Bản án số 39/2024/KDTM-PT ngày 27/02/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về mua bán hàng hóa

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 39/2024/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 39/2024/KDTM-PT ngày 27/02/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về mua bán hàng hóa
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về mua bán hàng hóa
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hà Nội
Số hiệu: 39/2024/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/02/2024
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngày 27/02/2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
------------------
Bản án số: 39/2024/KDTM-PT
Ngày: 27/02/2024
V/v : Tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hoá
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thúy Linh.
Các Thẩm phán: Bà Phạm Thị Mai
Ông Nguyễn Xuân Tuấn
- Tphiên tòa: Thị Thuỳ Dương Thư Tòa án nhân dân Thành
phố Hà Nội
- Đi diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Kim Thanh - Kiểm sát viên.
Ngày 27/02/2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Nội xét xử phúc thẩm
công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ số: 285/2023/TLPT-KDTM ngày 19
tháng 12 năm 2023 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá do bản án Kinh doanh
thương mại sơ thẩm số 60/2023/KDTM-ST ngày 28 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân
dân quận Cầu Giấy, thành phố Nội bị kháng cáo theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
phúc thẩm số: 36/2024/QĐ-PT ngày 12 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: ng ty cổ phần H5
Địa chỉ: B đường T, tổ A phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn N, Chức vụ: Giám đốc
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1992; địa chỉ: số
H tổ C phường Q, quận H, Nội ông Dương Văn D, sinh năm 1993; địa chỉ: Số
nhà C đường X, pờng X, quận B, Nội (Văn bn ủy quyền ngày 11/7/2022);
mặt.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Dương Đức T
ông Vũ Văn M - LuậtCông ty L; Địa chỉ: S A, ngõ B, đường T, phường T, quận C,
thành phố Hà Nội; vắng mặt.
Bị đơn: Công ty TNHH K4
Địa chỉ: Số C, ngách E, ngõ F phố C, phường Q, quận C, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thế K, Giám đốc
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Việt H1
Nguyễn Thị Lan H2 - Công ty L1 (Benjamin L); Địa chỉ: Tầng E, tòa nhà V, số E L,
phường T, quận B, thành phố Hà Nội (theo Giấy ủy quyền số 108/GUQ-KWAY ngày
10/8/2022).
(Bà Nguyễn Thị Việt H1 và bà Nguyễn Thị Lan H2 có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khởi kiện vàc lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên
đơn trình bày:
Ngày 12/04/2022, Công ty cổ phần H5 (sau đây gọi tắt là “Công ty H5”) và Công
ty TNHH K4 (sau đây gọi tắt Công ty K4”) Hợp đồng mua bán hàng hóa số 12/04-
2022/HĐTM-HTC (sau đây gọi tắt là Hp đồng) về việc mua bán bóng bay Tai Cheng
với tổng giá trị hợp đồng 2.500.000.000 đồng. Theo đó, trong thời hạn 03 ngày sau
khi Hợp đồng, Công ty H5 trách nhiệm thanh toán cho ng ty K4 70% giá tr
hợp đồng (tương ứng với số tiền 1.750.000.000 đồng). Ngày 13/4/2022, theo đề nghị
của ông Nguyễn Thế K - Người đi diện theo pháp luật của Công ty K4, ng ty H5 đã
chuyển số tiền 1.750.000.000 đồng vào tài khoản nhân của ông K. Sau đó, ông K xác
nhận với Công ty H5 về việc đã chuyển số tiền nêu trên vào tài khoản Công ty K4 để
thực hiện Hợp đồng. Tuy nhiên, đến ngày 21/4/2022, Công ty H5 bất ngờ nhận được
Công văn số 006/CV ngày 19/4/2022 của Công ty K4 thông báo về việc hủy Hợp đồng
không đưa ra được do chính đáng căn cứ pháp lý. Việc Công ty K4 đơn phương
chấm dứt hợp đồng vi phạm quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền lợi ích hợp pháp của Công ty H5. Theo quy định tại khoản 2.5, khoản 2.6 Điều
2 của Hợp đồng, Công ty K4 có trách nhiệm hoàn trả số tiền Công ty H5 đã thanh toán,
bởi thường thiệt hại và chịu phạt vi phạm hợp đồng
Sau đó, đến ngày 07/5/2022, ông K tự ý chuyển số tiền 1.750.000.000 đồng o
tài khoản cá nhân của ông Hà Tiến D1- Người đại diện theo pháp luật (cũ)của Công ty
3
H5 với lý do chuyển lại số tiền bị chuyển nhầm tài khoản. Đồng thời, Công ty K4 cũng
không đồng ý bồi tờng thiệt hại thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo thỏa
thuận do đã đơn phương chấm dứt Hp đồng trái pháp luật.
vậy, Công ty H5 làm Đơn khởi kiện Công ty K4, đề nghị Tòa án buộc Công
ty K4 thanh toán các khoản tiền sau:
1. Thanh toán tiền bồi thưởng thiệt hại tương ứng với số tiền Công ty H5 đã thanh
toán cho Công ty K4 là 1.750.000.000 đồng.
2. Thanh toán tiền phạt vi phạm hợp đồng tương ứng 8% phần nghĩa vụ hợp đồng
bị vi phạm là: 2.500.000.000 đồng x 8% = 200.000.000 đồng.
Tổng số tiền Công ty H5 yêu cầu Công ty K4 thanh toán là: 1.950.000.000 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 23/09/2023: Công ty H5 tự nguyện rút yêu cầu buộc
Công ty K4 bồi thường thiệt hại tương ứng vi số tiền H3 đã thanh toán cho Công ty K4
1.750.000.000 đồng. Nay chỉ yêu cầu Công ty K4 thanh toán tin phạt vi phạm hợp
đồng tương ứng 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm là 200.000.000 đồng.
Bị đơn trình bày:
Ngày 12/4/2022, Công ty H5 Công ty K4 ký Hợp đồng mua bán hàng hóa số
12/04-2022/HĐTM-HTC ngày 12/4/2022 (gi tắt là "Hợp đồng”) thỏa thuận về việc
mua bán bóng bay Tai Cheng với tổng giá trị Hợp đồng 2.500.000.000 đồng (Bằng
chữ: Hai tỷ năm trăm triệu đồng). Sau khi ký kết, Công ty H5 không thực hiện đúng các
thoả thuận về thanh toán, do vậy Công ty K4 đã gửi thông báo chấm dứt hợp đồng vào
ngày 19/4/2022 (07 ngày sau khi ký hợp đồng). Việc khởi kiện yêu cầu đòi bồi thường
và phạt hợp đồng của Công ty H5 là không có căn cứ bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, Hp đồng mua bán hàng hóa số 12/04-2022/HĐTM-HTC ngày
12/4/2022 giữa Công ty H5 Công ty K4 (gọi tắt là "Hợp đồng") chưa phát sinh nghĩa
vụ đối với Công ty K4 do H3 vi phạm về điều khoản thanh toán:
Tại khoản 2.1 Điều 2 của Hợp đồng quy định: "Bên A thanh toán 70% giá trị tiền
hàng ghi tại Điều 1 của Hợp đồng trong vòng tối đa 03 (ba) ngày sau khi ký hợp đồng,
tương ứng vi số tiền 1.750.000.000 đồng cho bên B". Tuy nhiên, sau 03 (ba) ngày kể
từ ngày Hợp đồng, Công ty H5 không thực hiện việc thanh toán số tiền trên cho Công
ty K4.
4
Thời điểm hợp đồng thời điểm dịch bệnh Covid đang diễn biến rất phức tạp,
hàng hoá mua bán là hàng hoá mang tính chất đặc thù định danh (thương hiệu) nên
chỉ có một nhà cung cấp duy nhất, các bên cùng hiểu rằng để ký kết được hợp đồng sản
xuất với nhà máy bên Trung Quốc thì Công ty K4 cần cử người sang trực tiếp nhà máy
để làm việc. Do vậy, hai bên đã thống nhất, bên cạnh các nội dung đã thoả thuận trong
hợp đồng thì ông D1 sbằng tiền nhân ca mình đặt cọc cho ông K số tiền tương ứng
1.750.000.000 đồng để ông K đủ tin tưởng cử người sang Nhà máy tại Trung Quốc.
Việc đặt cọc bằng tiền cá nhân của ông D1 không liên quan gì đến Hợp đồng đã ký kết
và đây là thoả thuận giữa các cá nhân với nhau. Trong quá trình trao đổi công việc, ông
D1 cũng đã chủ động n bạc với Ông K rằng vic thanh toán vào tài khoản của Công
ty theo Hợp đồng bên ông D1 sẽ trách nhiệm xử lý sau, trước mắt ông K cứ làm việc
với nhà máy để đảm bảo được hợp đồng sản xuất lịch giao hàng trước. Mọi
vấn đề khó khăn hai bên sẽ cùng nhau trao đổi với mục đích là nhập được hàng về Việt
Nam.
Tuy nhiên, đến ngày 19/4/2022, Công ty H5 vẫn không thực hiện việc thanh toán
theo thoả thuận tại Hợp đồng, nên Công ty K4 không có cơ sở để ký kết hp đồng chính
thức với nhà máy tại Trung Quốc. Ngày 19/4/2022, Công ty K4 đã ra Công văn số
006/Cv ngày 19/4/2022 gửi Công ty H5 về việc hủy hợp đồng do Công ty K4 chưa nhận
được số tiền đặt cọc theo thỏa thuận. Đến ngày 07/5/2022, ông K đã chủ động chuyển
lại toàn bộ số tiền đã nhận từ ông D1 vào tài khoản cá nhân của ông D1.
Căn cứ vào khoản 2.1, 2.3 Điều 2; khoản 6.1 Điều 6 Hợp đồng 12/04-
2022/HĐTM-HTC ngày 12/4/2022 các nội dung thoả thuận giữa hai bên, Công ty
K4 khẳng định rằng Hợp đồng số 12/04-2022/HĐTM-HTC chưa phát sinh nghĩa vụ do
của K1 do bên mua là Công ty H5 không thực hiện theo đúng các thoả thuận trong hợp
đồng đã ký về điều khoản thanh toán mà không có lý do chính đáng. Tại hồ sơ Công ty
H5 cung cấp cho T không có bất kỳ văn bản thoả thuận nào thống nhất về việc điu
chỉnh phương thức thanh toán phù hợp với ý chí các bên cũng như phợp với quy định
của pháp luật.
Thứ hai, lời khai của Nguyên đơn không đúng không phù hợp với thực tế khách
quan cũng như các quy định chung về Hợp đồng và nghĩa vụ dân sự:
- Tại Văn bản số 2204/2022/CV-HTC ngày 22/4/2022, Công ty H5 phúc đáp
Công văn số 006/CV ngày 19/4/2022, theo đó, Công ty H5 cho rằng: “Sau khi các bên
kết hợp đồng, ngày 13/4/2022 theo đề nghị của Ông Nguyễn Thế K, chúng tôi đã
5
chuyển đủ số tiền cọc 1.750.000.000 đồng để thanh toán mua hàng hoá theo chỉ định
của ông K. Theo xác nhận bằng tin nhắn của Ông K tsố tiền nêu trên vào dòng tiền
của Q Công ty và chúng tôi đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán lần 1 theo Hợp đồng”.
- Tại Đơn mời Lut sư ngày 26/4/2022, Công ty H5 cung cấp thông tin:
“Ngày13/4/2022, theo đề nghị của Ông Nguyễn Thế K, chúng tôi chuyển tiền thanh toán
mua hàng vào tài khoản cá nhân của ông K. Sau đó ông K xác nhận đã chuyển số tiền
mà chúng tôi đã thanh toán vào tài khoản Công ty K4 để thực hiện Hợp đồng”.
- Tại trang 2, dòng 8 từ trên xuống Vi bằng số 81/2022/VB-TPLTBG lập ngày
06/5/2022 của Thừa phát lại Phạm Hoàng P do Ông Hà Tiến D1 yêu cầu khai: “Ngày
13/4/2022, theo đề nghị của Ông Nguyễn Thế K người đại diện theo pháp luật ng
ty K4, tôi đã chuyển 1.750.000.000 đồng tiền thanh toán mua bán hàng hoá theo đúng
các điều khoản Hợp đồng nêu trên vào tài khoản cá nhân của ông K. Sau đó, ông K c
nhận đã nhận đúng, đủ số tiền trên và chuyển số tiền mà tôi thanh toán nêu trên vào tài
khoản của Công ty K4 để thực hiện Hợp đồng”.
- Tại Đơn khởi kiện ngày 10/5/2022, Công ty H5 nêu: “Ngày 13/4/2022, theo đề
nghị của Ông Nguyễn Thế K, chúng tôi chuyển tiền thanh toán mua hàng vào tài khoản
nhân của ông K. Sau đó ông K xác nhận đã chuyển số tiền chúng tôi đã thanh
toán vào tài khoản Công ty K4 để thực hiện Hợp đồng”.
- Tại Công văn số 1005/2022/CV-HTC ngày 10/5/2022, Công ty H5 tiếp tục
khẳng định: “Ngày 13/4/2022, theo đề nghị của Ông Nguyễn Thế K, chúng tôi chuyển
tiền thanh toán mua hàng vào tài khoản cá nhân của ông K. Sau đó ông K xác nhận đã
chuyển số tiền mà chúng tôi đã thanh toán vào tài khoản Công ty K4 để thực hiện Hợp
đồng”.
- Tại Bản tự khai ngày 28/6/2022, Ông Nguyễn Tuấn A, đại diện theo uỷ quyền
của Công ty H5 khai: “Ngày 13/4/2022, theo đề nghị của Ông Nguyễn Thế K, chúng tôi
chuyển tiền thanh toán mua hàng o tài khoản nhân của ông K. Sau đó ông K xác
nhận đã chuyển số tiền chúng tôi đã thanh toán vào tài khoản Công ty K4 để thực
hiện Hợp đồng”.
Với tư cách Người đại diện theo pháp luật của Công ty K4 người trực tiếp
đàm phán, kết thực hiện hp đồng, ông Nguyễn Thế K cam kết khẳng định như
sau:
6
Một là, ông K không bt kỳ “đề nghị nào về việc H3 chuyển tiền thanh toán
theo hợp đồng vào tài khoản cá nhân của ông K”.
Hai là, ông K xác nhận không việc có thoả thuận ông K phải chuyển số tiền ông
D1 đã chuyển làm tin t tài khoản nhân của ông D1 vào tài khoản nhân của ông
K, sau đó ông K phải tự hợp thức hoá việc thanh toán bằng việc tự chuyển số tiền đó
vào tài khoản của Công ty K4 như lời khai của Nguyên đơn.
Ba là, việc chuyển tiền từ tài khoản nhân của ông D1 vào tài khoản nhân
của ông K ông K xác nhận đã nhận đủ sự thoả thuận nhân giữa ông D1
ông K. Theo đó, ông K có đủ cơ sở niềm tin để cử người sang nhà máy tại Trung Quốc
để đàm phán hợp đồng trong giai đoạn dịch bệnh đang tăng cao. Về bản chất, ông D1
và ông K đều hiểu rằng, việc ký kết hợp đồng được với nhà máy tại thời điểm đó là rất
khó khăn, và Hợp đồng số 12/04-2022/HĐTM-HTC ngày 12/4/2022 cũng là một trong
những bước để Công ty K4 căn cứ pháp lý khi làm việc với nhà sản xuất.
Bốn là, các bên đều hiểu, các thoả thuận trong hp đồng thể hiện ý chí chủ quan
của các chủ thể, các điều khoản đã thoả thuận điều khoản ý nghĩa bắt buộc thực
hiện làm phát sinh quyền và nghĩa vụ tương ứng. Cần đặt ra câu hỏi vì sao trường
hợp các bên đã ký hợp đồng chính thức với nhau mà thay vì H3 chuyển tiền thanh toán
từ tài khoản H5 sang tài khoản của K1 theo quy định thì Ông D1 lại chuyển từ tài khoản
cá nhân của nh sang tài khoản cá nhân của ông K. Ở đây, cần tách bạch hai mối quan
hệ chủ thể giữa pháp nhân-pháp nhân nhân-nhân kể cả khi các nhân đó
Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Nhất là khi, ông K hoàn toàn bác bỏ lời khai
một chiều của H4 trong hồ cũng không tồn ti bất kỳ một văn bản nào chứng minh
cho lời khai là phù hợp.
Thứ ba, bác bỏ tính hợp pháp của Vi bằng số 81/2022/VB-TPLTBG lập ngày
06/5/2022 bởi Thừa phát lại Phạm Hoàng K2 theo yêu cầu của Ông Hà Tiến D1:
Ngày 08/11/2022, trong Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ hòa giải tại TAND quận Cầu Giy, qua việc sao chụp các tài liệu, chứng
cứ do phía Nguyên đơn là Công ty H5 cung cấp, Công ty K4 nhận thấy nội dung của Vi
bằng số 81/2022/VB-TPLTBG lp ngày 06/5/2022 đã có s thay đổi, không đầy đủ so
với toàn bộ nội dung ông K ông D1 đã trao đổi qua tin nhắn zalo từ ngày
12/4/2022. Trên cơ sở đối chiếu các nội dung, ông K đã tiến hành lập Vi bằng ghi nhận
lại các ni dung tin nhắn giữa hai bên để làm chứng cứ giao nộp cho Toà án. Do đó,
Công ty K4 yêu cầu Tòa án bác bỏ chứng cứ Vi bằng số 81/2022/VB-TPLTBG lập
7
ngày 6/5/2022 Nguyên đơn đã cung cấp, đồng thời tôn trọng những nội dung các
bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng.
Trên cơ sở các lp luận nêu trên tại phiên tòa đại diện ủy quyền của Công ty K4
đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca Công ty K4 thanh toán tiền phạt
vi phạm hp đồng tương ứng 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm là: 2.500.000.000
VND x 8% = 200.000.000 đồng.
Tại bản án kinh doanh thương mại thẩm số 60/2023/KDTM-ST ngày
28/9/2023, Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần H5 đối với Công ty
TNHH K4. Buộc Công ty TNHH K4 phải trả cho Công ty cổ phần H5 số tiền phạt vi
phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa, cụ thể:
Thanh toán số tiền phạt vi phạm hợp đồng tương ứng 8% phần nghĩa vụ hợp đồng
bị vi phạm là: 2.500.000.000 VNĐ x 8% = 200.000.000 đồng.
Đình chỉ yêu cầu của Công ty cổ phần H5 buộc Công ty TNHH K4 bồi thường
thiệt hại tương ứng với số tiền đã thanh toán cho Công ty TNHH K4 là 1.750.000.000
đồng.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí,thi hành án quyền kháng cáo của
các đương sự.
Không đồng ý với bản án thẩm, ngày 29/9/2023, Công ty TNHH K4 đơn
kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của Nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Toà án nhân dân Thành phố Nội tiến hành thụ giải
quyết vụ án đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc tuân theo pp luật tố tụng của thẩm phán, HĐXX việc chấp hành pháp
luật của nguyên đơn, bị đơn đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đơn kháng cáo của bị đơn trong thời hạn và hợp lệ.
Xét kháng cáo của bị đơn: Hợp đồng mua bán được các bên ký kết là tự nguyện,
phù hợp với quy định của pháp luật nên có hiệu lực pháp luật.
Nguyên đơn đã chuyển tiền đặt cọc 70% tổng giá trị hợp đồng o tài khoản
nhân của ông K o ngày 13/4/2022. Tại biên bn hoà giải cấp sơ thẩm ông K xác nhận
8
đồng ý để nguyên đơn chuyển tiền vào tài khoản cá nhân của mình. Việc thoả thuận này
được các bên trao đổi qua tin nhắn điện thoại.
Ông K vừa là người đại diện theo pháp luật của bị đơn và xác nhận đã nhận tiền
do nguyên đơn chuyển. Vì vậy Hợp đồng đã phát sinh nghĩa vụ phải thực hiện.
Tại phiên hoà giải cấp thẩm, ông K trình bày do nguồn hàng Trung Quốc
không đảm bảo, ông K3 không đảm bảo nguồn hàng để cung cấp nên ông đã ban
hành văn bản số 006 chấm dứt hợp đồng với nguyên đơn với do nguyên đơn vi phạm
hợp đồng, không thực hiện chuyển tiền đặt cọc cho bị đơn.
Việc bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng là không có căn cứ. Kháng o của
bị đơn cho rằng việc tuyên bố chấm dứt hợp đồng do nguyên đơn vi phạm hợp đồng là
không có cơ sở. Vì vậy không chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
Đề nghị HĐXX: Căn cứ khoản 1 điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự; Nghị quyết
Nghị quyết 326 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
- Giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm của Toà án nhân dân quận
Cầu Giấy.
- Án phí xử lý theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả
việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên, các quy định của pháp luật, Hội
đồng xét xử nhận định:
[1]. Đơn kháng cáo của các đương sự nộp trong thời hạn quy định của pháp luật
và đã nộp dự phí kháng cáo nên kháng cáo là hợp lệ.
[2]. Xét kháng cáo của Công ty TNHH K4:
Hợp đồng mua bán hàng hóa số 12/04-2022/HĐTM-HTC ngày 12/04/2022 được
các bên ký kết trên cơ sở thoả thuận về việc mua bán bóng bay Tai Cheng, sản xuất tại
Trung Quốc. Tổng giá trị hợp đồng là 2.500.000.000 đồng.
Điều 2: Thanh tn: Trong thời hn 03 ngày sau khi Hợp đồng, Công ty H5 có
trách nhiệm thanh toán cho Công ty K4 70% giá trị hợp đồng (tương ứng với số tiền
1.750.000.000 đồng).
Điều 3: Thời gian giao hàng tối đa 45 ngày tính từ ngày Công ty K4 nhận được
số tiền thanh toán lần 1.
9
Thực hiện hợp đồng, ngày 13/4/2022, Công ty H5 đã chuyển số tiền
1.750.000.000 đồng vào tài khoản cá nhân của ông Nguyễn Thế K Giám đốc công ty
K4. Trước khi chuyển tiền đặt cọc, hai bên thoả thuận chuyển số tiền đặt cọc này vào
tài khoản cá nhân của giám đốc công ty K4 và được ông K đồng ý.
Ngày 19/4/2022 công ty K4 công văn số 006/CV thông báo hy Hợp đồng
với do Công ty chưa nhận được số tiền đặt cọc do H3 chuyển. Đồng thời ngày
7/5/2022 ông Nguyễn Thế K đã chuyển trả lại số tiền 1.750.000.000 đồng cho ông
Tiến D1 Giám đốc công ty H5 với lý do chuyển lại số tiền bị chuyển nhầm tài khoản.
Việc do huỷ hợp đồng của công ty K4 không cơ cơ sở bi lẽ: Khi kết hợp đồng,
ông K là đại diện theo pháp luật của công ty K4 cũng đồng ý để công ty H5 chuyển s
tiền này vào tài khoản nn của ông K. Sau đó ngày 16/4/2022 hồi 10h16’ ông K còn
trao đổi qua Zalo vi ông D1 “hiện tại người của anh đang ở nhà máy và đang chờ họ
chốt ngày giao hàng”. Như vậy ông K đã liên hệ với nhà y để thực hiện hợp đồng,
không thắc mắc gì về việc chuyển tiền đặt cọc đồng nghĩa với việc ông K đồng ý với
việc chuyển tiền của nguyên đơn. Tại biên bản hgiải ngày 10/7/2023 tại Toà án nhân
dân quận Cầu Giấy ông K trình bày:..“Nguồn hàng Trung Quốc bị gián đoạn dịch
Covid 19, tôi không chắc chắn đảm bảo về nguồn hàng nên cung cấp số tài khoản
nhân để ông D1 chuyển tiền đặt cọc giống như khoản tiền đảm bảo để mua hàng. Tuy
nhiên tình hình đến ngày 19/4/2022 do nguồn hàng Trung Quốc không đảm bảo nên tôi
đã gửi công văn 006/CV ngày 19/4/2022 để huỷ bỏ hợp đồng”
Như vậy do huỷ hợp đồng của công ty K4 thực chất không đảm bảo nguồn
hàng, không hàng đgiao, còn không phải do nguyên đơn vi phạm Hợp đồng chưa
chuyển tiền đặt cọc bởi việc chuyển tiền vào tài khoản cá nhân đã được ông K đng ý.
Bị đơn cũng không chứng minh được việc không giao được hàng thuộc trường hợp bất
khả kháng do nhà máy Trung Quốc phải ngừng sản xuất, thành phố nơi nhà máy Sản
xuất bóng bay bị phong toả do dịch bệnh covid…. Do đó việc huỷ bỏ hợp đồng hoàn
toàn do lỗi của bị đơn.
Theo quy định tại điều 2.5 và 2.6 của hợp đồng các bên thoả thuận việc chấm dứt
hợp đồng trái pháp luật thì bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại và chịu phạt vi phạm
hợp đồng áp dụng mức tối đa theo luật định. Nay nguyên đơn chỉ yêu cầu phạt vi phạm
rút yêu cầu bồi thường thiệt hại. Mức phạt vi phạm hợp đồng án thẩm áp dụng
bằng 8% giá trị hợp đồng bị vi phm: 2.500.000.000 đ x 8% = 200.000.000 đ đúng
10
quy định tại điều 300 Luật thương mại. Vì vậy không có cơ schấp nhận kháng cáo của
bị đơn.
Kháng cáo của bị đơn không được chp nhận nên người kháng cáo phải chịu án
phí KDTM phúc thẩm.
Từ những nhận định nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điều 300, 301 Luật Thương mại 2005;
Căn cứ điều 30, 35, 147, 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội.
Xử: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH K4
Giữ nguyên bản án Kinh doanh thương mại thẩm số 60/2023/KDTM-ST ngày
28/9/2022 của Toà án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Về án phí Kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty TNHH K4 phải chịu
2.000.000 đồng án phí KDTM phúc thẩm. Được trừ vào s tiền tạm ứng án phí 2.000.000
đồng đã nộp theo biên lai số AA/2020/0019850 ngày 17/10/2023 của Chi cục Thi hành
án dân sự quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Trường hợp bản án được thi nh án theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có Hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND Thành phố Hà Nội;
- TAND quận Cầu Giấy;
- VKSND quận Cầu Giấy;
- Cục THADS TP Hà Nội;
- Chi cục THADS quận Cầu Giấy;
- Đương sự;
- Lưu HS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thuý Linh
Tải về
Bản án số 39/2024/KDTM-PT Bản án số 39/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 39/2024/KDTM-PT Bản án số 39/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất