Bản án số 40/2023/HS-PT ngày 04-07-2023 của TAND tỉnh Bến Tre về tội tổ chức đánh bạc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 40/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 40/2023/HS-PT ngày 04-07-2023 của TAND tỉnh Bến Tre về tội tổ chức đánh bạc
Tội danh: 249.Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 40/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/07/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Huỳnh Văn Q, Trần Hữu N2 và Nguyễn Văn T1 phạm tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 40/2023/HS-PT
Ngày: 04-7-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Văn Tỉnh
Các Thẩm phán: Ông Phạm Văn Ngọt
Ông Lê Minh Đạt
- Thư ký phiên tòa: Ông Phan Trung Tín Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bến
Tre
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa:
Ông Đặng Hữu Tài – Kiểm sát viên
Ngày 12 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét x
phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ số: 22/2023/TLPT-HS ngày 13 tháng 4
năm 2023 đối với bị cáo Huỳnh Văn Q 02 đồng phạm do kháng cáo của các
bị cáo đối với Bản án hình sự thẩm số: 06/2023/HSST ngày 03 tháng 3 năm
2023 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Huỳnh Văn Q, sinh năm 1985 tại tỉnh Bến Tre; nơi trú: ấp H, T,
huyện G, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: làm vườn; trình độ học vấn: lớp 9/12; giới
tính: nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Huỳnh
Văn T, sinh năm 1947 Thị N, sinh năm 1952; vợ: Trần Thị N1, sinh
năm 1985; con: có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2017; tiền án: không;
tiền s: có 01 tiền sự, tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 66/QĐ-XPHC
ngày 25/4/2022 của Trưởng Công an huyện G, tỉnh Bến Tre đã xử phạt 1.500.000
(một triệu năm trăm nghìn) đồng về hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền
dưới hình thức lắc tài xỉu (đã đóng phạt); bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/7/2022,
chuyển tạm giam từ ngày 18/7/2022, đến ngày 09/12/2022 được hủy bỏ biện pháp
tạm giam và thay thế bằng biện pháp đặt tiền để đảm bảo; bị cáo tại ngoại; có mặt.
2. Trần Hữu N2, sinh năm 1996 tại tỉnh Bến Tre; nơi trú: ấp H, T,
huyện G, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: làm vườn; trình độ học vấn: lớp 9/12; giới
2
tính: nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Trần Văn
R, sinh năm 1974 và Trần Thị M, sinh năm 1975; vợ: Nguyễn Thị Diễm L, sinh
năm 1999; con: có 01 con sinh năm 2016; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo bị
tạm giữ từ ngày 15/7/2022, chuyển tạm giam từ ngày 18/7/2022, đến ngày
09/12/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giam thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh;
bị cáo tại ngoại; có mặt.
3. Nguyễn Văn T1, sinh năm 1990 tại tỉnh Bến Tre; nơi ĐKTT: ấp T, T,
huyện G, tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp B, xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp:
buôn bán; trình độ học vấn: lớp 11/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch:
Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn C (chết) Huỳnh Thị M1,
sinh năm 1951; vợ: Phan Thị Kiều L1, sinh năm 1990; con: 02 con, lớn sinh
năm 2014, nhỏ sinh năm 2018; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ t
ngày 16/7/2022, chuyển tạm giam từ ngày 19/7/2022, đến ngày 07/10/2022 được
hủy bỏ biện pháp tạm giam và thay thế bằng biện pháp đặt tiền để đảm bảo; bị cáo
tại ngoại; có mặt.
(Ngoài ra trong vụ án còn các bị cáo Thành N3, Trần Văn T2, Nguyễn
Văn P, Trần Thị Bé N1, Trung K, Nguyễn Trung T3, Phạm Văn D, Văn H,
Nguyễn Văn T4, Phạm Hoài B, Lê Văn T5, Trần Văn K1, Phạm Văn N4, Phạm Văn
Đ, Lê Văn N5, Thanh P1, Trần Văn Q1 nhưng không có kháng cáo và không bị
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Lúc 18 giờ 10 phút ngày 10/7/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện
G, tỉnh Bến Tre bắt quả tang Huỳnh Văn Q và nhiều đối tượng tổ chức đánh bạc và
đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu thắng thua bằng tiền tại nhà Huỳnh Văn Q, ở ấp
H, T, huyện G, tỉnh Bến Tre, gồm: Nguyễn Văn T4, Trần Văn K1, Phạm Văn
N4, Phạm Văn Đ, Văn N5, Thanh P1, Văn R1, TL2, Lương Minh
H1, NVăn Đ1, Phạm Văn V, Nguyễn Thị N6, Nguyễn Phước L3, Văn Minh
K2, Đặng Văn B1, Văn T6, Nguyễn Văn E, Phạm Thanh S, Văn H2,
Nguyễn Văn T7, Trần Văn R2
Quá trình điều tra, xác định như sau:
Huỳnh Văn Q cùng với Trần Hữu N2, Trần Văn T2, Võ Thành N3Nguyễn
Văn P bàn bạc thống nhất với nhau tổ chức cho người khác đánh bạc ăn thua bằng
tiền dưới hình thức đá lắc tài xỉu tại nhà của Q ấp H, T, huyện G, tỉnh
Bến Tre để thu tiền sân và tiền xâu của những người tham gia đánh bạc. Số tiền thu
3
được Q giữ đến cuối ngày của ngày tổ chức đánh bạc, sau khi trừ các chi phí và trả
tiền công người canh đường còn lại số tiền bao nhiêu sẽ chia đều cho Q, N2, T2,
N3 và P.
Trần Thị N1 (vợ của Q) đồng ý cho Q cùng N2, T2, N3 P tổ chức đánh
bạc tại nhà của vợ chồng Q. Hằng ngày, N1 buôn bán nước giải khát tại nhà, khi có
tổ chức đánh bạc tại nhà thì N1 bán nước giải khát, gói cho những người tham
gia đánh bạc thu tiền, tạo khoản thu nhập cao hơn so với những ngày buôn
bán bình thường. Ngoài ra, theo yêu cầu của Q, N1 nấu sẵn cơm, cho N2, T2,
N3 và P cùng ăn.
Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 10/7/2022, P đến nhà Q trước để mài cựa gà, sau
đó N2, N3, T2 đến để chuẩn bị tổ chức đá thắng thua bằng tiền. Quyết, N2, T2,
N3 P thống nhất với nhau việc phân công người làm nhiệm vụ canh đường,
cảnh giới Công an ở các tuyến đường vào nhà Q để tổ chức đánh bạc, khi phát hiện
Công an đến thì điện thoại thông báo cho Q, N2, N3, T2 hoặc P biết để giải tán
địa điểm đánh bạc. Nguyện là người trực tiếp phân công Phạm Văn D, T2 là người
trực tiếp phân công Trung K, P người trực tiếp phân công Nguyễn Trung T3
làm nhiệm vụ canh đường. Theo thỏa thuận, mỗi ngày canh đường cho địa điểm
đánh bạc này, K, T3, Do được trả từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, ngày
10/7/2022 K, T3, Do chưa nhận được tiền công. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng
ngày, Q, N2, N3, T2 và P bắt đầu tổ chức 05 trận đá gà, cụ thể như sau:
- Trận gà thứ nhất: Trần Hữu N2 cáp lông màu đỏ - đen, nặng 2,7kg của
N2 đá với gà lông màu trắng, chân trắng, nặng 2,8kg của Nguyễn Văn T1, đá xổ
2.000.000 đồng (hai triệu đồng), đá giao hữu 1.000.000 đồng (một triệu đồng),
tổng 3.000.000 đồng (ba triệu đồng). Sau khi nghe T1 hỏi “Đá thêm không?”,
N2 gom của 20 người đá hàng xáo trong những người tham gia đá (hiện không
họ tên, địa chỉ) số tiền 127.000.000 đồng (một trăm hai mươi bảy triệu đồng),
N3, T2 phụ giúp Nguyện gom hàng xáo, T1 đồng ý đá trận gà này với tổng số tiền
đặt cược 130.000.000 đồng (một trăm ba mươi triệu đồng). Do T1 nặng
hơn gà của N2 nên thỏa thuận nếu T1 thắng thì T1 thắng 80% số tiền
130.000.000 đồng đặt cược, thua thì thua 100% số tiền đặt cược. Trận này N3 làm
trọng tài, P cung cấp cựa băng keo, T2 thả cho N2, của T1 do T1 tự thả.
Kết quả gà của T1 thắng, N2 gom số tiền 104.000.000 đồng (giá trị 80% của
130.000.000 đồng) gồm 2.400.000 đồng của N2 và 101.600.000 đồng của những
người chơi hàng xáo rồi N2 là người trực tiếp giao 104.000.000 đồng (một trăm lẻ
bốn triệu đồng) tiền thua trận gà cho T1, T1 đưa lại cho N2 5.200.000 đồng tiền
sân, sau khi trở về nhà T1 cho người bạn tên ĐDuy B2 số tiền 500.000 đồng. Số
4
tiền dùng vào việc đánh bạc của Nguyễn Văn T1 130.000.000 đồng +
104.000.000 đồng = 234.000.000 đồng (hai trăm ba mươi bốn triệu đồng); của
Trần Hữu N2 là 104.000.000 đồng (một trăm lẻ bốn triệu đồng).
- Trận thứ hai: lông màu đen của Trần Văn Q1 đá với lông màu
trắng của người đàn ông tên Đ2 (không họ tên, địa chỉ), đá xổ 2.000.000 đồng
(hai triệu đồng), đá giao hữu 1.000.000 đồng (một triệu đồng), tổng cộng Q1Đ2
cá cược với nhau số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng). Gà của Đ2 nặng kí hơn gà
của Q1 nên thỏa thuận nếu của Đ2 thắng thì thắng 70% số tiền cược, thua thì
thua 100% số tiền cược. Nguyện làm biện, P cung cấp cựa và băng keo, T2 làm
trọng tài thả cho Đ2, của Q1 do Q1 tự thả. Ngoài ra, trong trận này 06
người nam thanh niên (chưa rõ họ tên, địa chỉ) đá hàng xáo với nhau thông qua N2
với tổng số tiền 27.000.000 đồng (hai mươi bảy triệu đồng), Q1 không biết việc
đá hàng xáo bên ngoài bao nhiêu tiền những ai tham gia đá hàng xáo. Kết
quả gà của Đ2 thắng, Q1 đưa 2.100.000 đồng tiền thua trận gà cho N2, N2 thu tiền
sân 100.000 đồng đưa lại cho Đ2 2.000.000 đồng, N2 chung chi tiền hàng xáo
thu 9.500.000 đồng tiền sân, tổng cộng N2 thu tiền sân trận này 1.050.000
đồng. Số tiền dùng vào việc đánh bạc của Trần Văn Q1 là 3.000.000 đồng (ba triệu
đồng); của Đ2 là 5.100.000 đồng (năm triệu một trăm nghìn đồng).
- Trận gà thứ ba: lông màu đỏ, chân trắng của Trần Văn Q1, đá với
lông màu đỏ, chân vàng thau của người đàn ông tên S1 (không họ tên, địa chỉ),
đá xổ 2.000.000 đồng (hai triệu đồng), đá giao hữu 1.000.000 đồng (một triệu
đồng), tổng cộng S1 và Q1 cược với nhau số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu
đồng). của S1 nặng hơn gà của Q1 nên thỏa thuận nếu của S1 thắng thì
thắng 80% số tiền cược, thua thì thua 100% số tiền cược. N2 N3 làm biện, P
cung cấp cựa và băng keo, T2 làm trọng tài, gà của Q1 do Q1 thả, gà của S1 do Bùi
Văn D1, sinh năm 1985, nơi trú: ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre thả dùm.
Ngoài ra, trong trận này khoảng 06 người nam thanh niên (chưa họ tên, địa
chỉ) đá hàng xáo với nhau thông qua N2 với tổng số tiền là 13.000.000 đồng (mười
ba triệu đồng). Kết quả gà của S1 thắng, Q1 đưa 2.400.000 đồng tiền thua trận gà
cho N2, N2 thu tiền sân 100.000 đồng và đưa lại cho S1 2.300.000 đồng, N2 chung
chi tiền hàng xáo thu 400.000 đồng tiền sân, tổng cộng N2 thu tiền sân trận này
500.000 đồng. Do đó, số tiền dùng vào việc đánh bạc của Trần Văn Q1
3.000.000 đồng (ba triệu đồng), của S1 5.400.000 đồng (năm triệu bốn tm
nghìn đồng).
Phạm Văn N4 tự thỏa thuận cược bên ngoài trong trận này với một
người Nam thanh niên (không họ tên, địa chỉ), số tiền cược 700.000 đồng, N4
5
chọn của Q1, người Nam thanh niên chọn của S1, kết quả N4 thua 700.000
đồng.
Văn R1 tthỏa thuận cược bên ngoài trong trận này với một người
Nam thanh niên (không họ tên, địa chỉ), số tiền cược 150.000 đồng, R1 chọn
của Q1, người Nam thanh niên chọn gà của S1, kết quả Rông thua 150.000 đồng.
Sau khi Q đi công việc trở về nhà thì đã kết thúc trận thứ ba, N2 đưa Q
6.750.000 đồng là tiền sân 03 trận gà trên.
- Trận thứ tư: lông màu vàng, chân xanh của người đàn ông tên B1
(không họ tên, địa chỉ) đá với lông màu đỏ, chân xanh của Trần Trọng Â,
sinh năm: 1991, ĐKTT: ấp H, T, huyện G, tỉnh Bến Tre, đá xổ 1.000.000 đồng
(một triệu đồng), hai con cùng nặng 2,6kg nên đá tỷ lệ ăn thua 100%. Nguyện
làm biện, P cung cấp cựa băng keo, T2 làm trọng tài, của  do Phạm Văn D
thả dùm. Ngoài ra, trong trận này hai người nam thanh niên (không họ tên,
địa chỉ) đá hàng xáo với nhau thông qua N2, số tiền cược 2.000.000 đồng (hai
triệu đồng). Kết quả trận này của B1 thắng, Â đưa cho B1 1.000.000 đồng.
Nguyện thu tiền sân 100.000 đồng đưa cho Q giữ. Số tiền dùng vào việc đánh
bạc của Trần Trọng  là 1.000.000 đồng (một triệu đồng); số tiền dùng vào việc
đánh bạc của B1Phạm Văn D là 1.000.000 đồng (một triệu đồng).
Phạm Văn Đ tự thỏa thuận cá cược bên ngoài trong trận gà này với một người
Nam thanh niên (không họ tên, địa chỉ), số tiền cược 500.000 đồng, Đ chọn
của Â, người Nam thanh niên chọn gà của B1, kết quả Đang thua 500.000 đồng.
Nguyễn Văn T4 tự thỏa thuận cược bên ngoài trong trận này với một
người Nam thanh niên (không họ tên, địa chỉ), số tiền cược 500.000 đồng, T4
chọn của Â, người Nam thanh niên chọn của B1, kết quả T4 thua 500.000
đồng.
- Trận gà thứ năm: Gà lông màu trắng, chân trắng của Trần Văn K1 đá với gà
lông màu trắng, chân vàng thau của Trần Văn Q1, đá xổ 3.000.000 đồng (ba triệu
đồng), đá giao hữu 2.000.000 đồng (hai triệu đồng), hai con gà cùng nặng 3,4kg kg
nên đá tỷ lệ ăn thua 100%, tổng cộng K1 Q1 cá cược với nhau số tiền 5.000.000
đồng (năm triệu đồng). Trận này Q N2 làm biện, P cung cấp cựa băng keo,
N3 làm trọng tài, T2 trồng cựa và thả gà cho K1, gà của Q1 do Q1 tự thả. Ngoài ra,
03 người nam thanh niên (không họ tên, địa chỉ) gom số tiền 10.000.000
đồng (mười triệu đồng) nhKiệm đá hàng xáo với 05 người nam thanh niên khác
(không rõ họ tên, địa chỉ) thông qua N2. Quí không biết việc K1 đá hàng xáo với ai
và cược bao nhiêu tiền. Kết quả gà của K1 thắng, Q1 giao tiền thua 5.000.000 đồng
cho N2, N2 thu tiền sân 750.000 đồng rồi giao số tiền 14.250.000 đồng tiền thắng
6
cho K1, K1 giữ lại số tiền 4.250.000 đồng đưa cho 03 người nam thanh niên số
tiền 10.000.000 đồng. Số tiền dùng vào việc đánh bạc của Trần Văn K1
30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng), của Trần Văn Q1 5.000.000 đồng (năm
triệu đồng).
Nguyễn Văn T4 tự thỏa thuận cược bên ngoài trong trận này với một
người Nam thanh niên (không họ tên, địa chỉ), số tiền cược 1.000.000 đồng, T4
chọn gà của Q1, người Nam thanh niên chọn gà của K1, kết quả T4 thua 1.000.000
đồng.
Phạm Văn V tự thỏa thuận cược bên ngoài trong trận gà này với Cao Văn
N7, sinh năm 1994, nơi trú: ấp H, T, huyện G, tỉnh Bến Tre, số tiền cược
1.000.000 đồng, V chọn gà của K1, N7 chọn gà của Q1. Kết quả V thắng
1.000.000 đồng. Số tiền dùng vào việc đánh bạc của Phạm Văn V 1.000.000
đồng, của Cao Văn N7 là 1.000.000 đồng.
Lương Minh H1 tthỏa thuận cược bên ngoài trong trận này với một
người Nam thanh niên (không họ tên, địa chỉ), H1 chọn của Q1, người Nam
thanh niên chọn của K1, số tiền cược 1.000.000 đồng, tỷ lcược nếu H1
thua thì thua 90% số tiền cược, thắng thì 100% số tiền cược. Kết quả H1 thua số
tiền 900.000 đồng.
Phạm Văn Đ tự thỏa thuận cá cược bên ngoài trong trận gà này với một người
Nam thanh niên (không họ tên, địa chỉ), số tiền cược 500.000 đồng, Đ chọn
của Q1, người Nam thanh niên chọn gà của K1, kết quả Đang thua 500.000 đồng.
Văn M2 K2 tự thỏa thuận cược bên ngoài trong trận này với một
người Nam thanh niên (không họ tên, địa chỉ), số tiền cược 500.000 đồng, K2
chọn của Q1, người Nam thanh niên chọn của K1, kết quả K2 thua 500.000
đồng.
Từ L2 tự thỏa thuận cược bên ngoài trong trận này với một người
Nam thanh niên (không họ tên, địa chỉ), số tiền cược 500.000 đồng, L2 chọn gà
của Q1, người Nam thanh niên chọn gà của K1, kết quả L2 thua 500.000 đồng.
Phạm Hoài B t thỏa thuận cược bên ngoài trong trận gà này với một
người Nam thanh niên (không htên, địa chỉ), số tiền cược 500.000 đồng, B
chọn của Q1, người Nam thanh niên chọn của K1, kết quả B thua 500.000
đồng.
Văn R1 tthỏa thuận cược bên ngoài trong trận này với một người
Nam thanh niên (không họ tên, địa chỉ), số tiền cược 100.000 đồng, R1 chọn
của Q1, người Nam thanh niên chọn gà của K1, kết quả Rông thua 100.000 đồng.
Sau khi kết thúc trận gà thứ năm thì trời mưa, nhóm của Q vào nhà tiếp tục tổ
7
chức đánh bạc ăn thua bằng tiền bằng hình thức lắc tài xỉu. Văn H mang theo
dụng cụ lắc tài xỉu cùng Phạm Hoài B, Nguyễn Văn T4 tham gia đánh bạc thắng
thua bằng tiền dưới hình thức lắc tài xỉu. H làm cái lắc ngầu, B T4 làm
chung chi tiền thắng thua. Một lúc sau, Lê Văn T5 đến địa điểm đánh bạc và xin H
làm vĩ, H đồng ý. Theo thỏa thuận, khi ván bão, sau khi trả tiền xâu cho Q 50%
tổng số tiền thắng ván bão thì H sẽ cho B, T4, T5 mỗi người từ 100.000 đồng đến
200.000 đồng. Trước khi lắc tài xỉu, N3 kiểm tra các hạt ngầu xem gian lận
hay không, P có nhiệm vụ thu tiền xâu các ván bão rồi đưa Q giữ, Q quan sát, quản
lý chung tại địa điểm đánh bạc.
Hình thức đánh bạc lắc tài xỉu, một người làm cái người chơi chia làm
hai bên tài xỉu. Người làm cái để 03 hạt ngầu vào dĩa, đậy nắp lại; sau đó,
người làm cái lắc dĩa rồi đxuống chiếu bạc. Sau khi người làm cái lắc ngầu
xong, những người chơi bắt đầu đặt tiền vào bên tài hoặc bên xỉu. Đặt xong, người
làm cái khui nắp đậy ra, lúc này kết quả thắng thua được xác định như sau: nếu ba
mặt trên của 03 hạt ngầu số điểm giống nhau thì gọi bão (từ 01 đến 03
điểm bão xỉu, từ 04 đến 06 bão tài), kết quả nếu bão tài thì người làm cái sẽ
thắng hết số tiền đặt cược của bên xỉu và hòa với bên tài (không thắng thua với bên
tài) ngược lại. Nếu tổng số điểm ba mặt trên của 03 hạt ngầu từ 03 đến 10 là
xỉu, t11 đến 18 là tài, nếu kết quả xỉu thì người làm cái lấy tiền bên tài chung
cho bên xỉu, nếu số tiền bên tài không đủ chung cho bên xỉu thì người làm cái bỏ
tiền ra để chung số tiền còn thiếu; nếu số tiền bên tài nhiều hơn stiền phải chung
cho bên xỉu thì người làm cái thắng được số tiền còn dư; nếu kết quả xỉu thì
ngược lại.
H lấy ra 10.000.000 đồng để làm cái, H chia tiền cho T4, B, T5 để làm vĩ. H
lắc khoảng 20 ván thì thua hết tiền nên lấy ra thêm 10.000.000 đồng nữa tiếp tục
làm cái, lúc này H nhờ T4 lắc xí ngầu, còn H B, T5 làm vĩ. Thảo lắc khoảng 06
ván thì bị quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G đến bắt quả tang thu giữ tại
chiếu bạc 12.920.000 đồng. Trong c H, T4, B, T5 làm cái thắng 01 ván bão
(do T4 lắc ngầu) với số tiền 5.000.000 đồng, P thu tiền xâu 2.500.000 đồng rồi
đưa cho Q giữ, bên làm cái còn lại 2.500.000 đồng thì T4 được chia 100.000 đồng,
B được 200.000 đồng, T5 được 200.000 đồng. Quá trình H, T4, B, T5 làm cái, xác
định những người tham gia đặt cược như sau:
- Trần Văn K1 mang theo số tiền 9.500.000 đồng để tham gia đánh bạc, sau
khi thắng 01 trận đá được 4.250.000 đồng, K1 mua thuốc hút số hết
150.000 đồng, còn lại số tiền 13.600.000 đồng K1 sử dụng đchơi tài xỉu. Kiệm
chơi 10 ván, mỗi ván đặt cược 500.000 đồng, kết quả Kiệm thắng 01 ván, thua 08
8
ván, ván cuối Kiệm đặt bên tài, chưa khui thì bị bắt quả tang, quan điều tra thu
giữ của Kiệm 9.600.000 đồng.
- Phạm Văn N4 mang theo số tiền 7.810.000 đồng để tham gia đánh bạc, sau
khi thua 01 trận đá số tiền 700.000 đồng, còn lại số tiền 7.110.000 đồng N4 sử
dụng để chơi tài xỉu. Níl chơi 07 ván, đặt cược từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng,
kết quả Níl thua 500.000 đồng, ván cuối N4 chưa đặt cược thì bị bắt quả tang,
quan điều tra thu giữ của Níl 6.610.000 đồng.
- Phạm Văn Đ mang theo số tiền 5.000.000 đồng để tham gia đánh bạc, sau
khi thua 02 trận số tiền 1.000.000 đồng, còn lại 4.000.000 đồng Đang sử dụng
để chơi tài xỉu. Đang chơi khoảng 05 ván, mỗi ván đặt cược từ 100.000 đồng đến
200.000 đồng, kết quả thắng, thua, ván cuối Đang đặt cược 200.000 đồng,
chưa khui thì bị bắt quả tang, Cơ quan điều tra thu giữ của Đang 4.000.000 đồng.
- Lê Văn N5 sử dụng 2.200.000 đồng để tham gia đánh bạc; Nol đặt cược 02
ván, mỗi ván đặt cược 100.000 đồng, kết quả thắng 01 ván, thua 01 ván, đang đợi
đặt cược ván tiếp theo thì bị bắt quả tang, quan điều tra thu giữ của Nol
2.200.000 đồng.
- Thanh P1 sử dụng 1.780.000 đồng để tham gia đánh bạc; Pháo chơi
khoảng 15 ván, mỗi ván đặt cược từ 50.000 đồng đến 250.000 đồng, kết quả thua
1.300.000 đồng, ván cuối Pháo đặt cược 250.000 đồng, chưa khui thì bbắt quả
tang, Cơ quan điều tra thu giữ của Pháo 230.000 đồng.
- Lương Minh H1 sử dụng 600.000 đồng để tham gia đánh bạc; H1 đặt cược
03 ván, mỗi ván đặt cược 200.000 đồng, kết quả thua hết 600.000 đồng nên H1
nghỉ ngồi xem những người khác tham gia đánh bạc.
- Trương Tấn H3 sử dụng 400.000 đồng để tham gia đánh bạc; H3 đặt cược
04 ván, mỗi ván từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng, kết quả thua hết 400.000 đồng
nên H3 nghỉ ngồi xem những người khác tham gia đánh bạc.
- Nguyễn Thị N6 sử dụng 150.000 đồng để tham gia đánh bạc; tuy nhiên, N6
cược bên ngoài (chơi hàng xáo) 02 ván với một đàn ông không họ tên, địa chỉ,
kết quả N6 thua hết 150.000 đồng nên N6 nghỉ ngồi xem những người khác tham
gia đánh bạc.
Đối với Hà Văn H khi lực lượng Công an đến bắt quả tang, H bỏ chạy và cầm
theo số tiền 2.300.000 đồng là tiền dùng làm cái lắc tài xỉu.
Đối với Nguyễn Văn T4 mang theo số tiền 12.050.000 đồng để tham gia đánh
bạc, sau khi thua 02 trận với số tiền 1.500.000 đồng, T4 còn lại 10.550.000
đồng, H cho T4 100.000 đồng khi lắc ván bão, tổng cộng T4 10.650.000 đồng,
nếu H làm cái thua hết tiền thì T4 sẽ sử dụng số tiền này để tiếp tục tham gia đánh
9
bạc. Khi lực lượng Công an đến bắt quả tang, T4 vứt bỏ bộ dụng cụ lắc tài xỉu
khu vực gần chiếu bạc và bỏ chạy. Quá trình chạy trốn T4 làm rơi 8.600.000 đồng,
Cơ quan điều tra thu giữ của T4 2.050.000 đồng.
Đối với Phạm Hoài B mang theo 500.000 đồng, đá hàng xáo 01 trận đã
thua hết tiền, khi T4 lắc ván bão, B được H cho 200.000 đồng. Khi lực lượng Công
an đến bắt quả tang, B bỏ chạy vứt lại túi nylon tại chiếu bạc, bên trong 01 bộ
dụng cụ lắc tài xỉu chưa sử dụng và số tiền 2.850.000 đồng (gồm 200.000 đồng của
B được cho khi ván bão 2.750.000 đồng tiền H thu được của ván bão tiền
B được H đưa để làm vĩ).
Đối với Lê Văn T5 đến nhà Q để xem đánh bạc nên không mang theo tiền. Do
quen biết với H từ trước nên T5 xin H cho T5 phụ làm vĩ. Khi lực lượng Công an
đến bắt quả tang, T5 bỏ chạy mang theo số tiền 200.000 đồng được H cho khi ván
bão.
Ngoài những người tham gia đánh bạc do H, T4, B T5 làm cái như nêu
trên, còn nhiều người khác tham gia đánh bạc, tại thời điểm bắt quả tang những
người này đã bỏ chạy khỏi hiện trường, quan điều tra chưa xác định được lai
lịch những người này nên chưa làm việc được.
Đối với Lương Minh H1, Nguyễn Thị N6 Trương Tấn H3, sinh năm 1993,
nơi trú: ấp B, H, huyện G, tỉnh Bến Tre, tham gia đánh bạc nhưng đã nghỉ
trước thời điểm Cơ quan điều tra bắt quả tang. Cơ quan điều tra không chứng minh
được những người tham gia đánh bạc cùng với H1, N6H3 là ai và không chứng
minh được tổng số tiền đánh bạc tại thời điểm H1, N6 H3 tham gia đánh bạc.
Do đó, số tiền dùng vào việc đánh bạc của H1 chính số tiền H1 mang theo để
tham gia đánh bạc 600.000 đồng; số tiền dùng vào việc đánh bạc của H3 chính
số tiền H3 mang theo để tham gia đánh bạc 400.000 đồng; số tiền dùng vào
việc đánh bạc của N6 chính số tiền N6 mang theo để tham gia đánh bạc
150.000 đồng.
Huỳnh Văn Q cùng với Trần Hữu N2, Trần Văn T2, Võ Thành N3Nguyễn
Văn P thu 7.600.000 đồng tiền sân 2.500.000 đồng tiền xâu ván bão, tổng cộng
thu lợi bất chính số tiền 10.100.000 đồng từ việc tổ chức đánh bạc.
* Tại Bản án hình sự thẩm số 06/2023/HS-ST ngày 03-3-2023 của Tòa án
nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Huỳnh
Văn Q phạm “Tội tổ chức đánh bạc”; bị cáo Trần Hữu N2 phạm “Tội tổ chức đánh
bạc” và “Tội đánh bạc”; bị cáo Nguyễn Văn T1 phạm “Tội đánh bạc”.
- Áp dụng điểm a, b, c, d, đ khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1,
khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35;
10
Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn Q 01 (một) năm 06 (sáu)
tháng về “Tội tổ chức đánh bạc”, thời hạn tính tngày bị cáo chấp hành án
hình phạt tù. Nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày
15/7/2022 đến ngày 09/12/2022 04 (bốn) tháng 28 (hai mươi tám) ngày. Thời
hạn còn lại bị cáo phải chấp hành là 01 (một) năm 01 (một) tháng 02 (hai) ngày tù.
Phạt bổ sung số tiền 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng.
- Áp dụng điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 17, Điều 58; điểm b khoản 1 Điều 32; khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Hữu N2 stiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng về “Tội tổ
chức đánh bạc”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều
51; Điều 17, Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Hữu N2
03 (ba) năm về “Tội đánh bạc”, thời hạn tính tngày bị cáo chấp hành án
hình phạt tù. Nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày
15/7/2022 đến ngày 09/12/2022 04 (bốn) tháng 28 (hai mươi tám) ngày. Thời
hạn còn lại bị cáo phải chấp hành là 02 (hai) năm 07 (bảy) tháng 02 (hai) ngày tù.
- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều
51; Điều 17, Điều 58; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35; Điều 38 của Bộ
luật Hình sự. Xphạt bị cáo Nguyễn Văn T1 03 (ba) năm về “Tội đánh bạc”,
thời hạn tính từ ngày bị cáo chấp hành án hình phạt tù. Nhưng được trừ vào thời
gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/7/2022 đến ngày 07/10/2022 02
(hai) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày. Thời hạn còn lại bị cáo phải chấp hành 02
(hai) năm 09 (chín) tháng 06 (sáu) ngày tù. Phạt bổ sung stiền 20.000.000 (hai
mươi triệu) đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn tuyên về tội danh, trách nhiệm hình sự đối
với các bị cáo khác, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo
theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/3/2023 bị cáo Nguyễn Văn T1 kháng cáo yêu
cầu giảm nhẹ hình phạt được hưởng án treo; cùng ngày 13/3/2023, các bị cáo
Huỳnh Văn Q Trần Hữu N2 kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt được
hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo thừa nhận hành vi phạm tội phù
hợp bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo Q cho rằng còn mẹ già và con nhỏ, bị cáo N2, bị
cáo T1 cho rằng hoàn cảnh khó khăn để yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và được
hưởng án treo.
11
Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau: Đơn kháng
cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định. Về tội danh, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét
xử và tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn Q phạm “Tội tổ chức đánh bạc” theo điểm a, b,
c, d, đ khoản 1, khoản 3 Điều 322 Bộ luật Hình sự; bị cáo Trần Hữu N2 phạm “Tội
tổ chức đánh bạc” theo điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự “Tội
đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình s; bị cáo Nguyễn Văn T1
phạm “Tội đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình ssở,
đúng người, đúng tội. Xét kháng cáo của các bị cáo thấy rằng bị cáo Q tiền sự,
phạm vào nhiều tình tiết định khung, bị cáo N2 phạm nhiều tội; bị cáo T1, N2
phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng; các bị cáo không thêm tình tiết giảm
nhẹ mới nên không s giảm hình phạt hưởng án treo. Căn cứ điểm a
khoản 1 khoản 2 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận
kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Áp dụng điểm a, b, c, d, đ khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1,
khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35;
Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn Q 01 (một) năm 06 (sáu)
tháng về “Tội tổ chức đánh bạc”, thời hạn tính tngày bị cáo chấp hành án
hình phạt tù. Nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày
15/7/2022 đến ngày 09/12/2022 04 (bốn) tháng 28 (hai mươi tám) ngày. Thời
hạn còn lại bị cáo phải chấp hành là 01 (một) năm 01 (một) tháng 02 (hai) ngày tù.
Phạt bổ sung số tiền 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng.
- Áp dụng điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 17, Điều 58; điểm b khoản 1 Điều 32; khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Hữu N2 stiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng về “Tội tổ
chức đánh bạc”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều
51; Điều 17, Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Hữu N2
03 (ba) năm về “Tội đánh bạc”, thời hạn tính tngày bị cáo chấp hành án
hình phạt tù. Nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày
15/7/2022 đến ngày 09/12/2022 04 (bốn) tháng 28 (hai mươi tám) ngày. Thời
hạn còn lại bị cáo phải chấp hành là 02 (hai) năm 07 (bảy) tháng 02 (hai) ngày tù.
- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều
51; Điều 17, Điều 58; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35; Điều 38 của Bộ
luật Hình sự. Xphạt bị cáo Nguyễn Văn T1 03 (ba) năm về “Tội đánh bạc”,
thời hạn tính từ ngày bị cáo chấp hành án hình phạt tù. Nhưng được trừ vào thời
gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/7/2022 đến ngày 07/10/2022 02
(hai) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày. Thời hạn còn lại bị cáo phải chấp hành 02
12
(hai) năm 09 (chín) tháng 06 (sáu) ngày tù. Phạt bổ sung stiền 20.000.000 (hai
mươi triệu) đồng.
Các phần quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Các bị cáo tranh luận đều yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Lời nói sau cùng, bị cáo Q yêu cầu giảm nhhình phạt về nuôi mẹ con
nhỏ, bị cáo ăn năn hối hận; bị cáo N2 yêu cầu giảm nhẹ hình phạt để sớm về nuôi
con nhỏ, bị cáo không hiểu biết pháp luật; bị cáo T1 yêu cầu giảm nhẹ hình phạt do
hoàn cảnh gia đình khó khăn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của các bcáo gửi đến Tòa án trong
thời hạn kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi,
quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành
vi, quyết định tố tụng của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã
thực hiện đều hợp pháp.
[2] Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, sở xác định. Vào ngày 10/7/2022 Huỳnh Văn
Q cùng với Trần Hữu N2, Trần Văn T2, Thành N3, Nguyễn Văn P, Trần Thị
N1, Trung K, Phạm Văn D Nguyễn Trung T3 tổ chức cho các bị cáo
Nguyễn Văn T1, Trần Văn K1, Trần Văn Q1 những người tham gia đánh bạc
dưới hình thức đá gà (05 trận) được thua bằng tiền trong đó có bị cáo Trần Hữu N2
tổ chức cho các bị cáo Văn H, Nguyễn Văn T4, Phạm Hoài B, Văn T5,
Trần Văn K1, Phạm Văn N4, Phạm Văn Đ, Văn N5 Thanh P1 tham gia
đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu được thua bằng tiền với số tiền dùng vào việc
đánh bạc 48.710.000 đồng (trong đó tiền thu tại chiếu bạc 12.920.000 đồng).
Số tiền xâu (đá gà + tài xỉu) các bị cáo Q, N3, N2, T2, P thu lợi bất chính từ
việc tổ chức đánh bạc là 10.100.000 đồng. Số tiền thu được Q giữ đến cuối ngày
của ngày tổ chức đánh bạc, sau khi trừ các chi phí như tiền mua băng keo, cựa gà,
bạc trải.....và trả tiền công người canh đường còn lại số tiền bao nhiêu sẽ chia đều
cho Q, N2, T2, N3 P.
Trong đó Huỳnh Văn Q, Trần Hữu N2, Trần Văn T2, Thành N3
Nguyễn Văn P bàn bạc thống nhất với nhau lấy nơi của Q để tổ chức cho người
khác đánh bạc ăn thua bằng tiền dưới hình thức đá lắc tài xỉu tại ấp H, T,
huyện G, tỉnh Bến Tre để thu tiền sân tiền xâu của những người tham gia đánh
bạc (Bị cáo Q, N3 đã bị xphạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc nhưng
13
chưa được xóa tiền sự). Bị cáo N2 là người trực tiếp phân công Phạm Văn D làm
nhiệm vụ canh đường. Theo thỏa thuận, mỗi ngày canh đường cho địa điểm đánh
bạc này, Do được trả từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, ngày 10/7/2022 Do chưa
nhận được tiền công.
Khoảng 13 giờ ngày 10/7/2022 tại nhà của Huỳnh Văn Q diễn ra 05 trận gà,
trong đó:
Trận 1: Gà của bị cáo Trần Hữu N2 đá với gà của bị cáo Nguyễn Văn T1 tỷ lệ
cáo cược 100%-80%, tiền cược 3.000.000 đồng, tổng số tiền cược
130.000.000 đồng (Nguyện đá 3.000.000, 20 người đá hàng sáo 127.000.000
đồng). N3 làm biện, P cung cấp cựa gà và băng keo, T2 tham gia làm trọng tài, trận
gà này T1 thắng 104.000.000 đồng. Do đó, số tiền dùng vào việc đánh bạc của trận
này là 234.000.000 đồng.
Trận 2: Trận giữa Q1 và Đ2, tỷ lệ thắng thua 100%-70%, cược stiền
3.000.000 đồng. Nguyện làm biện, thu đá hàng xáo 27.000.000 đồng của 06 người;
P cung cấp cựa gà và băng keo; Tròn tham gia làm trọng tài. Tổng số tiền cho trận
2 là 30.000.000 đồng; Q1 không biết đá hàng xáo là bao nhiêu;
Trận 3: Trận giữa Q1 S1, tỷ lệ cược 100%- 80%, cược 3.000.000
đồng; N2 N3 làm biện, P cung cấp cựa băng keo, T2 làm trọng tài, đá
hàng xáo thông qua N2 06 người số tiền là 13.000.000 đồng. Tổng số tiền cho
trận 3 là 19.000.000 đồng; trong đó Q1 3.000.000 đồng S1 5.400.000 đồng (do
S1 thắng trận). Ngoài ra còn Phạm Văn N4 Văn R1 riêng bên ngoài
với người khác, N4 tham gia 700.000 đồng, R1 tham gia 150.000 đồng;
Trận 4: Trận giữa B1 Â, tỷ lệ cược 100%, tiền cược 1.000.000
đồng. Nguyện làm biện, P cung cấp cựa và băng keo, T2 làm trọng tài, Do thả
cho Â; 02 người đá hàng xáo thông qua Nguyện 2.000.000 đồng. Tổng số
tiền dùng vào đánh bạc cho trận 4 6.000.000 đồng. Ngoài ra, Phạm Văn Đ
cược bên ngoài với người khác số tiền 500.000 đồng;
Trận 5: Trận gà giữa K1 Q1, tlệ cược 100%, tiền cược 5.000.000
đồng. Q N2 làm biện, P cung cấp cựa băng keo, N3 làm trọng tài, T2
trồng cựa thả cho K1; 03 người nhờ K1 đá hàng xáo 10.000.000 đồng
đá với 05 người khác thông qua N2. Như vậy, số tiền tham gia đánh bạc là
30.000.000 đồng (do K1 thắng với số tiền 30.000.000 đồng), Quí 5.000.000 đồng.
Ngoài ra, Nguyễn Văn T4 cược bên ngoài với người khác số tiền 1.000.000
đồng; Phạm Văn V với Cao Văn N7 1.000.000 đồng; Lương Minh H1
1.000.000 đồng; Phạm Văn Đ 500.000 đồng; Văn Minh K2 500.000 đồng; Từ
Vũ L2 500.000 đồng; Phạm Hoài B 500.000 đồng; Võ Văn R1 100.000 đồng.
14
Với ý thức, hành vi số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc, Tòa án
cấp thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn Q phạm “Tội tổ chức đánh
bạc” theo điểm a, b, c, d, đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự; bị cáo Trần Hữu N2
phạm “Tội tổ chức đánh bạc” theo điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình
sự “Tội đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự; bị cáo
Nguyễn Văn T1 phạm “Tội đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình
sự là có cơ sở, đúng quy định pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của các bị cáo, thấy rằng: a án cấp thẩm khi áp dụng
hình phạt đã xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cho bị cáo như: bị cáo Trần Hữu N2 không tiền án, tiền sự nên được
xem nhân thân tốt; bị cáo Huỳnh Văn Q một tiền sự về hành vi đánh bạc
trái phép nhưng chưa được xóa tiền sự nên được xem nhân thân xấu; bị cáo
Nguyễn Văn T1 tuy không tiền án, tiền sự nhưng trước đó từng bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi đánh bạc, nên được xem nhân thân xấu. Các b
cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: các bcáo thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải; các bị cáo Q, N2, T1 nộp tiền đánh bạc tiền thu lợi bất
chính, đầu thú đang nuôi con nhỏ; bị cáo T1 bị cáo N2 lao động chính
trong gia đình; bị cáo Q cha ruột là ông Huỳnh Văn T là Thương binh Hạng 4/4
được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến Hạng Nhất, ông nội ông
Huỳnh Văn C1 Liệt được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến Hạng
Nhất, ngoại Thị H4 Liệt sĩ, bà nội vợ Nguyễn Thị K3 được
Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, có hai bác vợ là ông
Trần Văn N8 và ông Trần Văn Đ3 là Liệt sĩ; bị cáo N2 cậu ruột là ông Trần Văn
T8 Thương binh Hạng 4/4; theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51
Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo T1 nộp thêm tiền thu lợi bất chính, tuy
nhiên đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét áp dụng. Các bị cáo cho rằng hoàn cảnh
gia đình khó khăn không thuộc tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều
51 Bộ luật Hình sự.
Xét yêu cầu giảm hình phạt, đối với bị cáo T1 và bị cáo N2 không đủ tình tiết
giảm nhẹ để áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất theo điều luật các bị cáo bị
truy tố, hình phạt 03 năm mức thấp nhất của khung hình phạt; đối với bị cáo
Q mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù là phù hợp do bị cáo phạm vào nhiều tình tiết
định khung hình phạt. Xét yêu cầu hưởng án treo, Tòa án cấp sơ thẩm xác định các
bị cáo Q tiền sự, bị cáo T1 nhân thân xấu phạm tội thuộc trường hợp
nghiêm trọng, bị cáo N2 cùng một lúc phạm nhiều tội trong đó tội thuộc trường
15
hợp nghiêm trọng nên Tòa án cấp sơ thẩm không cho các bị cáo hưởng án treo
phù hợp.
Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, ginguyên quyết định
của bản án sơ thẩm theo đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.
[4] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí do kháng cáo không được chấp
nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng
hình sự; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên quyết định của
Bản án sơ thẩm.
1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn Q phạm “Tội tổ chức đánh bạc”; bị cáo Trần
Hữu N2 phạm “Tội tổ chức đánh bạc” “Tội đánh bạc”; bị cáo Nguyễn Văn T1
phạm “Tội đánh bạc”.
1.1. Áp dụng điểm a, b, c, d, đ khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1,
khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35;
Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn Q 01 (một) năm 06 (sáu)
tháng về “Tội tổ chức đánh bạc”, thời hạn tính tngày bị cáo chấp hành án
hình phạt tù. Nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày
15/7/2022 đến ngày 09/12/2022 04 (bốn) tháng 28 (hai mươi tám) ngày. Thời
hạn còn lại bị cáo phải chấp hành là 01 (một) năm 01 (một) tháng 02 (hai) ngày tù.
Phạt bổ sung số tiền 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng.
1.2. Áp dụng điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều
51; Điều 17, Điều 58; điểm b khoản 1 Điều 32; khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Hình
sự. Xử phạt bị cáo Trần Hữu N2 số tiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng về “Tội
tổ chức đánh bạc”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Hữu
N2 03 (ba) năm tù về “Tội đánh bạc”, thời hạn tính từ ngày bị cáo chấp hành án
hình phạt tù. Nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày
15/7/2022 đến ngày 09/12/2022 04 (bốn) tháng 28 (hai mươi tám) ngày. Thời
hạn còn lại bị cáo phải chấp hành là 02 (hai) năm 07 (bảy) tháng 02 (hai) ngày tù.
1.3. Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51; Điều 17, Điều 58; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2 Điều 35; Điều 38 của
Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T1 03 (ba) năm tù về “Tội đánh bạc”,
thời hạn tính từ ngày bị cáo chấp hành án hình phạt tù. Nhưng được trừ vào thời
16
gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/7/2022 đến ngày 07/10/2022 là 02
(hai) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày. Thời hạn còn lại bị cáo phải chấp hành 02
(hai) năm 09 (chín) tháng 06 (sáu) ngày tù. Phạt bổ sung stiền 20.000.000 (hai
mươi triệu) đồng.
2. Tiếp tục tạm giữ số tiền 144.300.000 (một trăm bốn mươi bốn triệu ba trăm
nghìn) đồng theo biên lai số: 0000737 ngày 09/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre để đảm bảo thi hành án cho Nguyễn Văn T1.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Ttụng hình s; Điều 23 của Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội.
Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Huỳnh Văn Q, Trần Hữu N2, Nguyễn
Văn T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc
thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhn:
- Vụ GĐKT I - Tòa án nhân dân tối cao (1b);
- VKSND tnh Bến Tre (1b);
- Phòng h sơ Công an tỉnh Bến Tre (1b);
- Sở Tư pháp tỉnh Bến Tre (1b);
- Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm (9b);
- VKSND huyện Giồng Trôm (1b);
- Công an huyện Giồng Trôm (1b);
- Chi cục THADS huyện Giồng Trôm (1b);
- UBNDĐ, h. Giồng Trôm (1b);
- UBND xã T, h. Giồng Trôm (1b);
- UBND xã B, h. Giồng Trôm (1b);
- Các bị cáo (3b);
- Phòng KTNV & THA, Tòa Hình sự, Văn png
TAND tnh Bến Tre (5b);
- Lưu hồ sơ vụ án (1b).
TM.HỘI ĐNG XT X PHC THM
THM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Văn Tỉnh
Tải về
40_2023_HS-PT_ BEN_TRE.pdf 40_2023_HS-PT_ BEN_TRE.pdf

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

40_2023_HS-PT_ BEN_TRE.doc 40_2023_HS-PT_ BEN_TRE.doc

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất