,
chiều cao từ 3,0m, mật độ cây: 1600 cây/1ha.
Giá đất rừng: 12.000đ/1m2; diện tích đo thực tế 17192,9m
2
x 12.000đ=
206.314.800đ.
Cây bạch đàn (chồi), đường kính thân cây 3,5cm, chiều cao từ 3,0m, mật độ
cây: 1600 cây/1ha; giá cây: 32.000đ/1 cây. Tính theo diện tích 1,94ha là 2.750 cây;
giá trị là 2.750 cây x 32.000đ= 88.000.000đ (T4 mươi tám triệu đồng).
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 3- Bắc Ninh phát biểu
ý kiến, việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm
phán, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng theo quy định; Việc chấp hành pháp luật
của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ vụ án cho đến trước thời điểm
Hội đồng xét xử nghị án bản đúng quy định của của B luật tố tụng dân sự; đối
với bị đơn là ông Trần Danh B, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: bà Đặng Thị
Y, chị Trần Thị Y1, anh Trần Danh L không chấp hành theo đúng quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 3 Điều 26;
khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 157; Điều 165; Điều 227; Điều 228;
khoản 1 Điều 244; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản
1 Điều 275; khoản 1 Điều 422; Điều 428; các Điều: 504, 505, 507, 508, 512, khoản
2 Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự; Điều 135, khoản 3 Điều 188; Điều 167
của Luật đất đai; đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV L1.
Tuyên bố chấm dứt Hợp đồng số 15/HĐ-LT/2019 ngày 05/6/2019 giữa
Lâm trường Đ thuộc Công ty TNHH MTV L1 với ông Trần Danh B, địa chỉ: Bản T,
Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang (nay là Bản Tràng B1, Đ, tỉnh Bắc Ninh) tại lô a5,
khoảnh 5, diện tích 1,94ha; địa chỉ đất: Bản K, Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang
(nay là xã X, tỉnh Bắc Ninh);
Buộc ông Trần D Ba phải nghĩa vụ trả sản phẩm khoán cho Công ty TNHH
MTV L1 theo hợp đồng số 15/HĐ-LT/2019 ngày 05/6/2019, số tiền là
54.223.000đ (Năm mươi tư triệu hai trăm hai mươi ba nghìn đồng);
Buộc ông Trần Danh B Đặng Thị Y phải nghĩa vụ thu hoạch, chặt bỏ
toàn bộ số cây bạch đàn (cây chi) mà ông B đã tự ý để mọc chồi trên lô đất a5, gồm
2.750 cây cây bạch đàn chồi, trả Công ty TNHH MTV L1 tổng diện tích đất trồng
rừng 1,94ha tại a5, khoảnh 5, do đội Đồng Tiến - Lâm trường Đ quản (đã
được đo đạc thẩm định ngày 25/7/2025); a5 nằm trong tổng diện tích đất đã được
UBND tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 25/8/2021, thửa đất số
1, tờ bản đồ số 128; Địa chỉ thửa đất: xã X, tỉnh Bắc Ninh (xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc
Giang cũ) cấp cho Công ty TNHH L1; số GCNQSD đất: DB 418500; vào sổ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS0 1868/Q03; Vào sổ địa chính trang số
104; Quyển số 41; theo Quyết định số 1086/QĐ-UBND ngày 27/11/2020 của UBND
tỉnh B về việc cho Công ty TNHH L1 chuyển hình thức từ giao đất không thu tiền
sử dụng đất sang thuê đất (đợt 1) đối với diện tích đất đã được Nhà nước giao quản
lý, sử dụng qua các thời kỳ; đất a5 diện tích, kích thước các cạnh, các điểm tiếp
giáp cụ thể được xác định như tại bản “Trích đo địa chính, hiện trạng” do Công ty
TNHH một thành viên T5 đo đạc ngày 25/7/2025 (Có đồ kèm theo); cụ thể các
điểm tiếp giáp cụ thể như sau: Điểm 1+2= 107,46m; 2+ 3= 32,34m; 3+ 4= 36,99m;
4+5= 58,72m; 5+6= 48,92m; 6+7= 43,16m; 7+8= 20,55m; 8+9= 31,01m; 9+10=
19,97m; 10+11= 29,81m; 11+12= 8,60m; 12+13= 15,00m; 13+14= 7,28m; 14+15=
15,81m; 15+16= 13,45m; 16+17= 13,57m; 17+1= 47,24m.
Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Ông Trần Danh Ba
P thanh toán trả cho Công ty TNHH MTV L1 toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại
chỗ theo quy định của pháp luật 11.559.000đ (Mười một triệu năm trăm lăm mươi
chín nghìn đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến
khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Về án phí: Miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm cho ông Trần Danh B. Hoàn trả
tiền tạm ứng án phí cho Công ty TNHH L1 số tiền 4.750.000đ (Bốn triệu bẩy trăm
lăm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002033
ngày 22/5/2025 tại Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Bị đơn, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp của
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà, có đơn xin vắng mặt
tại phiên toà; đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ 2. Căn cứ vào Điều 277,
Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy
định.
Căn cứ đơn khởi kiện của Công ty TNHH L1 đây xác định quan htranh
chấp Tranh chấp Hợp đồng giao nhận khoán trồng rừng sản xuất”, quy định tại
khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ tranh chấp:
[2].1. Xét yêu cầu của Công ty TNHH L1 yêu cầu Tòa án giải quyết: Tuyên
chấm dứt Hợp đồng số 15/HĐ-LT/2019 ngày 05/6/2019 giữa Lâm trường Đ thuộc
Công ty TNHH MTV L1 với ông Trần Danh B, địa chỉ: Bản T, xã Đ, huyện Y, tỉnh
Bắc Giang tại a5, khoảnh 5, diện tích 1,94ha giải quyết hậu quả pháp của
việc chấm dứt hợp đồng, trả sản phẩm khoán cho Công ty L1 theo hợp đồng là:
54.223.000đ (Năm mươi tư triệu hai trăm hai mươi ba nghìn đồng), thấy rằng:
Người đại diện hợp pháp của Công ty TNHH L1 xác định hai bên kết
Hợp đồng giao nhận khoán số 15/HĐ-LT/2019 ký ngày 05/6/2019 tại lô a5, khoảnh
5, diện tích 1,94ha, thời hạn thực hiện hợp đồng 7 năm (giai đoạn tnăm 2019)
với mức khoán 36,0m3/1ha: a5, khoảnh 5, diện tích 1,94 ha x 36,0 m3/ha x
1.000.000 đồng/m3 = 69.840.000 đồng. Hộ ông B chưa nhận tiền đầu tạo rừng
của Lâm trường 15.617.000 đồng; số tiền còn phải nộp 54.223.000 đồng (Bằng chữ:
Năm mươi triệu, hai trăm hai mươi ba nghìn đồng). Tại Hợp đồng giao nhận
khoán số 15/HĐ-LT/2019 ngày 05/6/2019 do Công ty TNHH L1 giao nộp kèm theo
đơn khởi kiện thể hiện ông Trần Danh B người trực tiếp ký hợp đồng số 15/HĐ-
LT/2019 với Lâm trường Đ. Tại Biên bản làm việc giữa Lâm trường Đ, Hạt Kiểm
lâm với ông Ba ngày 15/5/2024 do Công ty TNHH MTV L1 giao nộp kèm theo đơn
khởi kiện, ông B thừa nhận Hợp đồng s15/HĐ-LT/2019 ký ngày 05/6/2019 là do
ông B ký, ông B đã bán toàn bộ gỗ cho ông Trần Thế T1 nên ông T1 chịu trách
nhiệm trả sản phẩm khoán. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án ông B đã được
Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án để làm việc, không gửi văn bản, ý
kiến đến Tòa án. Theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự
quy định về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh thì tình tiết “một n
đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản,
kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó
không phải chứng minh”. Y vợ của ông B cũng xác nhận gia đình đã hợp
đồng nhận khoán trồng rừng với Lâm trường Đ 03 chu kỳ, đến chu kỳ thứ ba đã bán
gỗ được 120 triệu đồng nhưng không nộp sản phẩm khoán do người mua gỗ nhận
trách nhiệm trả sản phẩm khoán cho Lâm trường. Vì vậy, xác định việc giữa ông B
Lâm trường Đ kết Hợp đồng giao nhận khoán số 15/HĐ-LT/2019 ngày
05/6/2019 tại a5, khoảnh 5, diện tích 1,94ha, thời hạn thực hiện hợp đồng là 7
năm (giai đoạn từ năm 2019) với mức khoán 36,0m3/1ha: lô a5, khoảnh 5, diện tích
1,94 ha x 36,0 m3/ha x 1.000.000 đồng/m3 = 69.840.000 đồng là có căn cứ. Ông B
chưa nhận tiền đầu tạo rừng của Lâm trường 15.617.000 đồng; số tiền còn phải
nộp 54.223.000 đồng (Bằng chữ: Năm mươi tư triệu hai trăm hai mươi ba nghìn
đồng).
Đối với ý kiến của ông Trần Danh B và bà Y trình bày về việc ông B chuyển
bán toàn bộ cây rừng tại a5 cho ông Trần Thế T1, ông T1 phải nộp tiền sản
phẩm khoán cho Lâm trường. Theo thỏa thuận trong hợp đồng giữa ông B với Lâm
trường Đ không thỏa thuận vviệc người mua gỗ chịu trách nhiệm nộp sản phẩn
cho Lâm trường. Do đó thỏa thuận giữa ông Bông T1 không được pháp luật bảo
vệ, ông B vẫn là người chịu trách nhiệm trả sản phẩm khoán cho Công ty L1 theo
hợp đồng số 15/HĐ-LT/2019 nêu trên.
Thời hạn của hợp đồng 07 năm (từ năm 2019), trong hợp đồng không ghi
thời gian kết thúc của hợp đồng. Tuy nhiên, từ ngày 26/4/2024 ông B tự ý khai thác
lô rừng chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Lâm trường Đ, lấy hết sản phẩm gỗ
không nộp trả sản phẩm khoán cho Công ty L1 là vi phạm điểm h khoản 5.1 Điều 5
của Hợp đồng. Công ty TNHH MTV L1 xác định đến năm 2025 là ngày hết hạn của
hợp đồng nhưng ông B không đơn gửi đến Lâm trường Đ đề nghị tiếp tục được
nhận khoán lô đất nhưng vẫn không chịu trả lại đất cho Công ty L1, đã vi phạm vào
điểm i khoản 5.1 Điều 5 của Hợp đồng. vậy, yêu cầu khởi kiện của ng ty
TNHH L1 đề nghị tuyên chấm dứt Hợp đồng số 15/HĐ-LT/2019 ngày 05/6/2019
giữa Lâm trường Đ thuộc Công ty TNHH MTV L1 với ông Trần Danh B là có căn
cứ, cần được chấp nhận.
Đến nay ông B vẫn chưa thanh toán trả sản phẩm khoán kinh doanh trồng
rừng cho Lâm trường Đ. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện này của Công ty TNHH L1
căn cứ, cần buộc ông Trần D Ba phải có trách nhiệm thanh toán trả Công ty TNHH
L1 số tiền 54.223.000 đồng (Bằng chữ: Năm mươi triệu hai trăm hai mươi ba
nghìn đồng) theo hợp đồng nêu trên.
[2].2. Xét yêu cầu của Công ty TNHH L1 yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông
Trần Danh B Đặng Thị Y chặt toàn bộ số cây trồng trên đất, trả Công ty TNHH
MTV L2 trường L2 diện tích 1,94ha đất rừng tại a5, khoảnh 5, thuộc đội Đồng
Tiến - Lâm trường Đ quản lý, thấy rằng:
Ngày 27/11/2020 Công ty TNHH một thành viên L2 được UBND tỉnh B cấp
GCNQSD đất theo Quyết định số 1086/QĐ-UBND tỉnh B quyết định về việc cho
Công ty TNHH một thành viên L1 chuyển hình thức từ giao đất không thu tiền sử
dụng đất sang thđất đối với diện tích đất đã được Nhà nước giao quản lý, sử dụng
qua các thời kỳ, diện tích đất rừng sản xuất tại xã Đ là: 3.501.730,0m
2
, gồm 08 thửa
thuộc 05 tờ bản đồ.
UBND tỉnh B quan điểm, xác định quy trình ban hành Quyết định số
1086/QĐ-UBND ngày 27/11/2020 của UBND tỉnh B đảm bảo chặt chẽ, đúng quy
định của pháp luật.
Công ty L1 xác định: Sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
qua các thời kỳ, Lâm trường Đ đã thực hiện việc trồng rừng ổn định nhều chu kỳ.
Ngày 05/6/2019, Lâm trường Hợp đồng số 15/HĐ-LT/2019 với ông Trần Danh
B, về việc giao nhận khoán sử dụng đất và đầu tư vốn trồng rừng sản xuất thực hiện
tại a5 khoảnh 5, diện tích 1,94ha. Tuy nhiên từ ngày 26/4/2024 ông B tự ý khai
thác lô rừng, lấy hết sản phẩm gỗ không nộp trả sản phẩm khoán và chiếm diện tích
đất sau khi thác của Lâm trường Đ thuộc Công ty TNHH MTV L1 nên đã phát sinh
tranh chấp. Ngày 15/5/2024, Lâm trường Đ phối hợp cùng Hạt kiểm Lâm Yên Thế
đã làm việc với ông B, ông B cũng thừa nhận Hợp đồng số 15/HĐ-LT/2019 ký ngày
05/6/2019 do ông B ký, ông B đã bán gỗ cho ông T1 nên ông T1 phải nộp sản
phẩm khoán cho Lâm trường.
Từ các tài liệu chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xcó đủ căn cứ để xác định
diện tích 1,94ha đất rừng tại a5, khoảnh 5, thuộc đội Đồng Tiến - Lâm trường Đ
quản lý (đã được đo đạc thẩm định ngày 25/7/2025- diện tích đo thực tế là
17192,9m2) thuộc quyền quản lý và sử dụng của Công ty TNHH một thành viên L1
theo Quyết định số 1086/QĐ-UBND ngày 27/11/2020 của UBND tỉnh B về việc cho
Công ty TNHH L1 chuyển hình thức từ giao đất không thu tiền sdụng đất sang
thuê đất (đợt 1) đối với diện tích đất đã được Nhà nước giao quản lý, sử dụng qua
các thời kỳ; tại thửa đất số 1, tờ bản đồ số 128; Địa chỉ thửa đất: X, tỉnh Bắc Ninh
(xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang ), được UBND tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ngày 25/8/2021; cấp cho Công ty TNHH L1; số GCNQSD đất: DB
418500; vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 01843/Q03. Vào sổ
địa chính trang số 104; Quyển số 41.
Giữa Công ty TNHH L1 ông B đã hợp đồng trồng rừng số 15/HĐ-
LT/2019 ngày 05/6/2019, sau khi tự ý khai thác gỗ năm 2024 hết hạn của hợp
đồng giao nhận khoán trồng rừng tại Hợp đồng giao nhận khoán ông Ba K tiếp tục
hợp đồng trồng rừng (chu kỳ tiếp theo) với Công ty TNHH L1 nữa. Tuy nhiên,
ông B vẫn tự ý chiếm giữ đất nêu trên của Công ty TNHH L1 để tạo chồi bạch
đàn phát triển, cụ thể: Tại a5 2750 cây bạch đàn chồi (tại thời điểm định giá
25/7/2025), không tự nguyện trả lại cho Công ty TNHH L1 đất nêu trên vi phạm
vào điểm i khoản 5.1 Điều 5 của Hợp đồng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của Công ty TNHH L1. vậy, yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH L1
căn cứ, cần buộc ông Trần Danh B Đặng Thị Y phải nghĩa vụ thu hoạch,
chặt bỏ toàn bộ số cây bạch đàn mà gia đình ông B, bà Y đã tự ý cho mọc chồi trên
lô đất nêu trên để trả lại mặt bằng toàn bộ diện tích lô đất a5 khoảnh 5 cho Công ty
TNHH L1. Ông Trần Danh Ba P có trách nhiệm giao trả lại cho Công ty TNHH L1
tổng diện tích đất trồng rừng 1,94ha tại a5, khoảnh 5 diện ch đo thực tế
17192,9m2 (đã được Công ty TNHH Một thành viên T5 thẩm định ngày 25/7/2025).
[2].3. Xét việc Công ty TNHH L1 thay đổi yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu
Tòa án giải quyết đối với yêu cầu: Công nhận diện tích 1,94ha đất rừng a5, khoảnh
5, đội Đ, Lâm trường Đ quản lý, thuộc quyền sử dụng của Công ty TNHH L1phù
hợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật ttụng dân sự, vậy không xem
xét giải quyết trong bản án này.
[3]. Về chi phí tố tụng: Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, Công
ty TNHH L1 đã ứng chi để Tòa án tiến hành thành lập Hội đồng thẩm định, định giá
đất tài sản trên phần đất tranh chấp hết số tiền 11.559.000đồng (Mười một
triệu năm trăm lăm mươi chín nghìn đồng). Nay yêu cầu khởi kiện của Công ty
TNHH L1 được chấp nhận. Công ty TNHH L1 yêu cầu ông Trần D Ba phải thanh
toán trả tiền tạm ứng chi phí tố tụng cho Công ty, xét phù hợp với quy định tại
Điều 165 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy cần buộc ông Trần D Ba phải thanh toán
trả cho Công ty TNHH L1 toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài
sản là 11.559.000đồng (Mười một triệu năm trăm lăm mươi chín nghìn đồng).
[4]. Về án phí: Yêu cầu của Công ty TNHH L1 được chấp nhận, vì vậy Công
ty TNHH L1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; ông Trần Danh B người cao
tuổi nên được miễn án phí dân sự thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều
12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 157;
Điều 165; Điều 227; Điều 228; khoản 1 Điều 244; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của
Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 275; khoản 1 Điều 422; Điều 428; các Điều:
504, 505, 507, 508, 512, khoản 2 Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự; Điều 135,
khoản 3 Điều 188; Điều 167 của Luật đất đai; đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí,
lệ phí Tòa án; Xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV L1.
Tuyên bố chấm dứt Hợp đồng số 15/HĐ-LT/2019 ngày 05/6/2019 giữa
Lâm trường Đ thuộc Công ty TNHH MTV L1 với ông Trần Danh B, địa chỉ: Bản T,
Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang (nay là Bản Tràng B1, Đ, tỉnh Bắc Ninh) tại lô a5,
khoảnh 5, diện tích 1,94ha; địa chỉ đất: Bản K, Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang
(nay là xã X, tỉnh Bắc Ninh);
Buộc ông Trần D Ba phải nghĩa vụ trả sản phẩm khoán cho Công ty TNHH
MTV L1 theo hợp đồng số 15/HĐ-LT/2019 ngày 05/6/2019, số tiền
54.223.000đ (Năm mươi tư triệu hai trăm hai mươi ba nghìn đồng);
Buộc ông Trần Danh B Đặng Thị Y phải nghĩa vụ thu hoạch, chặt bỏ
toàn bộ số cây bạch đàn (cây chồi) mà ông B đã tự ý để mọc chồi trên lô đất a5, gồm
2.750 cây cây bạch đàn chồi, trả Công ty TNHH MTV L1 tổng diện tích đất trồng
rừng 1,94ha tại a5, khoảnh 5, do đội Đồng Tiến - Lâm trường Đ quản (đã
được đo đạc thẩm định ngày 25/7/2025); a5 nằm trong tổng diện tích đất đã được
UBND tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 25/8/2021, thửa đất số
1, tờ bản đồ số 128; Địa chỉ thửa đất: xã X, tỉnh Bắc Ninh (xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc
Giang cũ) cấp cho Công ty TNHH L1; số GCNQSD đất: DB 418500; vào sổ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS0 1868/Q03; Vào sổ địa chính trang số
104; Quyển số 41; theo Quyết định số 1086/QĐ-UBND ngày 27/11/2020 của UBND
tỉnh B về việc cho Công ty TNHH L1 chuyển hình thức từ giao đất không thu tiền
sử dụng đất sang thuê đất (đợt 1) đối với diện tích đất đã được Nhà nước giao quản
lý, sử dụng qua các thời kỳ; đất a5 diện tích, kích thước các cạnh, các điểm tiếp
giáp cụ thể được xác định như tại bản “Trích đo địa chính, hiện trạng” do Công ty
TNHH một thành viên T5 đo đạc ngày 25/7/2025 (Có đồ kèm theo); cụ thể các
điểm tiếp giáp cụ thể như sau: Điểm 1+2= 107,46m; 2+ 3= 32,34m; 3+ 4= 36,99m;
4+5= 58,72m; 5+6= 48,92m; 6+7= 43,16m; 7+8= 20,55m; 8+9= 31,01m; 9+10=
19,97m; 10+11= 29,81m; 11+12= 8,60m; 12+13= 15,00m; 13+14= 7,28m; 14+15=
15,81m; 15+16= 13,45m; 16+17= 13,57m; 17+1= 47,24m.
Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Ông Trần Danh Ba
P thanh toán trả cho Công ty TNHH MTV L1 toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại
chỗ theo quy định của pháp luật 11.559.000đ (Mười một triệu năm trăm lăm mươi
chín nghìn đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến
khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Về án phí: Miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm cho ông Trần Danh B. Hoàn trả
tiền tạm ứng án phí cho Công ty TNHH L1 số tiền 4.750.000đ (Bốn triệu bẩy trăm
lăm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002033
ngày 22/5/2025 tại Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Báo cho đương sự mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày
được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án vắng mặt hợp lệ.
Nơi nhận:
- TAND tinh Bắc Ninh;
- VKSND Khu vực 3;
- VKSND tỉnh Bắc Ninh;
- THADS tỉnh Bắc Ninh;
- Các đương sự;
- Cổng thông tin điện tử
Tòa án Tối cao;
- Lưu HS.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Xuân Toàn
Tải về
Bản án số 42/2025/DS-ST Bản án số 42/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 42/2025/DS-ST Bản án số 42/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất