Bản án số 378/2025/DS-PT ngày 26/11/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 378/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 378/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 378/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 378/2025/DS-PT ngày 26/11/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
| Số hiệu: | 378/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 26/11/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | nguyên đơnTrương Thị H khởi kiện yêu cầu bị đơn Phan Ngọc D phải tháo dỡ cổng khung sắt đang chắn tại hẻm B N trả lại lối đi chung. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 378 /2025/DS-PT
Ngày: 26-11-2025.
V/v “Tranh chấp lối đi chung”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Đinh Thị Tuyết.
Các Thẩm phán: Ông Lê Ngọc Minh và ông Trần Minh Quang
- Thư ký phiên toà: Bà Ngô Tiểu Linh Đan – Thư ký Toà án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà
Trương Thị Thu Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 11 năm 2025, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 322/2025/DSPT ngày
06/10/2025 về việc “Tranh chấp lối đi chung”, do bản án dân sự sơ thẩm số:
96/2025/DS-ST ngày 06/6/2025 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk (Nay là Tòa án nhân dân khu vực 1 - Đắk Lắk) bị kháng
cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 369/2025/QĐXXPT- DS ngày 23
tháng 10 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trương Thị H, sinh năm 1964, ông Trần K, sinh năm
1964; Địa chỉ: Số A T, phường B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Phan Ngọc D, sinh năm 1963; Địa chỉ: Số B N, phường B,
tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Minh H1, sinh năm 1987; Địa
chỉ: Số E đường A, thôn A, phường B, tỉnh Đắk Lắk(có mặt).
Người bo vệ quyền và li ch hp pháp: Ông Phan Ngọc N, sinh năm
1954 lut sư - văn phòng L2- Đoàn lut sư tỉnh Đ(vắng mặt).
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B. (Sau sáp nhp thành Ủy ban
nhân dân phường B) (vắng mặt).
+ Bà Phạm Thị N1, sinh năm 1970, ông Tạ Đức L, sinh năm 1973; Địa chỉ:
Số D T, phường B, tỉnh Đắk Lắk(vắng mặt).
+ Ông Phan Ngọc N, sinh năm 1954; Địa chỉ: Số E đường A, thôn A,
phường B, tỉnh Đắk Lắk(vắng mặt).
+ Bà Nguyễn Thị N2, sinh năm 1966; Bà Phan Thị Ngọc H2, sinh năm
1986; Ông Phan Minh H3, sinh năm 1994;
Cùng địa chỉ: Số B N, phường B, tỉnh Đắk Lắk (đều vắng mặt).
+ Ông Phan Minh H1, sinh năm 1987; Địa chỉ: Số E đường A, Buôn M,
tỉnh Đắk Lắk(có mặt).

+ Bà Lê Thị L1, sinh năm 1977, ông Đặng Hoàng P, sinh năm 1976; Địa
chỉ: Số B L, phường B, tỉnh Đắk Lắk (đều vắng mặt).
4. Người làm chng
+ Ông Võ Ngọc Q, sinh năm 1955. Địa chỉ: K, phường B, tỉnh Đắk
Lắk(vắng mặt).
+ Ông Lê Hồng T, sinh năm 1959. Địa chỉ: Số B N, phường B, tỉnh Đắk
Lắk(vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên
đơn bà Trương Thị H, ông Trần K trình bày:
Bà Trương Thị H, ông Trần K (nguyên đơn) yêu cầu Tòa án giải quyết
buộc ông Phan Ngọc D (bị đơn) phải tháo dỡ cổng khung sắt đang chắn tại hẻm
B N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để trả lại lối đi chung để vào đt của
gia đnh nguyên đơn.
Về nguồn gốc đt: Tháng 11 năm 2019, nguyên đơn nhn chuyển nhượng
của bà Phạm Thị N1 quyền sử dụng đt thuộc thửa đt số 156, tờ bản đồ số 20,
diện tích 81,8m
2
, tọa lạc tại hẻm B N, tổ dân phố F, phường T, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cp Giy chứng nhn quyền
sử dụng đt (GCNQSDĐ), quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đt
số CS 045464 cp ngày 08/11/2019. Trên đt đã có 01 căn nhà cp 4 và có lối đi
chung là đường H N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Đường đi chung
này có chiều rộng khoảng 2,4m, chiều dài khoảng 30m; đã được công nhn trên
hệ thống bản đồ địa chính và thể hiện trên sơ đồ thửa đt ghi nhn trên Giy
chứng nhn quyền sử dụng đt được cp. Khi chuyển nhượng bà Phạm Thị N1
cũng không nói thêm g về con đường đi này. Kể từ khi nhn chuyển nhượng
quyền sử dụng đt gia đnh nguyên đơn đã sử dụng lối đi chung là hẻm S N,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk nói trên. Lối đi chung này là lối đi duy
nht của gia đnh nguyên đơn.
Đến khoảng giữa tháng 8/2020, bị đơn lắp cổng bằng khung sắt chiều rộng
2,4m, chiều cao khoảng 1,6m, giáp đường N và khóa lại, bít lối đi chung tại hẻm
BN, phường T, thành phố B, không cho gia đnh nguyên đơn sử dụng lối đi
chung nói trên. Việc bị đơn bít lối đi chung không cho gia đnh nguyên đơn đi
qua làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống sinh hoạt của gia đnh nên
nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải tháo dỡ cổng khung sắt đang chắn tại
hẻm B N trả lại lối đi chung.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền
của bị đơn ông Phan Minh H1 trình bày như sau:
- Về nguồn gốc, quá trnh sử dụng, quan điểm của bị đơn cũng như gia đnh
bị đơn giữ nguyên như tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, không đồng ý với
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể:
Bị đơn chỉ đồng ý cho nguyên đơn được quyền sử dụng chung lối đi con
hẻm B N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để ra đường chính Nguyễn Văn
C, khi gia đnh nguyên đơn phải đền bù cho bị đơn số tiền bằng 1/2 giá trị của
con hẻm theo kết quả định giá tại thời điểm xét xử theo quy định của pháp lut.

- Về nguồn gốc đt: Bị đơn là chủ sử dụng thửa đt số 28, tờ bản đồ số 20,
diện tích 1.245,6m², tọa lạc tại 2 N, phường T, Tp ., đã được Ủy ban nhân dân
(UBND) Tp . cp giy CNQSD đt số AL 642108 ngày 28/5/2008 vị trí từ trong
nhà bị đơn ra đường N là một con hẻm sử dụng riêng cho gia đnh bị đơn và gia
đnh ông Nguyễn T1 (cu ruột bị đơn). Con hẻm và tài sản trên đt là của riêng
gia đnh bị đơn tạo dựng.
Về nguồn gốc lối đi dn từ đường N vào nhà số B N phường T của bị đơn:
Trước năm 1975, thửa đt số 28 là của cha mẹ bị đơn. Năm 1971, cha mẹ bị
đơn cho anh trai là ông Phan Ngọc D1, đến năm 1990, ông D1 bán lại cho cu
ruột là ông Nguyễn T1, ông T1 đi chung trên con đường này. Năm 1991, do con
hẻm từ nhà bị đơn ra đường N chỉ có 0,9m chiều ngang rt khó khăn cho việc đi
lại, nên bị đơn mua thêm 1,5 mét ngang của ông Phan Ngọc N cho đủ rộng
(2,5m). Việc mua bán hai bên có viết giy tay, kèm theo giy chứng nhn nhà ở
và đt ở do Sở Xây dựng tỉnh Đ cp.
Năm 2007, khi đường N được mở rộng có vỉa hè, bị đơn đã đổ bê tông con
hẻm này từ mép đường Nguyễn Văn C vào tới nhà bị đơn.
Năm 2007 vợ chồng bà Lê Thị L1 và Đặng Hoàng P mua lại căn nhà số B
N, phường T của ông Phan Ngọc N. Năm 2017, ông P, bà L1 xây dựng nhà trên
phần đt phía sau nhà 251 Nguyền Văn C1 nối thông vào nhà 251 Nguyễn Văn
C để ra đường N, khi ông P, bà L1 mở cửa ra con hẻm này th bị đơn ngăn cản,
tranh chp nên vợ chồng ông P, bà L1 đã viết giy cam kết có nội dung "vừa rồi
em có mua 01 lô đất 251/1 Nguyễn Văn C.. và xây nhà...và làm mái hiên ra
ngoài lấn ra đường đi của anh V (tức D). Vy tôi viết giấy này làm chứng có lấn
ra ngoài, nên khi nào anh V sử dụng... thì em tự động tháo dỡ tr lại hiện trạng
ban đầu”.
Sau đó bà L1, ông P xây bít lối đi từ nhà sau ra đường N, rồi bán căn bán
nhà phía sau này cho nguyên đơn. Như vy, tại thời điểm nguyên đơn mua nhà
của bà L1, ông P lối đi ra đường N từ nhà nguyên đơn ra đường N thông qua nhà
251. Về lối đi, ông D đã làm hàng rào, cổng ngõ tách biệt giữa lối đi và nhà phía
sau nhà bà L1. Sau khi mua, nguyên đơn ngang nhiên nhờ UBND phường T phá
bỏ hàng rào, cổng ngõ của nhà bị đơn để ra đường là trái pháp lut.
Về loại đt sử dụng làm lối đi: Bị đơn xác định diện tích đt này là đt ở.
Bởi v, trước năm 1975 cho đến ngày 15/10/1993 toàn bộ đt có nhà ở giáp với
mặt tiền đường quốc lộ 21, sau này là quốc lộ B và bây giờ là đường N đều là
đt ở, hoàn toàn không có khái niệm phân biệt từng loại đt. Chỉ khi Lut đt đai
năm 1993 có hiệu lực, th mới quy đinh về phân loại đt được quy định tại Điều
11 Lut đt đai năm 1993. Đến năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 64
hướng dn thi hành lut Đt đai, th mới quy định phân loại đt ở (hay còn goi là
"thổ cư") và quy định hạn mức đt được cp.
Nay nguyên đơn khởi kiện tranh chp lối đi, bị đơn có ý kiến như sau: Căn
cứ Điều 254 BLDS (2015) quy định quyền về lối đi qua bt động sản liền kề, bị
đơn đồng ý cho nguyên đơn được quyền sử dụng chung con hẻm S N để ra
đường chính Nguyễn Văn C. Tuy nhiên, bị đơn yêu cầu Toà án buộc nguyên
đơn phải đền bù cho bị đơn số tiền bằng 1/2 giá trị theo kết quả định giá đt

ODT diện tích 107.8m2 giá trị đt và công trnh xây dựng có giá
3.378.396.000đồng.
Đối với kết quả thẩm định, đo v k thut, định giá tài sản bị đơn không có
ý kiến g. Về chi phí tố tụng đề nghị thực hiện theo quy định pháp lut.
* Người liên quan trnh bày:
- Đại diện UBND phường T trình bày: Đường H N, phường T, thành phố
B là lối đi chung vào các thửa đt 156, 30, 28, tờ bản đồ số 20, phường T có từ
trước năm 2006 (năm 2006 thửa đt số 30 của ông Nguyễn T1 đã được cp Giy
chứng nhn quyền sử dụng đt đã thể hiện đường đi rộng 03m).
Thời điểm bà H nhn chuyển nhượng đt năm 2019 đã có con đường hẻm
chiều rộng khoảng 2,9m - 3m, đường được thể hiện trên GCNQSDĐ của thửa
đt số 30 (thửa 156, tờ bản đồ địa chính số 20 hiện nay được cp cho gia đnh bà
H là một phần thửa đt số 30 tách ra) và do UBND phường quản lý.
Đối với nội dung đương sự cho rằng việc đường hẻm trước kia nhỏ hơn
01m, nên bị đơn đã bỏ tiền ra mua thêm đt làm đường hẻm rộng khoảng 3m
như hiện nay làm lối đi chung địa phương không biết.
Đối với tờ bản đồ giy số 20, tại phường T hiện nay đã được quản lý bằng
tờ bản đồ số trên hệ thống số hóa do Sở T quản lý như văn bản đã cung cp cho
Tòa án. Ngoài ra chúng tôi không có nội dung g cung cp thêm.
- Theo bản trình bày của bà Nguyễn Thị N2, bà Phan Thị Ngọc H2, ông
Phan Minh H3: Các ông bà là vợ, con của bị đơn. Đối với nguồn gốc con
đường đúng như bị đơn trnh bày, không bổ sung g thêm đồng thời xin vắng
mặt.
- Ông Phan Ngọc N trình bày: Năm 1975, tôi mua của bà Nguyễn Thị H4
một ngôi nhà cp 4 trên lô đt diện tích 425m
2
nay là số nhà B N, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Giáp ranh phía Tây với lô đt của tôi là con đường
hẻm rộng 0,9m chạy dọc từ ngoài đường Quốc lộ 26 vào nhà đt của bố tôi là cụ
Phan T2. Năm 1981, bố tôi cụ Phan T2 qua đời, để lại nhà đt này cho em trai
tôi là ông Phan Ngọc D sử dụng. Do lối đi từ nhà ra đường quá hẹp, xe máy
không qua được, nên để tạo điều kiện cho ông Phan Ngọc D có lối đi rộng hơn
và cũng để lô đt của ông D có giá trị hơn, sau khi thỏa thun, ngày 21/12/1991
tôi đã chuyển nhượng lại cho ông D một phần diện tích đt liền kề lối đi. Phần
đt này có vị trí tứ cn như sau:
Phía Đông giáp đt của tôi dài 25m; Phía Tây giáp lối đi cũ của ông D dài
25m; Phía Bắc giáp đt của ông D rộng 02m; Phía Nam giáp Quốc lộ B (nay là
đường N), rộng 1,5m; Giá chuyển nhượng là 90 chỉ vàng y (chín mươi chỉ) để
ông D mở rộng lối đi từ nhà ông D ra đường N. Việc sang nhượng tôi có viết
cho ông D “Giấy sang nhưng đất làm lối đi”. Ông D đã trả đủ 90 chỉ vàng cho
tôi.
Ngày 14/3/1992, tôi được Sở Xây dựng tỉnh Đ cp Giy chứng nhn sở hữu
nhà. Căn cứ vào thực địa và giy sang nhượng lối đi, Sở Xây dựng tỉnh Đ xác
định lối đi giáp ranh phía Tây lô đt có chiều rộng 2,5m, dài 25m sử dụng riêng
cho 02 nhà. Lý do Sở Xây dựng ghi 02 nhà, là do ngôi nhà phía sau nhà tôi và
trước nhà ông D có nguồn gốc là của bố tôi (Cụ P) xây cho anh trai tôi. Sau đó,
anh trai tôi cho cu ruột tôi là ông Nguyễn T1 sử dụng, nên khi đo v, cp quyền

sở hữu, Sở Xây dựng ghi thực trạng sử dụng riêng của 02 gia đnh. Sau khi được
Sở Xây dựng tỉnh Đ cp chứng nhn quyền sở hữu nhà ở số 84 ngày 14/3/1992,
tôi đã giao cho ông D 01 bản phô tô làm bằng chứng.
Năm 2007, vợ chồng bà Lê Thị L1 và ông Đặng Hoàng P nhn chuyển
nhượng lại căn nhà của tôi tại số B N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Năm 2017, ông P, bà L1 xây dựng nhà trên phần đt phía sau nhà số B N nối
thông vào nhà 251 Nguyễn Văn C để ra đường N, chứ không thông ra đường
hẻm này như hiện nay.
Sau đó, bà L1, ông P bít lối đi vào nhà 251 Nguyễn Văn C để bán căn nhà
này cho người khác, đồng thời bán căn nhà phía sau cho bà H. Bà H ngang nhiên
mở cổng ngõ đi qua lối đi riêng của ông D.
Tôi xác định tại khu dân cư này những người sinh sống trước năm 1975
đều công nhn lối đi này là lối đi riêng của gia đnh ông D và ông D mua thêm
của tôi như ông D trnh bày là đúng,
Đối với diện tích đt mà tôi bán cho ông D làm lối đi là đt ở. Nay các bên
có tranh chp tôi đồng ý với ý kiến của ông D, chp nhn yêu cầu của bà H được
quyền sử dụng chung con hẻm S N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để ra
đường chính Nguyễn Văn C, tuy nhiên bà H phải có nghĩa vụ đền bù cho ông D
số tiền bằng ½ giá trị của con hẻm theo giá thị trường tại thời điểm xét xử theo
quy định.
+ Ông Nguyễn Văn C2 trình bày: Nguồn gốc tại hẻm B N, phường T,
thành phố B.
Bố tôi là Nguyễn T1 (chết năm 2022) khi còn sống bố tôi có nhn chuyển
nhượng của ông D1 (ông D1 là cháu của ông T1, là anh ruột của ông D) tại thời
điểm nhn chuyển nhượng đã có con hẻm này nhưng nhỏ hơn hiện tại chiều
ngang khoảng 0.9m nên bố tôi có thỏa thun đổi đt để mở đường với ông N
(cũng là cháu ruột của ông T1) cụ thể ông N đang sử dụng số nhà B N, gia đnh
sử dụng số nhà 251/1 Nguyễn Văn C có tứ cn phía Nam giáp đt ông N để lại
cho ông N 03m ngang theo mặt đường hẻm, dài hết đt (tính theo hướng từ
Đông sang T) ông N có nghĩa vụ cắt một phần đt tại địa chỉ 251, chiều ngang
1,5m theo (mặt đường Nguyễn Văn C) dài đến đt nhà tôi. Việc đổi đt thực
hiện bằng miệng không lp hợp đồng v tt cả là anh em họ hàng.
Sau khi đổi đt ông N đã làm nhà đồng thời chừa lại vị trí đã đổi để làm
đường đi vào đt của gia đnh tôi như hiện trạng hiện nay. Quá trnh sử dụng gia
đnh tôi có bán một phần thửa đt cho bà H2 (hiện nay không biết địa chỉ), sau
nhiều lần chuyển nhượng th hiện nay bà H, ông K là người quản lý đt.
Từ trước đến nay gia đnh tôi vn sử dụng đi trên con đường này, hiện
trạng con đường (mặt đường Nguyễn Văn C) đã được ông D làm cổng đóng lại
và giao cha khóa cho gia đnh tôi để đi lại nếu không đi th đóng lại. Đề nghị
Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp lut.
+ Bà Lê Thị L1 trình bày: Trước đây tôi có nhn chuyển nhượng đt của
một người tôi không nhớ tên, tại thời điểm nhn chuyển nhượng đã có lối đi
trước, kích thước đường đi đã thể hiện trên bản đồ đt đai.
Theo thời khai của ông N cho rằng tôi bít lối đi vào nhà 251/1 là không
đúng sự tht. Tại thời điểm tôi chuyển nhượng cho bà N2 đã có lối đi rồi.

Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tôi đề nghị Tòa án giải quyết
theo quy định pháp lut, đồng thời xin vắng mặt.
+ Bà Phạm Thị N1 trình bày:
Giữa năm 2019, tôi có nhn chuyển nhượng của bà Lê Thị L1 01 căn nhà
tại hẻm S N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Trước khi giao dịch chuyển
nhượng tôi có lên Ủy ban nhân dân phường T và Phòng tài nguyên môi trường
thành phố B tm hiểu về quyền sử dụng đt này và thy không có tranh chp nên
tôi đã nhn chuyển nhượng. Lúc thỏa thun chuyển nhượng tôi đã thy vào căn
nhà có con đường đi nhưng cụ thể chiều ngang con đường rộng bao nhiêu th tôi
không biết. Trong thời gian tôi sử dụng tôi có lên xuống dọn dẹp căn nhà nhưng
không thy ai có ý kiến g. Sau đó, tôi có nhu cầu bán lại căn nhà và ký hợp
đồng chuyển nhượng cho vợ chồng bà H, ông K. Trong quá trình bà H dọn về ở
th xảy ra tranh chp về con đường đi. Khi tôi nhn chuyển nhượng của nhà bà
L1 th không xảy ra tranh chp g và trên Giy chứng nhn quyền sử dụng đt
vn thể hiện con đường đi rõ ràng không tranh chp.
Khi bà L1 chuyển nhượng cho tôi th bà L1 cũng không nói g về con
đường nên tôi cũng không biết g về nguồn gốc của con đường này. Khi tôi
chuyển nhượng cho bà H, ông K tôi không thỏa thun g về con đường này. Nay
bà H, ông K khởi kiện ông D th tôi không có ý kiến g.
Người làm chng ông Q, ông T đều trình bày: Ban đầu đường H N có
chiều rộng khoảng 0.9m nên gia đnh ông D đã mua thêm đt của ông N có
chiều rộng 1.5m để làm đường đi như hiện nay.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 96/2025/DS-ST ngày 06/6/2025 của Tòa
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột (nay là TAND khu vực 1), tỉnh Đắk
Lắk đã quyết định:
Căn cứ Điều 176, Điều 254 của Bộ lut Dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 10 Điều 12, Điều 170, Điều 203 Lut đt đai 2013 sửa đổi,
bổ sung năm 2018;
Tuyên xử: Chp nhn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị H
và ông Trần K.
Buộc ông Phan Ngọc D phải tháo dỡ cổng rào bằng sắt có kích thước
ngang 2,4m, cao 1,6m tiếp giáp đường N tại hẻm S N, phường T, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk để trả lại lối đi công cộng có diện tích là 94,8 m
2
(kích thước theo
sơ đồ trích đo hiện trạng).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền yêu
cầu thi hành án và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 19/6/2025, bị đơn ông Phan Ngọc D có đơn kháng cáo bản án: Đề
nghị cp phúc thẩm không chp nhn toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện;
bị đơn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử buộc bà
Trương Thị H và ông Trần K đền bù cho ông Phan Ngọc D số tiền bằng 1/3 giá
trị của con hẻm theo giá thị trường tại thời điểm xét xử theo quy định.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu:
Về tố tụng: Trong quá trnh thụ lý giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư ký Tòa án và các đương sự đã chp hành đúng quy định của Bộ lut
tố tụng dân sự.
Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308
Bộ lut tố tụng dân sự – Không chp nhn kháng cáo của bị đơn ông Phan Ngọc
D; Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số. 96/2025/DS-ST ngày 06/6/2025 của
Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột (nay là TAND khu vực 1), tỉnh Đắk
Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong
hồ sơ vụ án, nhn thy như sau:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn Phan Ngọc D đã được nộp trong
thời hạn lut định và thuộc trường hợp miễn nộp tạm ứng án phí nên được xem
xét, giải quyết theo trnh tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn Phan Ngọc D.
[2.1] Về nguồn gốc đất: Căn cứ vào lời trnh bày của các đương sự, hồ sơ
địa chính và tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định nguồn gốc thửa đt
156 tờ bản đồ số 20 của vợ chồng nguyên đơn có nguồn gốc là đt của cụ Phan
T2 (cụ T2 là cha đẻ của ông Phan Ngọc D1, ông Phan Ngọc D). Năm 1971, cụ
T2 cho ông Phan Ngọc D1 một phần thửa đt (thửa đt 30), phần đt còn lại cụ
T2 sử dụng. Năm 1981, cụ T2 qua đời để lại thửa đt 28 và căn nhà trên đt cho
ông Phan Ngọc D. Sau đó, ông Phan Ngọc D1 không sử dụng đã chuyển nhượng
thửa đt 30 cho ông Nguyễn T1 (ông Nguyễn T1 là cu của ông D1 và ông D).
[2.2] Tài liệu trong hồ sơ thể hiện trong quá trnh sử dụng đt các chủ sử
dụng đt là ông Phan Ngọc D (thửa đt số 28) và ông Nguyễn T1 (thửa đt số
30) đã tiến hành kê khai đăng ký quyền sử dụng đt như sau:
Ngày 29/6/2006, ông Nguyễn T1 được UBND thành phố B cp GCNQSD đt số
AĐ 800506 đối với thửa đt số 30, tờ bản đồ số 20 thể hiện thửa đt 30 giáp con
đường gần 03 mét.
Ngày 28/5/2008, ông Phan Ngọc D được UBND thành phố B cp GCNQSD đt
số AL 642108 đối với thửa đt số 28, tờ bản đồ số 20.
Tại sơ đồ k thut thửa đt của các Giy chứng nhn quyền sử dụng đt nêu
trên đều xác định phần đt tranh chp là đường đi và không thuộc quyền sử dụng
đt của các thửa đt số 28, 30 tờ bản đồ số 20. Sau khi được cp Giy chứng
nhn quyền sử dụng đt th ông Nguyễn T1 và ông Phan Ngọc D không có ý
kiến g.
Tại Công văn số 4037/CNBMT-TTLT ngày 01/12/2021 của Chi nhánh
Văn phòng Đăng ký đt đai thành phố B và biên bản xác minh ngày 18/9 /2023
được đại diện UBND phường T, thành phố B cung cp thông tin thể hiện lối đi
tại hẻm S N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk có hiện trạng chiều rộng
2,4m giáp đường N, chiều dài 36,80m đi qua các thửa đt 156, 30, 28, tờ bản đồ

số 20 là con đường đi đã được cp nht trên hệ thống bản đồ địa chính và do
Nhà nước quản lý nên đây là con đường đi công cộng không phải là lối đi riêng
của bt cứ cá nhân, hộ gia đnh nào.
Quá trnh sử dụng đt, ngày 07/4/2007 ông Nguyễn T1 tách một phần đt
của thửa đt 30 thành thửa đt 156 để chuyển nhượng cho bà Trần Lê Phương
H5 và ông Phạm Hữu N3 (khi ông T1 chuyển nhượng thửa đt 156 cho bà H5,
ông N3 vợ và các con của ông T1 đều ký vào hợp đồng chuyển nhượng.
Ngày 16/3/2017, vợ chồng bà Trần Lê Phương H5 và ông Phạm Hữu N3
chuyển nhượng thửa đt 156 này cho ông Đặng Hoàng P và bà Lê Thị L1;
Ngày 22/7/2019 ông Đặng Hoàng P và bà Lê Thị L1 tiếp tục chuyển
nhượng thửa đt 156 cho bà Phạm Thị N1.
Đến ngày 08/11/2019, bà N1 đã chuyển nhượng lại toàn bộ quyền sử dụng
đt thửa đt 156 nói trên cho vợ chồng bà Trương Thị H và ông Trần K.
Đối với căn nhà số B N đầu hẻm (thửa đt 155) có nguồn gốc của ông Phan
Ngọc N chuyển nhượng cho bà Lê Thị L1 và ông Đặng Hoàng P vào năm 2007.
Hơn nữa, Quá trnh giải quyết vụ án ông Nguyễn Văn C2 là con của ông
Nguyễn T1 là người đang sử dụng thửa đt 30 trnh bày: gia đnh tôi sử dụng số
nhà 251/1 Nguyễn Văn C phía sau căn nhà của ông N 251 Nguyễn Văn C. Tại
thời điểm nhn chuyển nhượng đã có con hẻm này nhưng lối đi nhỏ có chiều
ngang khoảng 0,9 mét nên cha tôi là ông Nguyễn T1 là cu ruột của ông N có
thỏa thun với ông N cụ thể: ông Nguyễn T1 đổi cho ông N 03m chiều ngang
theo mặt đường hẻm, chiều dài hết đt (tính theo hướng từ Đông sang T), ông N
có nghĩa vụ cắt một phần đt chiều ngang 1,5m (theo mặt đường Nguyễn Văn C
tại địa chỉ 251) chiều dài từ đầu hẻm 251 đến đt nhà ông T1 để mở rộng đường
hẻm. Sau đó ông T1 chuyển nhượng đt phần đt kế cạnh phần đt của ông N
cho bà H5, ông N3, qua nhiều lần sang nhượng nay là đt của nguyên đơn, phần
còn lại gia đnh ông T1 sử dụng cho đến nay.
Qua đó xác định: Căn nhà 251 mặt đường Nguyễn Văn C bà L1, ông P
nhn chuyển nhượng của ông Phan Ngọc N vào năm 2007. Thửa đt 156 liền kề
phía sau có nguồn gốc là đt của ông Nguyễn T1. Năm 2017 bà L1, ông P nhn
chuyển nhượng lại của ông N3, bà H5 (người mua đt của ông T1) sau đó làm
nhà. 02 (hai) thửa đt này bà L1 nhn chuyển nhượng của 02 gia đnh khác nhau
theo như phân tích trên. Nên Toà án cp sơ thẩm chp nhn toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đúng quy định của pháp lut. Do đó,
kháng cáo của bị đơn ông Phan Ngọc D là không có cơ sở để chp nhn, cần giữ
nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Phan
Ngọc D không được chp nhn nên ông D phải chịu án phí phúc thẩm. Tuy
nhiên, bị đơn ông Phan Ngọc D là người cao tuổi nên được miễn nộp án phí theo
quy định pháp lut.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ lut Tố tụng dân sự;

Không chp nhn kháng cáo của bị đơn ông Phan Ngọc D. Giữ nguyên Bản
án sơ thẩm số sơ thẩm số 96/2025/DS-ST ngày 06/6/2025 của Tòa án nhân dân
thành phố Buôn Ma Thuột (nay là TAND khu vực 1), tỉnh Đắk Lắk.
[2]. Điều luật áp dụng: Căn cứ Điều 176, Điều 254 của Bộ lut Dân sự
năm 2015;
Căn cứ khoản 10 Điều 12, Điều 170, Điều 203 Lut đt đai 2013 sửa đổi,
bổ sung năm 2018;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[3]. Tuyên xử:
[3.1].Chp nhn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị H và
ông Trần K. Buộc ông Phan Ngọc D phải tháo dỡ cổng rào bằng sắt có kích
thước ngang 2,4m, cao 1,6m tiếp giáp đường N tại hẻm S N, phường T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk để trả lại lối đi công cộng có diện tích là 94,8 m
2
(kích
thước theo sơ đồ trích đo hiện trạng).
[3.2]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn Phan Ngọc D không được chp
nhn yêu cầu kháng cáo, tuy nhiên bị đơn ông Phan Ngọc D là người cao tuổi
nên được miễn nộp án phí theo quy định pháp lut.
[3.3]. Các quyết định của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp lut kể từ ngày tuyên án.
Trường hp bn án, quyết định đưc thi hành theo quy định tại Điều 2 Lut
Thi hành án dân sự thì người đưc thi hành án, người phi thi hành án dân sự
có quyền thỏa thun thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9
Lut Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án đưc thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Lut Thi hành án dân sự.
Nơi nhn:
- TAND tối cao (Vụ 2);
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND khu vực 1 - Đắk Lắk;
- Phòng thi hành án dân sự khu
vực 1;
- Các đương sự;
- Cổng thông tin điện tử Tòa án;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(đã ký)
Đinh Thị Tuyết

THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT
XỬ
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA





Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 05/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 03/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm