Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT ngày 04/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 37/2024/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT ngày 04/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 37/2024/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/12/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông C yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung sau khi ly hôn là quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 42b, tờ bản đồ số 07, diện tích 230m2 do Ủy ban nhân dân huyện Lắk cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 782347 ngày 10/12/2003 cho hộ ông Nguyễn Đình Cảnh. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 37/2024/HNGĐ-PT
Ngày: 04 - 12 - 2024
“V/v Tranh chấp chia tài sản
sau khi ly hôn”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị My My.
Các Thẩm phán: Ông Văn Công Dần.
Bà Đinh Thị Tuyết.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mai Loan, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tham gia
phiên tòa: Ông Trần Văn Lai - Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 37/2024/TLPT-HNGĐ
ngày 16/10/2024 về việc “Tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn”. Do Bản án hôn
nhân và gia đình sơ thẩm số: 07/2024/HNGĐ-ST ngày 28/8/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 33/2024/QĐ-PT ngày
07/11/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình C, sinh năm: 1970 (Có mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện ủy quyền của nguyên đơn:
- Bà Ayun Bing H T, sinh năm: 1998 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số C, đường Y, buôn L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk.
- Bà Lưu Thị Huệ L, Sinh năm: 2002 (Có mặt).
Địa chỉ: Số C, đường L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Võ Đình D –
Luật sư Văn phòng L3 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số B, đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
2. Bị đơn: Bà Huỳnh Thị L1, sinh năm: 1976 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện ủy quyền của bị đơn: Bà Nguyễn Huỳnh Kiều L2, sinh năm:
1997 (Có mặt).
2
Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Huỳnh Kiều L2, sinh
năm: 1997 (Có mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk.
4. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Huỳnh Kiều L2 – Người đại diện ủy quyền
của bị đơn bà Huỳnh Thị L1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn ông Nguyễn Đình C, người đại diện ủy
quyền của nguyên đơn là bà Ayun Bing H T trình bày:
Ông Nguyễn Đình C và bà Huỳnh Thị L1 đã ly hôn theo Quyết định công
nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 47/2017/QĐST-
HNGĐ ngày 19/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lắk. Sau khi ly hôn đến nay,
cả hai vẫn chưa thỏa thuận chia tài sản chung. Nay ông C yêu cầu Tòa án giải
quyết việc chia tài sản chung sau khi ly hôn, cụ thể: Quá trình chung sống ông C,
bà L1 đã tạo lập được quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 42b, tờ bản đồ số 07,
diện tích 230m
2
do Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số X 782347 ngày 10/12/2003 cho hộ ông Nguyễn Đình C. Ông C có nguyện
vọng được chia đôi tài sản chung này, trường hợp bà L1 nhận sử dụng toàn bộ tài
sản trên thì phải trả cho ông C một nửa số tiền giá trị tài sản chung. Hiện tại nhà
và đất cùng toàn bộ tài sản trên đất đang do bà L1 và chị Kiều L2 đang quản lý sử
dụng. Ông C hiện làm việc tại xã K nên đề nghị để cho bà L1 cùng chị L2 tiếp tục
sử dụng, đồng thời bà L1 hoàn trả ½ giá trị tài sản cho ông C. Trường hợp bà L1
không đồng ý nhận toàn bộ tài sản trên thì ông C sẽ nhận toàn bộ và hoàn trả ½
giá trị tài sản chung cho bà L1. Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản
chính hiện nay bà L1 cất giữ, do đó ông C chỉ cung cấp bản phô tô cho Tòa án.
Bị đơn bà Huỳnh Thị L1, người đại diện theo ủy quyền là bà Nguyễn
Huỳnh Kiều L2 (Bà L2 đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan)
trình bày:
Việc ly hôn đúng như ông Nguyễn Đình C đã trình bày như trên. Nay ông C
yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản sau khi ly hôn với bà L1, cụ thể: Chia đôi
tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất số 42b, tờ bản đồ số 07, diện tích 230m
2
do Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 782347
ngày 10/12/2003 cho hộ ông Nguyễn Đình C và toàn bộ tài sản trên đất. Bà L1 xác
nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất là tài sản chung giữa bà L1 với ông C
tạo lập trong quá trình sống chung, hiện tại tài sản trên không có tranh chấp gì với
ai, không đăng ký thế chấp tại cơ quan, tổ chức nào và đang do bà L1 và con gái
Kiều L2 trực tiếp sinh sống, sử dụng. Trước đây bà L1 có quản lý, sử dụng giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính, tuy nhiên hiện nay do quá trình sử dụng
bà L1 làm thất lạc nên không thể cung cấp cho Tòa án.
3
Ông C yêu cầu được chia đôi thì bà L1 không đồng ý và cũng không đồng ý
nhận tiền trong trường hợp ông C nhận tài sản. Bà L1 có nguyện vọng nhận một
nửa diện tích đất theo chiều ngang là 4,75m (tại khu vực có giếng khoan), buộc dỡ
bỏ nhà trên đất để hai bên chia đôi đất. Ông C có trách nhiệm làm thủ tục tách thửa
và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà L1. Mọi chi phí tại các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cũng như án phí dân sự sơ thẩm bà L1 không đồng ý nộp theo
quy định. Tại địa phương bà L1 không thuộc hộ nghèo hay cận nghèo hay chế độ
chính sách gì.
Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 07/2024/HNGĐ-ST ngày
28/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 144, 147, 157, 165, 217, 235, 266 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 29,
33, 35, 37, 59 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; các điểm b khoản 5, khoản
7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đình C về việc chia tài sản
chung sau khi ly hôn với bà Huỳnh Thị L1.
1.1. Giao cho bà Huỳnh Thị L1 quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 42b, tờ
bản đồ 07 (nay là thửa đất số 72, tờ bản đồ số 42) tại tổ dân phố B, thị trấn L,
huyện L, tỉnh Đắk Lắk, do Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Đắk Lắk cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số X 782347 ngày 10/12/2003 cho hộ ông Nguyễn Đình
C, có vị trí tứ cận trên thực tế như sau:
+ Phía Đông giáp thửa đất số 73 do ông Phan Thanh T1 đang sử dụng có cạnh
dài 21,38m + 20,84m + 7,36m;
+ Phía Tây giáp thửa đất số 71 do ông Nguyễn Quang N đang sử dụng có
cạnh dài 23,63m + 20,54m + 5,66m;
+ Phía Bắc giáp đường Q có cạnh dài 3,40m + 6,14m;
+ Phía Nam giáp đất đồi có cạnh dài 1,29m + 6,88m.
Và toàn bộ tài sản trên đất: 01 căn nhà xây cấp 4 xây dựng năm 2013, gồm
02 phòng ngủ, 01 phòng khách, 01 phòng bếp; 02 cây bơ, 02 cây cau, 01 cây mít,
01 cây dừa đều trồng năm 2016.
1.2. Buộc bà Huỳnh Thị L1 có nghĩa vụ thanh toán cho ông Nguyễn Đình C
½ giá trị tài sản chung tương đương số tiền 1.372.714.000 đồng (Một tỷ ba trăm
bảy mươi hai triệu bảy trăm mười bốn nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
4
người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về chi phí tố tụng: Bà Huỳnh Thị L1 có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Nguyễn
Đình C 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) tiền chi phí đo đạc kỹ thuật, xem xét thẩm
định tại chỗ và định giá tài sản.
3. Về án phí sơ thẩm:
3.1. Ông Nguyễn Đình C phải chịu 53.181.000 đồng (Năm mươi ba triệu một
trăm tám mươi mốt nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ
9.200.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2022/0003950
ngày 06/6/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk. Ông
Nguyễn Đình C còn phải nộp 43.981.000 đồng (Bốn mươi ba triệu chín trăm tám
mươi mốt nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
3.2. Bà Huỳnh Thị L1 phải chịu 53.181.000 đồng (Năm mươi ba triệu một
trăm tám mươi mốt nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi
hành án cho các đương sự.
Ngày 01/9/2024, bà Nguyễn Huỳnh Kiều L2 – Người đại diện ủy quyền của
bị đơn bà Huỳnh Thị L1 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, nội dung: Bà
L1 yêu cầu Tòa án chia đôi tài sản là diện tích đất tại thửa số 42B, tờ bản đồ số 07,
diện tích 230m
2
do UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số X 782347 ngày 10/12/2003
cho hộ ông Nguyễn Đình C. Bà L1 có nguyện vọng nhận ½ diện tích đất là 4,75m
ngang tại khu vực đất có giếng khoan; buộc ông C phải dỡ bỏ căn nhà trên đất và
phải chịu toàn bộ lệ phí, án phí và chi phí tố tụng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Đình C giữ nguyên nội
dung đơn khởi kiện; người đại diện ủy quyền của bị đơn bà Huỳnh Thị L1 là bà
Nguyễn Huỳnh Kiều L2 giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký tòa án và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự.
Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án và tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX căn cứ khoản
1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự – Không chấp nhận kháng cáo của người đại
diện ủy quyền của bị đơn bà Huỳnh Thị L1 là bà Nguyễn Huỳnh Kiều L2; Giữ
nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 07/2024/HNGĐ-ST ngày
28/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Huỳnh Thị L1 làm trong hạn luật định
và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên được xem xét, giải quyết theo trình
tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
Xét kháng cáo của bị đơn bà Huỳnh Thị L1 yêu cầu Tòa án chia đôi tài sản
là diện tích đất tại thửa số 42B, tờ bản đồ số 07, diện tích 230m
2
do Ủy ban nhân
dân huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đât số X 782347 ngày
10/12/2003 cho hộ ông Nguyễn Đình C với nguyện vọng được nhận ½ diện tích
đất là 4,75m ngang tại khu vực đất có giếng khoan; buộc ông C phải dỡ bỏ căn
nhà trên đất và phải chịu toàn bộ lệ phí, án phí và chi phí tố tụng.
Nguyên đơn và bị đơn đều xác định thửa số 42B, tờ bản đồ số 07 tại tổ dân
phố B, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Ông C yêu cầu chia đôi toàn bộ đất và tài sản có trên đất, đồng ý nhận toàn bộ diện
tích đất và thanh toán ½ giá trị tài sản cho bà L1, hoặc giao đất cho bà L1 và bà
L1 có nghĩa vụ thanh toán ½ giá trị tài sản cho ông. Bị đơn bà L1 không đồng ý
nhận toàn bộ diện tích đất và tài sản trên đất, đồng thời bà cũng không đồng ý nhận
giá trị tài sản. Bà L1 có nguyện vọng được nhận ½ diện tích đất là 4,75m ngang
tại khu vực đất có giếng khoan và buộc ông C phải dỡ bỏ căn nhà trên đất để chia
được đất cho bà L1. Xét thấy hiện ông C không sinh sống và sử dụng thửa đất trên
và cũng không sinh sống tại địa phương mà đi làm việc tại xã K, huyện L. Bà L1
và con chung là người đang quản lý, sinh sống và kinh doanh tại lô đất. Vì vậy,
xét theo điều kiện, sử dụng thực tế thì cần phải giao diện tích đất và tài sản trên
thửa số 42B, tờ bản đồ số 07 này cho bà L1 quản lý, sử dụng; còn ông C có nghĩa
vụ thanh toán ½ giá trị đất và tài sản trên đất cho bà L1 là phù hợp.
Trên đất có tài sản là 01 căn nhà cấp 4 xây dựng kiên cố và một số cây trồng
là những tài sản không thể di dời, việc bà L1 yêu cầu ông C phải tự phá bỏ căn nhà
xây dựng kiên cố có giá trị theo kết quả định giá là 115.810.000 đồng để chia đôi
diện tích đất là không phù hợp với thực tế, gây mất giá trị tài sản trên đất.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định giao diện tích đất và tài sản trên
thửa số 42B, tờ bản đồ số 07 cho bà L1 quản lý, sử dụng; còn ông C có nghĩa vụ
thanh toán ½ giá trị đất và tài sản trên đất cho bà L1, cụ thể: 2.745.428.000 đồng
: 2 = 1.372.714.000 đồng là có căn cứ và đúng pháp luật (Hội đồng định giá tài
sản định giá dựa theo diện tích đất 335,3m
2
có giá thị trường là 2.610.956.000
đồng và tài sản trên đất gồm: 01 căn nhà xây cấp 4 năm 2013, gồm 02 phòng ngủ,
01 phòng khách, 01 phòng bếp; 02 cây bơ, 02 cây cau, 01 cây mít, 01 cây dừa đều
trồng năm 2016; không bao gồm 01 giếng khoan vì giếng được tạo lập từ năm
2020 là sau khi ông C và bà L1 đã ly hôn nên không phải là tài sản chung).
6
Bà L1 kháng cáo yêu cầu Tòa án buộc ông C phải chịu toàn bộ lệ phí, án phí
và chi phí tố tụng là không đúng quy định tại Điều 157, Điều 165 Bộ luật tố tụng
dân sự; điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tức đương sự phải chịu các chi
phí tố tụng và án phí có giá ngạch tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được
chia.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không
có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Huỳnh Thị L1, cần giữ nguyên
quyết định của bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, cấp sơ chưa tuyên quyền đăng ký biến
động quyền sử dụng đất cho bà L1 nên cần tuyên bổ Sung.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Huỳnh
Thị L1 phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Các quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có
hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Không chấp nhận kháng cáo của người đại diện ủy quyền của bị đơn bà
Huỳnh Thị L1 là bà Nguyễn Huỳnh Kiều L2;
- Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 07/2024/HNGĐ-ST
ngày 28/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 144, 147, 157, 165, 217, 235, 266 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều
29, 33, 35, 37, 59 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; các điểm b khoản 5
Điều 27, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[2.1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đình C về việc chia tài
sản chung sau khi ly hôn với bà Huỳnh Thị L1.
[2.1.1] Giao cho bà Huỳnh Thị L1 quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 42b,
tờ bản đồ 07 (nay là thửa đất số 72, tờ bản đồ số 42) tại tổ dân phố B, thị trấn L,
huyện L, tỉnh Đắk Lắk, do Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Đắk Lắk cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số X 782347 ngày 10/12/2003 cho hộ ông Nguyễn Đình
C, có vị trí tứ cận trên thực tế như sau:
+ Phía Đông giáp thửa đất số 73 do ông Phan Thanh T1 đang sử dụng có cạnh
dài 21,38m + 20,84m + 7,36m;
7
+ Phía Tây giáp thửa đất số 71 do ông Nguyễn Quang N đang sử dụng có
cạnh dài 23,63m + 20,54m + 5,66m;
+ Phía Bắc giáp đường Q có cạnh dài 3,40m + 6,14m;
+ Phía Nam giáp đất đồi có cạnh dài 1,29m + 6,88m.
Và toàn bộ tài sản trên đất: 01 căn nhà xây cấp 4 xây dựng năm 2013, gồm
02 phòng ngủ, 01 phòng khách, 01 phòng bếp; 02 cây bơ, 02 cây cau, 01 cây mít,
01 cây dừa đều trồng năm 2016.
Bà Huỳnh Thị L1 được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để đăng ký
biến động quyền sử dụng đất.
[2.1.2] Buộc bà Huỳnh Thị L1 có nghĩa vụ thanh toán cho ông Nguyễn Đình
C ½ giá trị tài sản chung tương đương số tiền 1.372.714.000 đồng (Một tỷ ba trăm
bảy mươi hai triệu bảy trăm mười bốn nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357; khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[2.2] Về chi phí tố tụng: Bà Huỳnh Thị L1 có nghĩa vụ hoàn trả cho ông
Nguyễn Đình C 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) tiền chi phí đo đạc kỹ thuật, xem
xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
[2.3] Về án phí:
[2.3.1] Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Đình C phải chịu 53.181.000 đồng (Năm mươi ba triệu một
trăm tám mươi mốt nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ
9.200.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2022/0003950
ngày 06/6/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk. Ông
Nguyễn Đình C còn phải nộp 43.981.000 đồng (Bốn mươi ba triệu chín trăm tám
mươi mốt nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Huỳnh Thị L1 phải chịu 53.181.000 đồng (Năm mươi ba triệu một trăm
tám mươi mốt nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[2.3.2] Án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Huỳnh Thị L1 phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, được
khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số
AA/2022/0004014 ngày 18/9/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lắk, tỉnh
Đắk Lắk.
Các quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có
hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
8
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật
Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Lắk;
- Chi cục THADS huyện Lắk; (Đã ký)
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Thị My My
9
10
11
Tải về
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm