Bản án số 18/2023/HS-PT ngày 24-07-2023 của TAND tỉnh Lạng Sơn về tội tổ chức đánh bạc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
18_2023_HS-PT_ LANG SON
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
18_2023_HS-PT_ LANG SON
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 18/2023/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 18/2023/HS-PT ngày 24-07-2023 của TAND tỉnh Lạng Sơn về tội tổ chức đánh bạc |
|---|---|
| Tội danh: | 249.Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lạng Sơn |
| Số hiệu: | 18/2023/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 24/07/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Triệu Thị Ngọc L phạm tội Tổ chức đánh bạc. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 18/2023/HS-PT
Ngày 24-7-2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Chu Long Kiếm
Các Thẩm phán: Ông Phạm Văn Tuệ
Bà Nguyễn Thị Minh Thùy
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Phượng - Thư ký Toà án nhân dân
tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tham gia phiên toà:
Bà Lương Thị Hòa - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét
xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 45/2023/TLPT-HS
ngày 06 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo Triệu Thị Ngọc L do có kháng cáo của
bị cáo Triệu Thị Ngọc L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2023/HS-ST
ngày 28-4-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
- Bị cáo có kháng cáo: Triệu Thị Ngọc L, sinh ngày 04 tháng 4 năm 1994
tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số O, đường T, phường
H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:
12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con
ông Triệu Minh A (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; có chồng là Nguyễn Trung H
và 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự:
Không; nhân thân: Chưa từng bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật.
Ngoài ra, trong vụ án còn có 03 bị cáo, 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 18 giờ 05 ngày 28/11/2022 tại khu vực đường 37m, KĐT P, phường H,
TP L, tổ Công an thành phố Lạng Sơn bắt quả tang Triệu Thị Ngọc L có hành vi
nhận bán số lô đề tư nhân qua điện thoại di động. Tổ công tác tiến hành lập biên
bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Samsung
Galaxy A52S 5G lắp sim số thuê bao 0583.208.252.
2
Tại cơ quan điều tra Triệu Thị Ngọc L khai nhận: Ngày 28/11/2022 Triệu
Thị Ngọc L sử dụng điện thoại di động nhận số lô, đề qua tin nhắn cho những
đối tượng sau: Chử Thị C; Nguyễn Thị Ch; Nguyễn Thị L; Nguyễn Thị H; Đoàn
Thu S và người phụ nữ trên Th (không rõ lai lịch). Triệu Thị Ngọc L sau khi
nhận số lô, đề cho khách thì tổng hợp lại chuyển số lô đề qua tin nhắn đến số
điện thoại 0326.388.378 cho một người phụ nữ tên C (không rõ lai lịch). Căn cứ
kết quả mở thưởng của xổ số kiến thiết Miền Bắc hàng ngày, Triệu Thị Ngọc L
so sánh các số lô, đề của người mua xem có trúng thưởng hay không rồi thanh
toán tiền vào ngày hôm sau.
Quá trình điều tra đã xác định hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc của các
bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án như sau:
Hành vi tổ chức đánh bạc của bị cáo Triệu Thị Ngọc L:
Ngày 28/11/2022 Triệu Thị Ngọc L sử dụng số điện thoại 0853.208.525 để
nhận số lô, đề của các bị cáo và những đối tượng liên quan như sau:
Đối với Nguyễn Thị L: Đề hai số, ba số và lô xiên Triệu Thị Ngọc L tính
với Nguyễn Thị L giá 750đ/1 điểm; Số lô Triệu Thị Ngọc L tính với Nguyễn Thị
L giá 21.800đ/1 điểm. Triệu Thị Ngọc L nhận của Nguyễn Thị L 16.998 điểm đề
hai số; 385 điểm đề ba số; 60 điểm lô xiên 2; 100 điểm lô xiên 3; 60 điểm lô
xiên 4 và 1.531 điểm số lô tương ứng số tiền Triệu Thị Ngọc L nhận của
Nguyễn Thị L là 46.578.050đ (bốn mươi sáu triệu năm trăm bảy mươi tám
nghìn không trăm năm mươi đồng).
Đối với Chử Thị C: Số lô Triệu Thị Ngọc L tính với Chử Thị C giá
21.800đ/1 điểm. Triệu Thị Ngọc L nhận của Chử Thị C 500 điểm số lô tương
ứng số tiền Triệu Thị Ngọc L nhận của Chử Thị C là 10.900.000đ (mười triệu
chín trăm nghìn đồng).
Đối với Nguyễn Thị Ch: Đề hai số Triệu Thị Ngọc L tính với Nguyễn Thị
Ch giá 730đ/1 điểm; Số lô Triệu Thị Ngọc L tính với Nguyễn Thị Ch giá
21.700đ/1 điểm. Triệu Thị Ngọc L nhận của Nguyễn Thị Ch 3.480 điểm đề hai
số; 235 điểm số lô tương ứng số tiền Triệu Thị Ngọc L nhận của Nguyễn Thị Ch
là 7.605.100đ (bảy triệu sáu trăm linh năm nghìn một trăm đồng).
Đối với Nguyễn Thị H: Đề hai số Triệu Thị Ngọc L tính với Nguyễn Thị H
giá 720đ/1 điểm; Số lô Triệu Thị Ngọc L tính với Nguyễn Thị H giá 21.700đ/1
điểm. Triệu Thị Ngọc L nhận của Nguyễn Thị H 2.400 điểm đề hai số và 100 điểm
lô tương ứng số tiền Triệu Thị Ngọc L nhận của Nguyễn Thị H là 3.898.000đ (ba
triệu tám trăm chín mươi tám nghìn đồng).
Đối với Đoàn Thu S: Đề hai số, ba số và lô xiên Triệu Thị Ngọc L tính với
Đoàn Thu S giá 730đ/1 điểm; Số lô Triệu Thị Ngọc L tính với Đoàn Thu S giá
21.800đ/1 điểm. Triệu Thị Ngọc L nhận của Đoàn Thu S 697 điểm đề hai số;
235 điểm đề ba số; 40 điểm lô xiên 3 và 49 điểm số lô tương ứng số tiền Triệu
Thị Ngọc L nhận của Đoàn Thu S là 1.777.760đ (một triệu bảy trăm bảy mươi
bảy nghìn bảy trăm sáu mươi đồng).
Đối với người phụ nữ tên Thủy không quen biết: Đề hai số, ba số và lô
xiên Triệu Thị Ngọc L tính với Thủy giá 720đ/1 điểm; Số lô Triệu Thị Ngọc L
3
tính với Thủy giá 21.700đ/1 điểm. Triệu Thị Ngọc L nhận của người phụ nữ
tên Thủy với 14.000 điểm đề hai số; 5.000 điểm đề ba số; 15.000 điểm lô xiên
2; 4.500 điểm số lô tương ứng số tiền Triệu Thị Ngọc L nhận của người phụ nữ
tên Thủy là 122.130.000đ (một trăm hai mươi hai triệu một trăm ba mươi
nghìn đồng).
Sau khi tổng hợp các số lô đề trên: Triệu Thị Ngọc L chuyển toàn bộ số
lô, đề cho người con gái tên Châu sử dụng số điện thoại 0326388378, Triệu Thị
Ngọc L đã chuyển tin nhắn 5.000.000 đồng đề 3 số; 15.000.000 đồng lô xiên.
Tổng số 20.000.000 đồng, trong lúc bị cáo Triệu Thị Ngọc L đang rà soát số lô
đề để tiếp tục chuyển cho C thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Triệu Thị
Ngọc L chưa nhận tiền từ những người trên và cũng chưa chuyển tiền cho đối
tượng C, việc thanh toán chia lợi nhuận sẽ thực hiện trong ngày hôm sau.
Tổng số tiền đánh bạc của Triệu Thị Ngọc L ngày 28/11/2022 là 192.888.910
đồng (một trăm chín mươi hai triệu tám trăm tám mươi tám nghìn chín trăm mười
đồng).
Thời điểm phát hiện hành vi Đánh bạc của Triệu Thị Ngọc L trước khi mở
thưởng kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc ngày 28/11/2022 nên không tính
thưởng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2023/HS-ST ngày 28-4-2023 của Tòa án
nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định: Tuyên bố bị cáo
Triệu Thị Ngọc L phạm tội Tổ chức đánh bạc. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều
322, điểm s khoản 1 Điều 51, các Điều 17, 58, 38 của Bộ luật Hình sự năm
2015, xử phạt bị cáo Triệu Thị Ngọc L 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội Tổ chức
đánh bạc. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối
với 03 bị cáo khác và tuyên về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, án phí và
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn luật định, bị cáo Triệu Thị Ngọc L kháng cáo xin giảm
hình phạt tù được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Triệu Thị Ngọc L giữ nguyên nội dung kháng cáo xin được hưởng
án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn phát biểu quan điểm về
việc giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm kết án bị cáo Triệu Thị Ngọc L về tội Tổ
chức đánh bạc là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã
đánh giá về nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như đã xem xét
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo đã
cung cấp 01 đơn trình bày có xác nhận của chính quyền địa phương; bị cáo đã
nộp 50.000.000 đồng tiền tạm ứng số tiền truy thu; 01 Huân chương kháng chiến
hạng Nhì của bà Hoàng Thị B (bà nội); 01 Huân chương kháng chiến hạng Hai
của ông Nguyễn Đức T (ông nội); 01 Huân chương lao động hạng Ba của ông
Nguyễn Mạnh T (bố chồng); 01 hồ sơ khám chữa bệnh ung thư tuyến giáp của
bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới mà bị cáo được hưởng
theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đối chiếu với

4
các quy định của pháp luật về án treo, bị cáo có đủ điều kiện để được hưởng án
treo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e
khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo
của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt tù, cho hưởng án treo và ấn định thời gian
thử thách.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Triệu Thị Ngọc L thừa nhận toàn bộ
hành vi phạm tội của bản thân đúng như nội dung của Bản án sơ thẩm. Tòa án cấp
sơ thẩm xét xử bị cáo Triệu Thị Ngọc L về tội Tổ chức đánh bạc theo quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 322 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và
không oan.
[2] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo, thấy rằng:
[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét về nhân thân, tính chất, mức độ hành
vi phạm tội và áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự đối với bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo với mức án 24
tháng tù là phù hợp với quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo đã
cung cấp thêm các tài liệu, chứng cứ gồm có: 01 đơn xin trình bày bản thân bị
cáo tại địa phương luôn chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của pháp luật,
tích cực tham gia đầy đủ các hoạt động thiện nguyện, hằng năm gia đình được
công nhận là gia đình văn hóa có xác nhận của Khối trưởng và của Ủy ban nhân
dân phường H, thành phố L; 01 bộ hồ sơ khám chữa bệnh ghi nhận bị cáo Triệu
Thị Ngọc L mặc bệnh ung thư tuyến giáp, sau khi phẫu thuật tại bệnh viện K và
điều trị tại Viện Y học phóng xạ và Ung bứu Quân đội, hiện vẫn đang triệu trị
thuốc nội tiết theo đơn ngoại trú; 01 Huân chương kháng chiến hạng Nhì của bà
Hoàng Thị B là bà nội của bị cáo; ông nội bị cáo là Nguyễn Đức T được Nhà
nước Huân chương kháng chiến hạng Nhì, Huy chương chiến thắng hạng Hai;
bố chống bị cáo là ông Nguyễn Mạnh T có 01 Huy chương lao động hạng Ba;
sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo Triệu Thị Ngọc L cũng đã nộp một phần tiền truy
thu là 50.000.000 đồng tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn. Đây là các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới bị cáo được hưởng theo quy định tại
khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
[4] Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có
tình tiết tăng nặng. Ngoài lần phạm tội này, bị cáo luôn chấp hành đúng chính
sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú; bị
cáo có nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian tại ngoại vừa qua không có hành vi bỏ
trốn hay vi phạm pháp luật; có khả năng tự cải tạo, bản thân bị cáo bị mắc bệnh
ung thư, đang nuôi 02 con nhỏ. Có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin hưởng án
treo của bị cáo.
5
[5] Về biện pháp tư pháp, bị cáo đã nộp 50.000.000 đồng tại Cục Thi hành
án dân sự tỉnh Lạng Sơn, nên cần xác nhận. Bị cáo còn phải nộp tiếp số tiền
72.130.000 đồng.
[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn phù hợp
với nhận định trên nên cần chấp nhận.
[7] Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu tiền án phí
hình sự phúc thẩm.
[8] Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015; chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo
Triệu Thị Ngọc L; sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2023/HS-ST
ngày 28-4-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đối
với phần hình phạt tù của bị cáo Triệu Thị Ngọc L, cụ thể như sau:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 322, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, các
17, 58 và khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015,
1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Triệu Thị Ngọc L 24 tháng tù, cho hưởng
án treo về tội Tổ chức đánh bạc. Thời gian thử thách là 48 tháng, kể từ ngày
tuyên án phúc thẩm là ngày 24-7-2023.
Giao bị cáo Triệu Thị Ngọc L cho Ủy ban nhân dân phường H, thành phố
L, tỉnh Lạng Sơn để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực
hiện theo quy định tại Điều 68, khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa
vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo
phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về biện pháp tư pháp: Xác nhận bị cáo đã nộp 50.000.000 đồng (năm
mươi triệu đồng) theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0001490 ngày 05-7-2023 tại
Chi cục T, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi khấu trừ bị cáo còn phải nộp tiếp số tiền
72.130.000 đồng (bả mươi hai triệu một trăm ba mươi ngàn đồng) sung ngân
sách Nhà nước.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-
12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Triệu Thị
Ngọc L không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
6
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- Sở T tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND tỉnh Lạng Sơn;
- PV06 Công an tỉnh Lạng Sơn;
- TAND TP. Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND TP. Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn;
- CCT TP., tỉnh Lạng Sơn;
- Công an TP. Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn;
- Bị cáo;
- ..................;
- Lưu: HS; Tòa HS; HCTP, KTNV&THA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Chu Long Kiếm
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 15/01/2024 của TAND huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An về tội tổ chức đánh bạc
Ban hành: 15/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 30/10/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 15/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 12/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 09/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 171/2023/HS-ST ngày 22/08/2023 của TAND Q. Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội về tội tổ chức đánh bạc
Ban hành: 22/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/07/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 04/07/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 149/2023/HS-ST ngày 29/06/2023 của TAND Q. Nam Từ Liêm, TP. Hà Nội về tội tổ chức đánh bạc
Ban hành: 29/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm