Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST ngày 30/09/2024 của TAND TX. Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 41/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST ngày 30/09/2024 của TAND TX. Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Sầm Sơn (TAND tỉnh Thanh Hóa)
Số hiệu: 41/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: T/C HNGĐ (Lê Quang Sáng - Đoàn Thị P)
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ SẦM SƠN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 41/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 30/9/2024
V/v: Ly hôn, chia tài sản khi ly hôn
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÕA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SẦM SƠN –TỈNH THANH HÓA
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Phong
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Văn Thơm
Bà Trịnh Thị Cúc
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Huy - TTòa án nhân dân thành
phố Sầm Sơn
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sầm Sơn, tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Thu Hà - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, Tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân dân thành
phố Sầm Sơn, xét xử thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ s:
223/2022/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2022 v việc Ly hôn, chia tài
sản khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2024/QĐXXST-DS
ngày 09 tháng 9 năm 2024, giữa:
Nguyên đơn: Ông Lê Quang S Sinh năm 1960
Địa chỉ: Số nhà 33, thôn N, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.
Bị đơn: Bà Đoàn Thị P Sinh năm 1951
Địa chỉ: TDP Q, phường T, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Ngƣời làm chứng:
Ông Nguyễn Hữu D SN 1955;
Bà Lê Thị H SN 1959;
Địa chỉ: Khu ph H, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.
Chị Lê Thị A SN 1981
Địa chỉ: Khu ph 2, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang
Bà Trương Thị D
Địa chỉ: Tổ 8, thị trấn C, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên
Ch Trương Th S SN 1988;
Địa chỉ: Xóm 13, xã Cù Vân, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
Ông Cao Ngc T SN 1957;
Đại chỉ: Thôn Đình Long, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.
(Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng bà Lê Thị H
chị Trương Thị S; Vắng mặt những người làm chứng khác)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 05 tháng 12 năm 2022 cũng như qua khai o,
nguyên đơn ông Quang S, trình bày: Ông bà Đoàn Thị P sau một thời
gian tìm hiểu, yêu thương nhau, ông đã đăng kết hôn vào năm 1982, tại
Ủy ban Quảng Tường, thị Sầm Sơn (nay phường T, thành phố Sầm
Sơn), tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh
phúc, chăm lo làm ăn. Năm 1983 vchồng sinh con trai đầu lòng cháu
Minh H1, năm 1988 sinh con gái thứ hai cháu Minh H. Quá trình chung
sống, vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, không tìm được tiếng nói chung, gia
đình hai bên nhiều lần hòa giải nhưng không được, vợ chồng đã ly thân mỗi
người mỗi nơi, P tại Sầm Sơn, Thanh Hóa, còn ông S tại Hoàng Hóa,
Thanh Hóa. Nay các con đã lớn, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng không thể khắc
phục được, tình cảm không còn, vậy ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông
được ly hôn bà P.
Về con chung: Vợ chồng hai con chung Minh H1, sinh ngày
11/7/1983, Minh H, sinh ngày 17/10/1988. Các cháu đã thành niên nên ông
không yêu cầu giải quyết.
Về tài sản: Vợ chồng tài sản chung quyền sử dụng đất tại phường T,
TP Sầm Sơn, với trị giá theo khung giá nhà nước khoảng 1.600.000.000 đồng,
thửa đất được ghi nhận qua hồ sơ địa chính qua các thời kỳ như sau:
- Theo h sơ 299 (đo v năm 1985), là tha s 525, t bn đồ s 1, din tích
1292m
2
, đứng tên Tha ma.
- Theo h sơ địa chính 382 (lp năm 1995), tha s 233, t bn đồ s 6,
din tích 881m2 (trong đó đất ở 180m2, đất vườn 701m2, đứng tên Đoàn Thị
P
- Theo hồ địa chính năm 2010, thửa số 54, tờ bản đồ số 23, diện tích
868m2, loại đất ODT, đứng tên hộ bà Đoàn Thị P.
Ông đề nghị giải quyết phân chia khối tài sản chung của vợ chồng mỗi
người được hưởng ½ tài sản quyền sử dụng đất nêu trên, tại phường T,
thành phố Sầm Sơn, trị giá khoảng 800.000.000 đồng.
Về công nợ: Vợ chồng không công nợ chung nên không yêu cầu giải
quyết
Trong đơn khởi kiện ông S ghi ông P đăng kết hôn tại ủy ban
Q (nay phường T), Ngày 23/12/2022 ông xuất trình cho Tòa án đơn đề
nghị xác nhận, UBND phường T đã xác nhận: Ông S và bà P không có hồ sơ lưu
trữ về việc đăng kết hôn tại phường. Tại bản khai ngày 27/10/2023 ông khai
lại, ông P đăng kết hôn tại UBND phường T1, thành phố Sầm Sơn
nhưng ông cũng không cung cấp được giấy đăng kết hôn của UBND phường
T1.
Bị đơn bà Đoàn Thị P, trình bày tại các bản khai và biên bản hòa giải.
Vhôn nhân: Vào năm 1982 gặp gỡ quen biết ông Quang S,
hai bên nảy sinh tình cảm qua lại với nhau như vợ chồng không đăng
kết hôn, không tổ chức cưới hỏi không thông báo cho hai bên gia đình
biết, năm 1983 con với ông S, sinh được cháu đầu là Minh H1, sau khi
cháu Hoàng ông ít qua lại với nhau, đến năm 1988 với ông đứa
con thứ hai Minh H, sau khi sinh cháu Hải, ông S về thăm con được ba
ngày, sau đó ông bỏ đi với người phụ nữ khác, kể từ thời gian đó ông S
không còn gặp nhau cho tới nay, thời gian ông S sống chung với nhau rất
ít, thỉnh thoảng qua lại, thời gian 1984 đến 1987 ông S không với nhau,
nay ông S yêu cầu ly hôn đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Bà
khẳng định giữa ông S không mối quan hhôn nhân, trước khi qua
lại tình cảm với bà thì ông S đã có vợ và có con ở P, tỉnh Kiên Giang.
Về con chung: ông S hai con chung Minh H1, sinh ngày
11/7/1983, cháu Minh H, sinh ngày 17/10/1988, sau khi sinh hai cháu, ông S
không có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu, một mình bà vất vả chăm
sóc nuôi dưỡng các con từ đến lúc trưởng thành, hiện nay cả hai cháu đã
thành niên và lập gia đình riêng nên bà không yêu cầu giải quyết.
Về tài sản: Ông S yêu cầu chia diện tích đất tại khu phố Quang Giáp,
phường T, mảnh đất hiện nay đang sinh sống, đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất năm 2011 mang tên thửa đất số 233, tờ bản đồ số 6,
diện tích 837m2, mảnh đất này là do một mình bà tạo lập nên. Nguồn gốc của
thửa đất là do một phần nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Hữu D
Thị H năm 1993 (diện tích khoảng 200m2) phần còn lại do bà khai hoang
thêm của bãi Tha ma và cống mương giáp ranh, tiền mua đất của ông D Hợi
với giá 3.000.000 đồng tiền do tích góp từ trước tiền nhận trợ cấp về
nghỉ hưu trước tuổi; Khi mua, trên đất đã căn nhà gạch cốm và các con
tạm cho đến năm 2009 làm căn nhà mới hơn 80m2 trồng một số cây cối
hoa màu trên đất, ông S không đóng góp công sức nên không đồng ý với
u cầu chia phần diện tích đất trên của ông S. Tại biên bản hòa giải ngày
27/12/2023 bà khẳng định: ông S không mối quan hvợ chồng, không
đăng ký kết hôn, chỉ qua lại với nhau sau đó sinh được hai cháu, trước và sau
khi qua lại tình cảm với thì ông S đã từng qua lại quan hệ tình cảm với
nhiều người phụ nữ khác con với họ. Do đó giữa bà ông S không
quan hệ vợ chống nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông S. Trước
đó ông S qua lại với nhiều người phụ nữ khác con chung, giấy khai
sinh, người phụ nữ đầu tiên và quan hệ hôn nhân với ông S Lương Kim
Thơ quê ở Phú Quốc và con một người con gái tên là Lê Thị A, sau thời điểm có
con với thì ông S quan hệ tình cảm với Trương Thị D Thái Nguyên
có một người con là Trương Thị S sau đó lại quan hệ với bà Lan ở Thủy điện
Sông Đà cũng một người con tên Thương (chưa xác định cụ thể chỉ
nghe nói), sau đó ông S còn quan hệ với Điều Hoàng Hóa một số người
phụ nữ khác, Do đó khẳng định bà không mối quan hệ hôn nhân với ông
Quang S. Không đồng ý với yêu cầu chia tài sản của ông S đó tài sản
riêng của bà tự tạo lập nên, ông S không có công sức đóng góp gì trong việc tạo
lập tài sản chung, mỗi lần ông S về không sự hỗ trtrong việc nuôi con, ông
S không biết bà mua đất lúc nào tạo lập đất vào lúc nào, diện tích bao nhiêu,
ông S không có đóng góp công sức gì trong việc mua đất.
Người làm chứng ông Nguyễn Hữu D, Thị H trình bày tại biên bản
lấy lời khai ngày 14/3/2024: Vợ chồng ông D Hợi với bà P đồng nghiệp
của nhau cùng khu tập thể với nhau tại Trường phổ thông sở Quảng
Tường, nay là phường T, thành phố Sầm Sơn, thời điểm đó là vào năm 1982 đến
năm 1986, sau năm 1986 ông mua đất của nhà ông Gạo ngay cạnh trường để
làm nhà riêng ở, gia đình ông đó cho đến năm 1993 thì bán lại cho
Phường, ông không quan hệ với ông S, ông chỉ biết ông S đến
chơi nhà Phường mấy lần tại khu tập thể nhà trường; Sau khi mua được đất ở
chỗ khác nên ông đã bán lại mảnh đất này cho Phường diện tích đất
khoảng 200m2, trên đất một ngôi nhà xây bằng gạch cốm, giá bán cả nhà
đất là 3.000.000 đồng, địa chỉ thửa đất là tại thôn Quang Giáp, xã Quảng Tường,
thị Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa (nay TDP Quang Giáp, phường T, TP Sầm
Sơn), chính là vị trí đất mẹ con bà P đang ở hiện nay, người mua đất và giao tiền
mua đất cho ông bà P, việc giao dịch mua bán đất cũng P, ông
không giao dịch với ông S, về ô thửa đất thì ông không biết, chỉ biết bán
cho P thửa đất vị trí như vậy thôi; Thửa đất tại thời điểm bán cho P
tiếp giáp như sau: Phía Đông giáp nhà ông Phương Thanh, phía Tây giáp đất
bãi Tha ma, phía Nam giáp nhà bà Sang, phía Bắc giáp đất trường học; Khi ông
bà ở thì không xây tường ngăn cách, không có tường rào, xung quanh nhà chỉ có
cây hoang dại bụi rậm như cây sa mọc, cây lá đắng ….; Bà P mua đất của ông bà
thì đưa tiền làm nhiều lần.
Người làm chứng chị Thị A trình bày tại bản trình bày ý kiến ngày
13/3/2024: Chị Lê Thị A, sinh ngày 17/5/1981, thường trú tại tổ 1, khu phố 2,
phường An Thới, Phú Quốc, Kiên Giang, chị đã nhận được thông báo đưa người
vào làm chứng số 01, ngày 02/01/2024 của Tòa án Sầm Sơn giấy triệu tập
đến tòa án làm việc vào ngày 16/01/2024, nhưng do điều kiện địa giới hành
chính quá xa nên chị không thể đến được, chị xin trình bày ý kiến như sau: Sau
khi đọc thông báo của a án, chị biết được nguyên đơn ông Quang S, sinh
năm 1960, địa chỉ snhà 33, thôn Ngọc Long, Hoàng Phong, huyện Hoàng
Hóa, tỉnh Thanh Hóa, chính là bố đẻ của chị; Chị là con gái của ông Lê Quang S
mẹ Lương Kim Thơ, sinh năm 1954 (đã chết). Theo lời kể của mchị
gia đình cũng ncon chòm xóm, ông Quang S mchị Lương
Kim Thơ chung sống vợ chồng với nhau tại địa chỉ tổ 1, khu phố 2, phường An
Thới, Phú Quốc, Kiên Giang bắt đầu từ khoảng năm 1980, có tổ chức cưới và có
thông báo cho gia đình bà con chòm xóm biết. việc ông S và mẹ chị chung sống
với nhau, chị con của ông đều được con chòm xóm biết. Chị cam
đoan lời khai trên đúng sự thật, nếu sai chxin chịu trách nhiệm trước pháp
luật.
Người làm chứng ông Cao Ngọc T trình bày tại bản khai ngày 09/01/2024.
Ông cùng quê Hoàng Phong, Hoàng Hóa với ông S, ông nhập ngũ cùng ngày
15/10/1976 với ông S, sau khi nhập ngũ được đưa về thành phố Mỹ Tho, tỉnh
Tiền Giang để huấn luyện tân binh 3 tháng, sau đó ông S được biên chế ra Phú
Quốc, còn ông lại Mỹ Tho Tiền Giang; Năm 1977 ông đi học trường sỹ
quan chỉ huy kỹ thuật Hải Quân, đến tháng 10/1980 ra trường, ông được điều về
đảo Cota Campuchia công tác, đến tháng 9/1989 được điều động về Phú Quốc
công tác nhưng khác đơn vị với ông S, cho đến năm 2021 ông về qchăm mẹ
thì mới gặp lại ông S Hoằng Hóa; Năm 1989, ông về Phú Quốc công tác, ông
nghe đồng hương Phú Quốc nói là ông S vợ một đứa con Phú
Quốc còn vợ ông S ai thì ông không được biết, ngoài thông tin trên thì ông
không biết thông tin gì về ông S nữa.
Người làm chứng chị Trương Thị S trình bày tại bản ý kiến ngày
24/5/2024: Chị đã nhận được thông báo đưa người vào làm chứng số 01, ngày
02/01/2024 của Tòa án thành phố Sầm Sơn, giấy triệu tập đến tòa án làm việc
hai lần, nhưng do điều kiện khoảng cách quá xa nên chị không thể đến được,
chị trình bày. Chđọc thông báo của Tòa án, chị biết được nguyên đơn ông
Quang S, sinh năm 1960, địa chỉ số 33, thôn Ngọc Long, Hoàng Phong,
huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, bố đẻ của chị, mẹ của chTrương
Thị D, hiện đang tổ 8, thị trấn chùa Hang, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên,
theo lời kể của mẹ chị và gia đình, ông S và mẹ chị trước đây đều cùng làm công
nhân tại tổng công ty thủy điện Hòa Bình Sông Đà, ông S quen biết
chung sống (qua lại) với mẹ chị tại khu tập thể của công ty từ khoảng năm 1986,
không tổ chức đám cưới, gia đình và nhiều người làm cùng công ty đều biết việc
chung sống giữa ông S mẹ chị, đến năm 1988 ông S đưa mẹ chị về Thái
Nguyên để sinh ra chị, sau đó ông S bỏ mẹ con chị đi không trở lại nữa, thời
gian đó mchbiết tin ông S đã qua lại chung sống với người phụ n
khác, để ghi nhớ kết quả việc chung sống với ông S, người đã sinh ra chị, nên
mẹ chị đã lấy tên của bố chị ông S để đặt tên cho chị. Chị cam đoan lời khai
của chị là đúng sự thật
Người làm chứng bà Trương Thị D trình bày tại bản ý kiến đề ngày
24/5/2024: đã nhận được thông báo đưa người vào làm chứng số 01, ngày
02/01/2024 của Tòa án thành phố Sầm Sơn, giấy triệu tập đến tòa án làm việc
hai lần, nhưng vì do điều kiện khoảng cách quá xa nên không thể đến được,
bày trình bày: Trong thời gian làm việc tại công ty Thủy điện Sông Đà Hòa
Bình bà có quen biết và qua lại tình cảm chung sống với nguyên đơn trong vụ án
ông Quang S, sinh năm 1960, địa chỉ số 33, thôn Ngọc Long, Hoàng
Phong, huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh a, ông S đã một con chung
với nhau tên là Trương Thị S, sinh năm 1988, hai người chỉ qua lại quan hệ tình
cảm với nhau, không có đăng ký kết hôn, vì lúc đó bà được biết ông S đã qua lại
với rất nhiều người phụ nkhác, khi con với ông S thì ông S cũng biết,
khi đó ông S đều làm việc tại ng công ty sống tại khu tập thể của
công ty, khi sắp sinh con, ông S đưa vThái nguyên để sinh (năm 1988),
ông S chỉ qua lại với trong khoảng thời gian t1986 đến 1988, sau đó ông S
qua lại chung sống với người phụ nữ khác rồi chuyển vào chi nhA thủy điện
Yaly Gia Lai để làm việc không trở lại nữa. cam đoan lời khai trên
đúng sự thật.
Qua xem xét thẩm định tại chỗ, xác định ô thửa, vị trí thửa đất tranh chấp
như sau: Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Là thửa đất sô 233, tờ bản đồ
số 6, diện tích 837,0m2 (trong đó đất ở 200m2, đất trồng cây lâu năm 637,0m2),
đo thực tế tại thời điểm thẩm định 851,0m2, có các cạnh như sau:
- Phía Tây giáp đường Trần Tế Xương 31,52m
- Phía Đông giáp nhà ông Thanh và nhà bà Thùy 31,52m
- Phía Nam giáp nhà ông Sơn bà Mong 27m
- Phía Bắc giáp ngõ đi chung 27m
Phần diện tích đất dư so với giấy chứng nhận là 14m2 về phía Bắc của thửa
đất
Tài sản trên đất gồm: 01 ngôi nhà mái bằng, bê tông cốt thép, phía trên
lợp mái tôn chống nóng, diện tích nhà 106m2, do Đoàn Thị P xây dựng năm
2009; Mái tôn phía trước nhà diện tích 14m2; 01 nhà cấp bốn đã cũ nát, phía
trên lợp ngói đỏ, sử dụng để nuôi chó xây dựng năm 1993 (hiện nay đã cũ hỏng,
không còn giá trị sử dụng), diện tích 7,7m2; Trên đất còn các loại cây hoa
màu, cây ăn quả. Đoàn Thị P khẳng định toàn bộ tài sản đất tài sản trên
đất đều do một mình bà tạo lập nên.
Về giá trị đất và tài sản trên đất: Ngày 30/8/2024, nguyên đơn bị đơn đã
thỏa thuận về giá cụ thể như sau:
- Phần diện tích đất 837m2, trong đó đất 200m2 giá trị 6.500.000
đồng/m2, đất trồng cây lâu năm 637m2 có giá trị 3.000.000 đồng;
- 01 ngôi nhà một tầng, mái bằng, bê tông cốt thép, phía trên có lợp mái tôn
kẽm chống nóng, diện tích ngôi nhà 106m2, xây dựng năm 2009 và một mái tôn
phía trước diện tích 14m2 tổng giá trị 100.000.000 đồng; Các loại tài sản
trên đất còn lại có giá trị 0 đồng.
- Các thành viên trong shộ khẩu của gia đình Đoàn Thị P bản trình
bày ý kiến về đất và tài sản trên đất tranh chấp đều là do P tạo lập nên, không
liên quan đến các thành viên khác trong sổ hộ khẩu.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Sầm Sơn phát biểu ý kiến: Về
việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tiến hành tố tụng của đương sự
đã thực hiện đúng quy định của bộ luật Tố tụng Dân sự đưa ra quan điểm về
việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 14, Điều 16 luật
HNGĐ 2014; Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị x
không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Quang S Đoàn Thị P,
không chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện về ly hôn chia tài sản chung của ông
Quang S. Đề nghị miễn tiền án phí ly n án phí chia tài sản cho ông
Quang S.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra, căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Ông Quang S khởi kiện Đoàn Thị P loại án: Ly
hôn, chia tài sản khi ly hôn. Bà P hộ khẩu thường trú tại phường T, thành phố
Sầm Sơn, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố
Sầm Sơn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 Bộ luật tố
tụng Dân sự.
Bà Thị Điều ông Xuân Cới - Tòa án đã triệu tập làm việc nhiều
lần với tư cách người làm chứng nhưng không đến làm việc nên bà Đoàn Thị P
đã rút yêu cầu người làm chứng đối với bà Điều và ông Cới.
[2]. Về Hôn nhân: Ông Quang S cho rằng ông kết hôn với Đoàn Thị
P vào năm 1982, đăng kết hôn tại phường Trường Sơn, vchồng chung
sống với nhau hai người con, cho đến năm 1993 P nghi ngờ ghen tuông
nên dẫn đến mâu thuẫn ông không chung sống cùng nhau nữa, P tại
Sầm Sơn còn ông thì huyện Hoàng Hóa, Thanh Hóa. Cho đến nay vợ chồng
không còn tình cảm với nhau nữa nên ông xin được ly hôn bà P.
Đoàn Thị P thì cho rằng giữa ông S không mối quan hệ hôn
nhân, không đăng ký kết hôn như ông S khai báo, bà chỉ quan hệ tình cảm
với ông S và sinh ra được hai người con, vì trước khi qua lại tình cảm với
thì ông S đã có vợ là bà Lương Kim Thơ và con gái là Lê Thị A thành phố Phú
Quốc, tỉnh Kiên Giang, trong sau thời kỳ quan hệ tình cảm với thì ông
S còn quan hệ tình cảm với nhiều người phụ nữ khác cũng đã con với
họ.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình giải quyết vụ án, ông S khai báo
ông đăng kết hôn với P tại phường T, nhưng phường T cũng đã xác
nhận về việc không hồ lưu trữ về việc đăng kết hôn của ông S P,
sau đó ông khai lại ông đăng kết hôn tại phường Trường Sơn, nhưng
ông cũng không xuất trình được giấy đăng kết hôn, hơn nữa ông S P
không có hộ khẩu thường trú và nhà ở tại phường Trường Sơn nên việc ông khai
đã đăng kết hôn tại phường Trường sơn không phù hợp pháp luật. P
cũng không thừa nhận ý kiến của ông S; Mặt khác theo đề nghị của bà Đoàn Thị
P (BL số 128) ngày 02/01/2024 Tòa án đã văn bản xác minh về mối quan hệ
hôn nhân của ông S với Lương Kim Thơ tại Ủy ban nhân dân phường An
Thới, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. UBND phường An Thới đã văn
bản trả lời số 41/UBND-TPHT, ngày 25/01/2024, nội dung: Ông Lê Quang S
Lương Kim Thơ không đăng kết hôn tại phường An Thới, ông S
Thơ có một người con chung là bà Lê Thị A, sinh ngày 17/5/1981, theo tìm hiểu,
UBND phường An Thới được biết ông Quang S nguyên trước đây đi nghĩa
vụ quân sbộ đội thuộc lữ đoàn 127 vùng 5 Hải quân, đơn vị đóng quân tại
Dương Tơ, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, (nay phường An Thới,
thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang), đến khoảng năm 1980 ông S phục viên
ra quân lại chung sống như vchồng với Lương Kim Thơ tại xóm 1, ấp
2, Dương Tơ, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang (Nay tổ 1 khu phố 2,
phường An Thới, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang) đến đầu năm 1982 ông
S vquê và sau đó không trở lại, hiện tại Lương Kim Thơ đã chết vào ngày
09/3/2021. Người làm chứng ông Cao Ngọc T cũng khai báo Năm 1989 tôi
về phú Quốc công tác, tôi nghe đồng hương Phú Quốc nói là ông S vợ
một đứa con Phú Quốc”, Chị Thị A giấy khai sinh với địa chỉ, họ
tên cha ông Quang S lời khai khẳng định ông Quang S bố đẻ
của chị, ông S với mẹ chị Lương Kim Thơ tổ chức đám cưới thông
báo cho gia đình, con chòm xóm biết, chị A còn xuất trình cho tòa án h
cấp thẻ định danh điện tử của chị Anh từ tháng 9/2021 (trước thời điểm ông S
làm đơn khởi kiện ra tòa) với họ tên cha là Lê Quang S.
Ngày 30/8/2024 Tòa án đã tiến hành phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ
Hòa Giải, Thẩm phán đã giải thích cho nguyên đơn ông Lê Quang S được
biết về việc ông không thừa nhận đã con với Lương Kim Thơ và
Trương Thị D thì ông có quyền đề nghị Tòa án làm rõ và giám định AND để xác
định có hay không mối quan hệ cha con giữa ông S chị Lê Thị A, chị Trương
Thị S thì phải nộp đơn cho Tòa án tạm ứng kinh phí thực hiện việc giám
định theo quy định của pháp luật trong thời hạn 05 ngày kể tngày 30/8/2024.
(BL 169), nhưng ông S không thực hiện. Từ những chứng cứ nêu trên khẳng
định ông Quang S chung sống như vợ chồng với Lương Kim Thơ
phường An Thới, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, từ thời điểm m 1980
mà không có đăng ký kết hôn, thì được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế;
Tchết năm 2021 nhưng ông S chưa thủ tục ly hôn với Lương Kim
T trong thời điểm chung sống như vợ chồng (từ 1982 đến 1992) với bà Đoàn
Thị P nên bà P và ông S không có mối quan hệ hôn nhân với nhau, vì vậy không
công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Lê Quang S và bà Đoàn Thị P.
Về con chung: Ông S và P hai con chung anh Minh H1, sinh
ngày 11/7/1983 chị Minh H, sinh ngày 17/10/1988 Các cháu đã thành
niên và phát triển bình thường, ông không yêu cầu giải quyết, nên miễn xét.
[3]. Về yêu cầu chia tài sản chung: Ông Quang S yêu cầu chia tài sản
chung diện tích đất hiện tại bà P đang quản sử dụng tại khu phố Quang
Giáp, phường T, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa thửa số 233, tờ bản đồ
số 06 diện tích 837m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang
tên Đoàn Thị P theo GCN-QSDĐ, số CH: 00372, Quyết định số: 2147/-
UBND ngày 30/8/2011. Ông S cho rằng trong thời gian sống chung cùng với
P tại phường T, Năm 1986 ông có gửi tiền nhiều lần qua đường bưu điện đưa
tiền mặt cho bà P để mua đất của vợ chồng ông D bà H với giá mua là 280 đồng,
thời điểm đó ông đang công c tại nhà máy thủy điện Sông Đà, Hòa Bình, Thái
Nguyên…..; Số tiền ông gửi 240 đồng, diện tích mua cụ thể bao nhiêu ông
không nhớ, P là người trực tiếp mua đất của ông D H, lúc mua trên đất
một ngôi nhà nhỏ làm bằng gạch cốm gia đình tạm, về sau P đã phá đi để
làm ngôi nhà như hiện nay, tiền làm nhà là của bà P.
Đoàn Thị P quan điểm: không chấp nhận lời khai của ông
Quang S, ông S không gửi tiền cho mua đất, giá mua đất, diện tích đất mua
cũng không đúng như ông S khai, mua đất của ông D H với giá 3.000.000
đồng, diện tích mua là khoảng 200m2, phần diện tích còn lại là do bà khai hoang
trước kia đất chưa được xây tường bao quanh như bây giờ, xung quanh chỉ
cây cối và bụi rậm, một cạnh giáp bãi tha ma, một cạnh giáp trường học, sau
thời điểm mua đất hội để mở rộng diện tích đã được công nhận
quyền sử dụng đất.
Quá trình giải quyết vụ án. UBND phường T cung cấp thông tin về thửa
đất. Theo hồ sơ địa chính 299 (đo vẽ năm 1986) là đất sân bóng, do ủy ban quản
(BL 83), Ông D bà H khai báo tại (BL số 144): Sau năm 1986 ông bà mua đất
của ông Gạo ngay cạnh trường để làm nhà riêng , cho đến năm 1993 thì bán
lại cho P diện tích khoảng 200m2 giá bán 3.000.000 đồng, về vị trí giáp
gianh của thửa đất. Phía Đông giáp nhà ông Phương Thanh, phía Tây giáp
đất bãi tha ma, phía Nam giáp nhà bà Sang, phía Bắc giáp đất trường học, khi ở
không xây tường rào ngăn cách, không bờ rào, xung quanh nhà chỉ cây
hoang dại, bụi rậm như cây sa mọc, cây lá đắng… Như vậy ông S khai báo mua
đất của vchồng ông D H năm 1986 không đúng lúc đó đang đất sân
bóng sau năm 1986 ông D H mới mua lại đất của ông Gạo. Ông D H
cho đến năm 1993 mới bán lại cho P; Ông S cũng thừa nhận thời điểm năm
1992, 1993 cũng là thời điểm ông S P mâu thuẫn ghen tuông, không còn
tình cảm với nhau nữa, mỗi người một nơi, P Sầm Sơn, ông S Hoàng
Hóa; Quá trình giải quyết vụ án, ông S cũng không tài liệu chứng cứ để
chứng minh về việc ông gửi tiền cho P mua đất, ông bà P cũng không
căn cứ để xác định mỗi quan hệ hôn nhân cũng không có căn cứ xác định đất
tài sản chung với P; Vdiện tích đất mua, ông cho rằng toàn bộ diện tích
hơn tám trăm mét mua của ông D H, tuy nhiên ông Dũng, H chỉ thừa
nhận bán cho P khoảng 200m2, không tài liệu chứng cứ nào xác định
chính xác diện tích đất mua nên không căn cứ để chấp nhận đối với yêu cầu
chia tài sản chung của nguyên đơn.
Từ nhưng lập luận nêu trên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn ông Lê Quang S.
[4]. Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của ông Quang S không được chấp
nhận, ông S thuộc trường hợp phải chịu tiền án phí ly hôn án phí chia tài sản
khi ly hôn đối với phần yêu cầu không được tòa án chấp nhận, tuy nhiên ông S
người cao tuổi nên thuộc trường hợp được miễn tiền án phí theo quy định tại
điểm đ khoản 1 Điều 12 nghị quyết số 326, ngày 30/12/2016, về án phí lệ phí
Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 1 Điều 14; khoản 1 Điều 16; Khoản 2 Điều 53 Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014;
Khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều
273 BLTTDS;
Điểm đ khon 1, Điều 12 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
- Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Lê Quang S
và bà Đoàn Thị P.
- Về tài sản: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia tải sản chung của
ông Lê Quang S đối với diện tích đất tại thửa số 233, tờ bản đồ số 6, có diện tích
837m2, tại khu phố Quang Giáp, phường T, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh
Hóa.
- Về án phí: Miễn tiền án phí ly hôn thẩm tiền án phí chia tài sản
giá ngạch cho ông Lê Quang S.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, bị đơn.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày
tuyên án.
Nơi nhận: T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Đương sự; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- VKSND TP. Sầm Sơn;
- Chi cục THADS TP. Sầm Sơn;
- UBND P. Trường Sơn, TP. Sầm Sơn; (đã ký)
- UBND xã Hoằng Phong, H. Hoằng Hóa;
- Lưu HSVA .
Lê Thị Phong
Tải về
Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất