Bản án số 389/2025/DS-PT ngày 28/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 389/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 389/2025/DS-PT ngày 28/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 389/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: y án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CP CAO
TI THÀNH PH H CHÍ MINH
Bn án s: 389/2025/DS-PT
Ngày: 28 - 4 - 2025
V/v Tranh chp quyền sử dụng đất
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp T do Hnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CP CAO TI THÀNH PH H CHÍ MINH
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán Ch ta phiên tòa:
Bà H Th Thanh Thúy
Các Thm phán:
Ông Phan Tô Ngc
Ông Phan Nht Bình
- Thư phiên tòa: Ông Phạm Phú Cường - Thư Tòa án nhân dân cấp
cao ti Thành ph H Chí Minh.
- Đại din Vin kim sát nhân dân cp cao ti Thành ph H Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Phượng - Kim sát viên.
Ngày 28 tháng 4 năm 2025, tại tr s Tòa án nhân dân cp cao ti Thành ph
H Chí Minh xét x phúc thm công khai v án dân s th s: 931/2024/TLPT-
DS ngày 22 tháng 11 năm 2024 v vic: Tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do Bn án dân s thm s: 470/2024/DS-ST ngày 29 tháng 7 năm 2024
ca Toà án nhân dân Thành ph H Chí Minh b kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét x phúc thm s: 498/2025/QĐPT-DS
ngày 11 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Võ Minh T, sinh năm 1956 (vắng mặt).
Địa chỉ: C N, khu phố G, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh
Người đại diện theo ủy quyền:
Ông Châu Thanh T1, sinh năm 1977 (có mặt).
Địa chỉ: A khu phố Ô, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh
Trương Lê Cảnh T2, sinh năm 1998 (có mặt).
Địa chỉ: H T, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Phan Minh H, Công ty L1
Đoàn Luật sư Thành phố H (vắng mặt).
Địa chỉ: 4 T, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh
- Bị đơn: Ông Lê Văn D, sinh năm 1963 (có mặt).
Địa chỉ: Số A đường F, khu phố L, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh.
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Kim P Chuyên viên Phòng
T5 (vắng mặt).
Địa chỉ: 168 Trương Văn Bang, phường Thạnh Mỹ Lợi, thành phố Thủ Đức,
Thành phố Hồ Chí Minh
2. Công ty Cổ phần Phát triển Thành phố X (vắng mặt).
Địa chỉ: S giao dịch bất động sản V, Tầng C Trung tâm thương mại V, A Xa
lộ H, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh
3. Ông Nguyễn Đình C, sinh năm 1969 (vắng mặt).
Địa chỉ: B N, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh
4. Bà Lê Thị Ngân H1, sinh năm 1987 (xin vắng mặt).
Địa chỉ: A đường F, khu phố L, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí
Minh
5. Bà Nguyễn Thị P1, sinh năm 1964 (xin vắng mặt).
Địa chỉ: 2 N, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh
- Người kháng cáo: Nguyên đơn là ông Minh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Minh T, trình bày của người đại
diện theo ủy quyền ông Châu Thanh T1 người bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn Luật Phan Minh H trong quá trình tố tụng tại phiên
tòa như sau:
Ông Võ Minh T là con duy nhất của bà Hồ Thị L (sinh năm 1919, chết năm
2006), thuộc diện gia đình có công với cách mạng.
Trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, gia đình L là cơ sở Cách
mạng. Bà L đã bỏ tiền ra mua một phần đất ruộng, vườn với diện tích hơn 1,2 ha
(đính kèm 128 chứng thư đoạn mãi ruộng do Ủy ban hành chính L cấp ngày
21/7/1969 và Trích lục địa bộ tại T địa Gia Định ngày 04/8/1969 của chế độ cũ).
Căn cứ bản Trích sao sổ địa bộ số 134/TS-VPĐK-LT ngày 26/11/2015 của Văn
phòng đăng ký đất đai Thành phố H thì các thửa đất này hiện nay là thửa 45, 46,
49, 50 51 thuộc tờ bản đs109, phường L, Quận I (nay thành phT),
Thành phố Hồ Chí Minh, bà L đã giao cho ông Đoàn Văn T3 cũng là cơ sở cách
mạng canh tác nhằm mục đích xây dựng và bảo vệ cơ sở cách mạng tại đây (ông
Đoàn Văn T3 cha ruột của ông Lê Văn D là bị đơn trong vụ án). Việc bà L mua
đất rồi giao cho ông T3 canh tác được Dương Thị N nguyên thư liên
L, L và bà Nguyễn Thị Ngọc Á nguyên là cán bộ giao liên từ vùng bưng 6 xã về
Huyện nêu trong văn bản làm chứng (đính kèm văn bản ngày 22/03/1996
của bà Dương Thị N và văn bản ngày 26/03/1996 ca bà Nguyễn Thị Ngọc Á).
Từ ngày 30/04/1975, do tin tưởng ông Đoàn Văn T3 chỗ đồng chí trong
kháng chiến và vì lớn tuổi, sức khỏe suy yếu (bà L nhiều lần bị địch bắt, lần cuối
3
bị giam đến ngày giải phóng) gia cảnh neo đơn (bà L chmột người con duy
nhất ông Minh T nhưng trong thời gian từ sau giải phóng đến những năm
1980 ông T thành viên của Đoàn nghệ thuật Đ và thường xuyên được điều động
đi khắp mọi miền đất nước để phục vụ đồng bào) nên bà L vẫn để ông Đoàn Văn
T3 tiếp tục canh tác toàn bộ diện tích đất trên (không phải cho thuê đất).
Từ khoảng năm 1978, thửa đất nêu trên của bà L được ông T3 đưa vào Tập
đoàn sản xuất theo chủ trương chung của Đảng Nhà nước. Khi chỉ thị
299/TTg, bà L đến L làm thủ tục khai đất thì được biết là ông T3 đã đứng
tên khai thửa đất trên. L yêu cầu ông T3 trả lại đất và phản ảnh với chính
quyền về việc ông T3 đứng tên đăng ký thửa đất trên là không đúng, có dấu hiệu
chiếm đất gia đình bà cho ông T3 mượn đất canh tác chứ không cho thuê hay
bỏ đất nhưng chưa được giải quyết thì Tập đoàn giải thể, toàn bộ phần đất này
được chia lại cho các hộ canh tác gồm các ông Đoàn Văn T3, ông Nguyễn Văn
C1 và ông Định C2. Từ năm 1989, sau khi tập đoàn giải thể, L đã nhiều lần
làm đơn gửi Ủy ban nhân dân L yêu cầu giải quyết trả lại đất cho bà. Ngày
18/3/1996 Ủy ban nhân dân L văn bản số 33/CV-UB trả lời không giải
quyết trả lại đất cho bà L với các do: L mua đất nhưng không canh tác mà
cho nông dân thuê, các hộ thuê đất của bà L đã đưa đất vô tập đoàn; đất đã được
chia cho các hộ khác sau khi tập đoàn giải thể. L không đồng ý với nội dung
trả lời này vì thực tế bà không cho ông T3 thuê đấtsau ngày giải phóng miền
N 30/4/1975 bà L hoàn toàn không cho thuê đất nữa. đòi lại đất nhưng ông T3
không trả đất. Ủy ban nhân dân không giải quyết tranh chấp đất cho lại cho
phép ông T3 kê khai diện tích đất 3000 m
2
ghi tên hộ của ông T3 gồm vợ con ông
đăng ký quyền sử dụng đất của bà cho thuê là không đúng. Sau khi vợ chồng ông
T3 chết, con ông là ông D tiếp tục sử dụng đất của bà L và được chính quyền cấp
giấy chứng nhận quyền sdụng đất vào năm 2001 khi đất đang tranh chấp
(Biên bản hòa giải tranh chấp đất ngày 27/11/2001 tại UBND L nay UBND
phường L đã nộp cho Tòa án). Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong
khi đất đang có tranh chấp vi phạm Nghị định số 04/2000/NĐ-CP ngày
11/02/2000 của Chính phủ, tại khoản 2 Điều 3 Nghị định này quy định về việc
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không tranh chấp; căn cứ Luật Đất
đai năm 1993, Nghị định của Chính phủ thi hành Luật Đất đai 1993, sửa đổi bổ
sung năm 2001 và Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng
cục Địa chính hướng dẫn đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp Giấy chứng
nhận quyền sdụng đất, n cứ quy định tại Điều 3 4 Chương 2 Thông
1990/2001/ TT-TCĐC thì việc U cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
01118 QSDĐ/LE ngày 06/12/2001 cho thửa 50 thuộc tờ bản đồ số 109, phường
L, Quận I cho ông Lê Văn D tại thời điểm thửa đất này đang có tranh chấp là trái
pháp luật, yêu cầu Tòa án hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này.
Ông T yêu cầu Tòa án áp dụng tiểu mục 2.4 mục 2 phần II Nghị quyết số
02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao (đang có hiệu lực pháp luật), quy định về “Giải quyết tranh chấp quyền sử
4
dụng đất trong trường hợp đất đã được đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã mà
sau đó tập đoàn sản xuất, hợp tác xã đã bị giải thể”
“2.4 Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong trường hợp đất đã được
đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác sau đó tập đoàn sản xuất, hợp tác xã
đã bị giải thể.
a) Chủ cũ hoặc người thừa kế của người đó không có quyền đòi lại quyền sử
dụng đất nếu đất đó đã được giao cho người khác sử dụng và họ đã được Uỷ ban
nhân dân cấp thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật
Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 hoặc có một
trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai
năm 2003, trừ trường hợp căn cứ chứng minh người đang sử dụng đất đó
có hành vi gian dối, lừa đảo... để được giao quyền sử dụng đất.
Nay ông Võ Minh T đòi lại quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 50, tờ bản
đồ số 109, tọa lạc tại phường L, Quận I, diện tích 3.193,4m
2
do ông Văn D,
địa chỉ: A Đường F, khu phố L, phường L, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh quản
lý, sử dụng yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sdụng đất do Ủy ban nhân
dân huyện T (nay là Thành phố T) đã cấp cho hộ ông Lê Văn D vào năm 2001.
Bị đơn ông Lê Văn D trình bày:
Cha của ông là ông Đào Văn T4 cũng là người đi kháng chiến chung với bà
Hồ Thị L. Ông thừa nhận sự trình bày của ông Châu Thanh T1 người đại diện
hợp pháp của ông T về thửa đất có diện tích khoảng 3000m
2
đã đưa vào tập đoàn
sản xuất vào năm 1978 chính quyền địa phương đã cho gia đình ông đăng ký
sử dụng từ năm 1980 sau khi rời tập đoàn. Nói về nguồn gốc đất ông D cho biết
lúc ấy ông còn nhỏ, hộ gia đình ông có 3 người là cha mẹ ông và ông. Do cha ông
thoát ly đi theo cách mạng nên khi mẹ ông sinh ông thì lấy họ của mẹ. Khi nhận
đất của L để hoạt động cách mạng thì mẫu đất khoảng 10.000 ha. Nhưng khi
nhà nước đưa đất vào tập đoàn phân ra cho các gia đình khác theo bình quân
nhân khẩu đầu người nhà ông 3 nhân khẩu nên chính quyền địa phương chỉ
cho sử dụng có 3000m
2
đất. Cha mẹ ông lần lượt qua đời. Ông và vợ con tiếp tục
kế thừa quyền sử dụng đất nói trên. Năm 2001, sau nhiều năm tranh chấp, Ủy ban
nhân dân huyện T mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông.
Sau đó, đến năm 2009, phần đất nói trên đã bị quy hoạch làm dự án do Công
ty Cổ phần Phát triển Thành phố X chủ đầu tư. Ngày 03/6/2009, ông D vợ
con đã ủy quyền cho ông Nguyễn Đình C tại Phòng C3 thay mặt nhận tiền bồi
thường dán đối với toàn bộ diện tích đất này. Ông C đưa cho ông số tiền
1.600.000.000 (Một tỷ sáu trăm triệu) đồng. Thời hạn ủy quyền 12 năm. Hai
bên đã lập biên bản bàn giao đất và ông cũng đã nhận đủ tiền bán đất cho ông C.
Từ khi ủy quyền cho ông C tới nay, coi như nghĩa vụ ông bán đất đã xong, ông
không còn liên quan gì đến phần đất đó. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông hiện ông C giữ và làm ông cũng không biết. Ông đã bán đất cho ông C nên
5
nay nguyên đơn yêu cầu ông trả lại đất ông cũng không còn đất đtrả đất đã
được nhà nước quy hoạch rồi nên ông không ý kiến gì về việc đòi lại đất này
của phía ông T nữa.
Từ năm 1995 đến năm 2001, L liên tục nộp đơn tranh chấp đất này với
cha ông và các hộ dân khác tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T. Tại công văn số
33/CV-UB ngày 18/3/1996, Ủy ban nhân dân L, huyện T đã không trả lời
cũng không giải quyết giao trả lại ruộng đất theo nội dung đơn xin lại ruộng đất
của bà L hay ghi nhận kết quả hòa giải nào giữa bà L và các hộ.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đình C: Theo lời khai
của ông D rằng vào năm 2016, ông Nguyễn Đình C đã mua lại diện tích đất theo
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà hộ gia đình ông D đã được cấp và do đất
đã bị quy hoạch nên ông đã bán cho ông C toàn bộ đất nói trên với giá 1,6 tỷ đồng.
Ông đã ra Phòng Công chứng ký giấy ủy quyền cho ông C được đại diện cho gia
đình ông nhận tiền bồi thường đối với phần đất được giao trong thời hạn 12 năm
kể từ năm 2009. Xét ông C mặc dù đã được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không có do và không ý kiến
trình bày gì đối với vụ án này. Tuy nhiên theo tài liệu của Phòng C3, Thành phố
Hồ Chí Minh cung cấp cho Tòa án đã cơ sxác định việc ông C được ông D
ủy quyền để đàm phán nhận tiền bồi thường khi đất bị quy hoạch với Công ty Cổ
phần Phát triển Thành phố X từ năm 2009 trong hạn 12 năm là có cơ sở cho thấy
việc đất quy hoạch đã được ủy quyền cho ông C thương lượng với phía chủ
đầu tư nhận tiền bồi thường.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân Thành phố T
người đại diện theo ủy quyền là bà Nguyễn Thị Kim P có đơn xin vắng mặt trong
suốt quá trình giải quyết vụ án.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Cổ phần Phát triển Thành
phố X trình bày:
Theo hồ của vụ án thì bị đơn đã được Ủy ban nhân dân Quận U (nay
Ủy ban nhân dân Thành phố T) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
T217141, vào sổ cấp giấy chứng nhận số 01118 QSDĐ/LB ngày 06/12/2001 đối
với phần đất diện tích 3.176 m
2
tại phường L, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo bản tự khai ngày 06/11/2019 và bản tự khai bổ sung ngày 28/10/2021
của đại diện nguyên đơn thì nguồn gốc thửa đất là của Hồ Thị L - mẹ nguyên
đơn mua từ chủ đất nhưng không trực tiếp canh tác. Sau đó, từ khoảng năm
1978, thửa đất được đưa vào tập đoàn để sản xuất theo chính sách đất đai tại thời
điểm lúc bấy giờ.
Theo bản tự khai ngày 15/11/2019 của bị đơn, cha của bị đơn đã canh tác
trên thửa đất từ năm 1960. Sau khi bà Hồ Thị L nhận chuyển nhượng thửa đất từ
chủ shữu thì cha của bị đơn vẫn tiếp tục canh tác cho đến ngày 30/4/1975.
Đến năm 1976, theo chủ trương của nhà nước thì thửa đất đã được đưa vào Tập
6
đoàn số 14 ấp P, phường L, quận T để sản xuất. Năm 1986, Tập đoàn bị giải thể,
các phần đất trong tập đoàn được chia lại cho các đoàn viên. Sau khi cha của bị
đơn qua đời thì bị đơn tiếp tục đăng ký quản lý, sử dụng thửa đất và đã được cấp
Giấy chứng nhận.
Theo thẩm tra của chính quyền địa phương thì mcủa nguyên đơn thuận ý
giao toàn bộ diện tích đất nêu trên cho cha bị đơn thuê để canh tác thực tế sử
dụng ổn định từ trước năm 1975, nguyên đơn cũng không có căn cứ chứng minh
người đang sử dụng đất đó hành vi gian dối, lừa đảo để được giao quyền sử
dụng đất.
Căn cứ tiểu mục 2.4 Mục 2 Phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/08/2004 hướng dẫn “giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong trường hợp
đất đã được đưa vào tập đoàn sản xuất, sau đó tập đoàn sản xuất đã bị giải thể”
như sau: Đối với đất đã được cá nhân, tổ chức đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác
để sử dụng chung trong quá trình thực hiện chính sách hợp tác hoá nông nghiệp
mà sau khi tập đoàn sản xuất, hợp tác xã bị giải thể.
Ngày 15/04/2022, Công ty đã nhận được văn bản số 1372/2022/QĐ-
CCTLCC của Toà án giấy triệu tập đương sự để cung cấp bản tự khai liên quan
đến kết quả thẩm định giá, hồ sơ đền bù có liên quan đến các thửa đất thuộc giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình ông Văn D. Nay công ty yêu
cầu Tòa án căn cứ vào quy định Điều 2 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP quy định:
“Người khởi kiện không quyền khởi kiện quan, tổ chức, nhân khởi
kiện khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Yêu cầu khởi kiện của cơ quan,
tổ chức, cá nhân không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận
không việc quyền lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ”.
Yêu cầu Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này mà Tòa án đã thụ lý".
Bên cạnh đó, Công ty cũng xin nhấn mạnh rằng hộ ông Văn D đã được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật việc thoả
thuận bồi thường giữa Công ty ông Lê Văn D hoàn toàn hợp pháp, hai bên
cũng không bất kỳ tranh chấp nào về việc này. Do đó, vụ án giữa ông Minh
T và ông Lê Văn D là tranh chấp dân sự giữa hai bên, không có cơ sở đxác định
Công ty có quyền hay nghĩa vụ nào liên quan đến yêu cầu khởi kiện của ông
Minh T việc yêu cầu Công ty cung cấp tài liệu không liên quan trực tiếp đến
việc giải quyết các yêu cầu khởi kiện không phù hợp với quy định pháp luật.
Chính vậy, Công ty tiếp tục đề nghị Toà án xem xét ban hành quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự để tránh ảnh hưởng đến hoạt động bình thường
của doanh nghiệp.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị Ngân H1 Nguyễn
Thị P1 là vợ con của Lê Văn D thống nhất với ý kiến trình bày của bị đơn ông
Lê Văn D và có đơn đề nghị xin được giải quyết vắng mặt.
7
Tại bản án dân sự thẩm số 470/2024/DS-ST ngày 29 tháng 7 năm 2024
ca Toà án nhân dân Thành ph H Chí Minhquyết định:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Minh
T về việc đòi lại quyền sdụng đất đối với phần đất có diện tích 3.176m
2
tại
phường L, Quận I (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh và yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T217141, vào sổ cấp giấy chứng nhận số
01118 QSDĐ/LB do Ủy ban nhân dân Quận U (nay là thành phố T) cấp cho ông
Lê Văn D ngày 06/12/2001.
Ngoài ra bản án thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 07/8/2024, nguyên đơn ông Võ Minh T kháng cáo toàn bộ bản án dân
sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án thẩm, chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bị đơn đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm bác kháng cáo của nguyên đơn và giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh tham gia phiên tòa:
Về chấp hành pháp luật: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét x
những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
Về nội dung: Tòa án cấp thẩm đã xét xử căn cứ, đúng pháp luật. Tại
phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng
cứ nào mới chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xbác kháng cáo giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hvụ án được thẩm tra
tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Ý kiến của đại diện Viện
kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn được làm đúng quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự nên được xem xét theo thủ tục phúc thm.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người quyền lợi, nghĩa vliên quan đã
được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt hoặc đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ
Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự này.
8
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét x nhận định:
[2.1] Về nguồn gốc đất: hthể hiện, mặc dù bà Hồ Thị L (mẹ của nguyên
đơn) có chứng thư đoạn mãi của chế độ cũ đối với diện tích 01 ha đất tại phường
L, theo bbằng khoán với tổng diện tích hiện tại 10.605m
2
từ trước năm
1975, tuy nhiên L mua đất nhưng lại không trực tiếp canh tác cho các hộ
nông dân khác thuê. m 1980 đến năm 1988, đất được đưa vào tập đoàn sản xuất
theo chính sách đất đai lúc bấy giờ. Sau khi tập đoàn T6 do làm không hiệu quả,
Ủy ban nhân dân xã đã chia lại đất cho các hộ nông dân các hộ này trực tiếp
sử dụng đất đến nay. Từ năm 2000 đến năm 2001, bà L khiếu nại tranh chấp đất
tại Ủy ban nhân dân L được Ủy ban nhân dân L trả lời khiếu nại bằng
Công văn số 33/CV-UB ngày 18/3/1996, có nội dung không giải quyết trả lại đất
cho L với các do: L mua đất nhưng không canh tác cho nông dân thuê,
các hthuê đất của bà L đã đưa đất vô tập đoàn; đất đã được chia cho các hộ khác
sau khi tập đoàn giải thể.
Theo txác nhận trích lục sổ mục kê ruộng đất ngày 09/12/2000 thì thửa đất
số 288, 330, 131, 132, 133 với diện tích đất lúa và ao là 2609m
2
đã được Ủy ban
nhân dân L xác nhận ông Văn D đã đăng được cấp theo đơn do Ủy
ban nhân dân phường L xác nhận, chính sau khi tập đoàn thì các hộ dân đang
sử dụng đất được phân chia đất theo tỷ lệ bình quân đầu người. Ông D là con của
ông T4, cùng vợ con ông, tổng cộng 3 người, người trong hgia đình sử
dụng đất chung, đã được kế thừa quyền sử dụng đất nông nghiệp nên đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
[2.2] Ông Văn D đưc y ban nhân dân Qun U (nay thành ph T)
cp giy chng nhn quyn s dụng đất s T217141, vào s cp giy chng nhn
s 01118 QSDĐ/LB ngày 06/12/2001 đi vi phần đất din tích 3.176 m
2
ti
phưng L, Qun I, Thành ph H Chí Minh. Đây là thi đim Luật Đất đai năm
1993 hiu lc. HL, ông T cũng không khiếu ni vic cp giy chng nhn
quyn s dụng đất, vic tranh chấp này đã kết thúc theo biên bn hòa gii ti y
ban nhân dân huyn T.
L chết năm 2006, quá trình tranh chấp đã diễn ra từ năm 1989 đến năm
2001. Thời điểm đó, Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực quy định thẩm quyền cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như giải quyết tranh chấp đất đai giữa
nhân với nhân trong trường hợp này theo Điều 38 Luật Đất đai năm 1993
thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân huyện T. Tại Điều 1 và Điều 2
Luật Đất đai năm 1993 có quy định:
“Điều 1: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế, đơn vị trang nhân dân,
quan Nhà nước, tổ chức chính trị, hội (gọi chung tổ chức), hộ gia đình
nhân sử dụng ổn định lâu dài. Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
9
thuê đất. Tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất
trong Luật này gọi chung là người sử dụng đất.
Điều 2: 1- Người sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn xác nhận tđược quan Nhà nước thẩm quyền xét cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
2- Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác s
dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của N1 dân chủ cộng hoà,
Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền N Việt Nam Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3- Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người làm nông nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản, lâm nghiệp có đất sản xuất.”.
Quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lúc này không thừa nhận
quyền sở hữu tài sản cá nhân là đất nông nghiệp như bằng khoán hay các chứng
thư đoạn mãi mua bán đất trước ngày thống nhất đất nước năm 1975. Luật Đất
Đai năm 1993 cũng không quy định về việc dựa vào các bằng khoán chế độ cũ,
để công nhận quyền sử dụng đất cho chủ cũ, tức là việc mua bán đất với nhau do
chính quyền chế độ cũ chứng thực.
Nguyên đơn cho rằng ông T4 hành vi lừa đảo, gian dối để được giao quyền
sử dụng đất, cụ thể ông T4 tập đoàn T7 đã đưa đất vô tập đoàn và khi tan rã tập
đoàn thì ông T4 nhận đất này cho gia đình mình, nên bà L phải được xét để chấp
nhận việc đòi lại đất theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02 chấp nhận đòi lại đất của
chủ cũ khi người sử dụng đất hành vi lừa đảo, gian dối nên yêu cầu xử trả lại
đất cho bà L có ông T đại diện nhận. Xét, theo Luật Đất đai năm 1987 cũng như
Luật Đất đai năm 1993, nhà nước không thừa nhận chế độ tư hữu ruộng đất
theo triển khai thực hiện Nghị quyết số 10, cũng như Chỉ thị 299/TTg ngày 10
tháng 11 năm 1980 về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký ruộng đất trong cả
nước của Thủ tướng Chính phủ, tđất đai sở hữu chung của toàn dân do nhà
nước thống nhất quản nên L bằng khoán chế độ (có đất), nhưng
bằng khoán cũng chỉ giá trị tham khảo để xác định số thửa lô; hoặc xác định
nguồn gốc đất đai chứ không giá trị để công nhận quyền sử dụng cho chủ sở
hữu đất đó theo chế độ tư hữu đất đai của chế độ cũ (Việt Nam C). Đến sau năm
1975, Nhà nước đã thống nhất quản chung đất đai. Việc đưa đất vào tập đoàn
để thực hiện tiếp chế độ sử dụng đất đai theo chế độ công hữu về đất, nên việc bà
L cho ông T4 thuê đất nhưng trên thực tế sử dụng đất, bản thân ông T4 không có
toàn quyền đối với toàn bộ đất đã thuê, mà toàn bộ đất này đã được nhà nước đưa
vào quản khi có đề ra chủ trương hình sản xuất tập đoàn, điều chỉnh chia
cho các hộ dân đang sử dụng đất sau khi tan rã tập đoàn.
Bản thân ông T không chứng minh được L là người trực canh trực trên
đất, chính L đại diện khai rằng do L không địa phương, cũng không
10
có sức khỏe để sử dụng đất, nên đã cho ông T4 thuê. Lời khai này đã cho thấy
L hay người nhà của đã không phải người đang trực tiếp sdụng, chiếm hữu
đất. Bà L đã không đáp ứng được những điều kiện quy định tại Điều 1 và Điều 2
Luật Đất Đai năm 1993 để được quan thẩm cho bà đăng sử dụng được
xét cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất khi có chủ trương. Cho đến thời điểm
năm 2001, phía L và con bà không có ai là người đang sử dụng đất để cơ quan
địa phương đăng vào sổ mục ruộng đất theo Chỉ thị 299/TTG của Chính
phủ nhằm làm cơ sở xác định quyền sử dụng đất nông nghiệp theo bình quân đầu
người, khi chế độ khoán sử dụng đất nông nghiệp theo hình tập đoàn T6. Việc
bằng khoán nhưng không trực tiếp canh tác của L một trong những vi
phạm chế độ đất đai Luật đất đai hiện hành lúc đó quy định nên việc không
cho bà L đăng ký sử dụng đất là phù hợp Luật đất đai thời điểmm 1993.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông T
đòi lại quyền sử dụng đấtmẹ ông L đã cho ông T4 thuê và hiện hộ ông D
đã và đang sử dụng diện tích 3.176 m
2
tại phường L, Quận I, Thành phố Hồ Chí
Minh cũng như yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấ cho ông D
đối với diện tích đất nêu trên là có căn cứ.
[2.3] Ngoài ra, năm 2009, toàn bộ đất nói trên đã bị quy hoạch giải tỏa nên
ông D đã ủy quyền cho ông Nguyễn Đình C đứng ra thương lượng nhận tiền
đền với Công ty Cổ phần Phát triển Thành phố X. Việc này diễn ra từ năm
2009 đến năm 2021 là đủ thời hạn 12 năm theo hợp đồng ủy quyền. Hiện nay dù
thời hạn ủy quyền cho ông C đã hết, nhưng đây là một quan hệ dân sự khác không
liên quan đến tranh chấp đất đai trong vụ án này, nên Tòa án cấp sơ thẩm không
xem xét giải quyết trong cùng vụ án tách giải quyết trong vụ án khác khi đương
sự có tranh chấp là phù hợp.
[3] T nhng nhận định trên, Hội đồng xét x xét thy, Tòa án cấp sơ thẩm
đã xét xử là có căn cứ. Vì vy, Hội đồng xét x không chp nhn yêu cu kháng
cáo của nguyên đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Quan điểm của đại din Vin
kim sát tham gia phiên tòa phù hp vi nhận đnh ca Hội đồng xét x nên được
chp nhn.
[4] Các quyết định khác ca bản án thẩm không kháng cáo, kháng ngh
đã có hiệu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng ngh.
[5] V án pdân s phúc thm: Nguyên đơn là ông Minh T là người cao
tuổi nên được miễn theo quy định ca pháp lut.
Vì các l trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 B lut T tng Dân s năm 2015;
11
Không chp nhn yêu cu kháng cáo ca nguyên đơn ông Minh T. Gi
nguyên bn án dân s thẩm s 470/2024/DS-ST ngày 29 tháng 7 năm 2024 của
Toà án nhân dân Thành ph H Chí Minh.
Căn cứ Điều 1, Điều 2 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993; Điều 203 Luật
Đất đai năm 2013; Ngh quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 ca
Ủy ban Thường v Quc hi;
Tuyên x:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Minh
T về việc đòi lại quyền sdụng đất đối với phần đất có diện tích 3.176m
2
tại
phường L, Quận I (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh và yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T217141, vào sổ cấp giấy chứng nhận số
01118 QSDĐ/LB do Ủy ban nhân dân Quận U (nay là thành phố T) cấp cho ông
Lê Văn D ngày 06/12/2001.
2. V án phí: ông Võ Minh T được miễn án phí dân s thẩm án phí dân
s phúc thẩm.
3. Các quyết định khác ca bn án sơ thm không có kháng cáo, kháng ngh
đã có hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hp Bn án được thi hành theo quy định ti Điu 2 Lut Thi hành án
Dân s thì người được thi hành án dân s, người phi thi hành án dân squyn
tha thun thi hành án, quyn yêu cu thi hành án, t nguyn thi hành án hoc b
cưỡng chế thi nh án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi
hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án Dân sự.
Bn án phúc thm có hiu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND cấp cao tại TP . HCM;
- TAND TP . HCM;
- VKSND TP . HCM;
- Cục THADS TP . HCM;
- Các đương sự;
- Lưu.
Hồ Thị Thanh Thúy
Tải về
Bản án số 389/2025/DS-PT Bản án số 389/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 389/2025/DS-PT Bản án số 389/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất