Bản án số 37/2023/DS-ST ngày 28/07/2023 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng dân sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 37/2023/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 37/2023/DS-ST ngày 28/07/2023 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng dân sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Bảo Lâm (TAND tỉnh Lâm Đồng)
Số hiệu: 37/2023/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/07/2023
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN B Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 37/2023/DS-ST
Ngày 28-7-2023
V/v: “Tranh chấp hợp đồng dân sự
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B
TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa: ông Trần Văn Biên
Các Hội thẩm nhân dân: bà Lê Thị Sáu
bà Nguyễn Thị Tài
- Thư phiên tòa: ông Trương Quang - Thư Tòa án nhân dân huyện
B, tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B tham gia phiên toà: bà Lâm Thị
Hồng - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm
Đồng xét xthẩm ng khai theo thủ tục thông thường vụ án dân sự thụ số
187/2022/TLST-DS ngày 02 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng
dân sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
48/2023/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 6 m 2023, Quyết định tạm ngừng phiên
toà số 19/2023/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Hồ ThÁnh N, sinh năm 1962. Địa chỉ: tổ 6, thị trấn L,
huyện B, tỉnh Lâm Đồng. mặt.
- Bị đơn: Ka T, sinh năm 1979. Địa chỉ trú: số 49/20, tổ 14, thị trấn L,
huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Người đại diện theo uỷ quyền: ông Huỳnh Văn T, sinh
năm 1967. Địa chỉ: thôn 1, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phạm Thị Tố T, sinh năm 1967. Địa chỉ cư trú: số 202 đường H, tổ 17,
thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. mặt.
2. Chị Ka L, sinh năm 1994. Địa ch trú: số 30/01/16 H, tổ 15, thị trấn L,
huyện B, tỉnh Lâm Đồng. đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/4/2022, ngày 08/5/2022 trong quá trình
giải quyết nguyên đơn bà Hồ Thị Ánh N trình bày: năm 2019 bà N cho bà T vay số
tiền 450.000.000 đồng để bà T cho bà Ka L vay lại, thời hạn vay 01 tháng. Đến hạn
2
Ka L không trả được tiền cho T nên Ka L giới thiệu chuyển nhượng thửa
đất số 252, tờ bản đố 28, thị trấn L, huyện B của bà Ka T để chuyển nhượng cho
N với giá 150.000.000 đồng/sào, bà không muốn nhưng do T rủ mua chung nên
bà và bà T đến gặp và được sự đồng ý của bà Ka T cấn trừ hết nợ. Hai bên lập giấy
chuyển nhượng đất viết tay đề ngày 24/01/2019 (thực tế ngày 24/01/2020), giấy
chuyển nhượng đất do N viết, trong số tiền 450.000.000 đồng đã ghi trong giấy
chuyển nhượng thì 250.000.000 đồng N thanh toán đ lấy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đang thế chấp ngân hàng, còn 200.000.000 đồng tiền cấn
trừ nợ chKa L trước đó nợ của Phạm Thị Tố T. Nhưng sau đó, tại văn
phòng công chứng bà Ka T đổi ý không chuyển nhượng diện tích đất trên cho bà N
nữa mà thống nhất chuyển nhượng cho bà T. Do vậy, bà N yêu cầu Ka T trả lại
cho tôi số tiền 450.000.000 đồng.
Bị đơn người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn trình bày: việc chuyển
nhượng thửa đất số 252, tờ bản đố 28, thị trấn L, huyện B giữa Ka T với N
thì Ka T đồng ý nhưng sau đó T, Ka T, N thống nhất thoả thuận để
Ka T chuyển nhượng thửa đất trên cho T, việc chuyển nhượng quyền sdụng
đất giữa Ka T, T đã được giải quyết tại bản án số 133/2021/DSPT ngày
21/12/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, do vậy nay N khởi kiện yêu
cầu bà Ka T trả lại số tiền 450.000.000 đồng từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất đối với thửa đất số 252, tbản đố 28, thị trấn L, huyện B thì Ka T không
đồng ý.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Phạm Thị Tố T trình bày: việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Ka T bà T đã được giải quyết tại bản án số 133/2021/DSPT ngày 21/12/2021
của Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng. hoàn toàn thống nhất với yêu cầu khởi
kiện của bà N, đề nghị bà Ka T trả lại cho bà N số tiền 450.000.000 đồng.
- Chị Ka L trình bày: vào đầu năm 2019, chị vay của Phạm Thị Tố T số
tiền gốc 450.000.000 đồng. Số tiền gốc này chị chưa trả cho T người chị
vay tiền hộ nhưng họ không vay lại ngân hàng được nên không tiền để chị trả
cho bà T. Sau khoảng 02 tháng chị lại được người ta nhờ vay tiền đáo hạn ngân
hàng nên chị gọi điện thoại thì bà T cho cho vay 02 hợp đồng là 300.000.000 đồng
(mỗi hợp đồng 150 triệu đồng). Sau khoảng 10 ngày chị trả cho T 10.000.000
đồng tiền gốc, T viết lại giấy vay gốc và gộp 02 khoản nợ trên (sau khi trừ đi
10.000.000 đồng tiền gốc) 740.000.000 đồng. Đến khoảng ngày 20/12/2019, chị
trả cho T được 30.000.000 đồng, sau khoảng 01 tuần chị tiếp tục trả cho T
70.000.000 đồng. Số tiền còn lại là 640.000.000 đồng.
Sau đó chị giới thiệu (môi giới) cho T bà Hồ Thị Ánh N mua chung
diện tích đất 4.714m
2
đất thuộc thửa 252, tờ bản đồ 28, thị trấn L, huyện B, tỉnh
Lâm Đồng của Ka T (là dì của chị) với giá chuyển nhượng là 670.000.000 đồng
chị nói sẽ trả cho T 200.000.000 đồng (trừ vào tiền mua đất của Ka T) thì
T N đồng ý nên trong giấy sang nhượng đất viết tay ngày 24/01/2019
(thực tế là ngày 24/01/2020) ghi nội dung “Đã chồng trước 450 triệu” nhưng thực
3
tế bà N chỉ đưa 250.000.000 đồng (để bà Ka T lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đang thế chấp tại ngân hàng) còn số tiền 200.000.000 đồng trừ vào tiền chị
nợ T. Sau đó giữa T N thống nhất để bà Ka T chuyển nhượng thửa đất
nói trên cho bà T ông B nên bà T thanh toán thêm số tiền 100.000.000 đồng. Số
tiền còn lại 320.000.000 đồng thì giữa bà T, bà Ka T và chị Ka L thỏa thuận chị Ka
L phải trách nhiệm trả cho Ka T (tại giấy cam kết không nhớ ngày) nhưng
sau đó Ka T không đồng ý với việc trả nợ thay nên Ka T đã khởi kiện T
trong vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, T đã
khởi kiện chị Ka L trong các vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” và đã được
Toà án giải quyết xong, hiện nay các bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Nay bà N khởi kiện buộc Ka T phải trả số tiền 450.000.000 đồng theo giấy
chuyển nhượng đất viết tay ngày 24/01/2019 thì đề nghị giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải nhưng không thành.
Tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã phát biểu ý kiến về việc tuân
theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư ký Toà án, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự
từ khi thụ vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghán phát biu
quan điểm gii quyết v án như sau:
Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Hồ Thị Ánh N về việc yêu cầu buộc Ka T phải trả lại số tiền 450.000.000
đồng theo giấy sang nhượng viết tay ngày 24/01/2019; về án phí đề nghị giải quyết
theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên toà căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về tố tụng: chị Ka L người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đơn đề
nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật
tố tụng dân sự giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
[2] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền: Hồ Thị Ánh N khởi kiện yêu cầu
buộc Ka T phải trả lại số tiền 450.000.000 đồng theo giấy sang nhượng viết tay
ngày 24/01/2019, bị đơn Ka T không đồng ý cho rằng vụ việc đã được giải
quyết tại bản án số 133/2021/DS-PT ngày 21/12/2021 của Toà án nhân dân tỉnh
Lâm Đồng nên xác định quan hệ “Tranh chấp hợp đồng dân sự chuyển nhượng
quyền sử dụng đất” thuộc thẩm quyền của Tòa án giải quyết theo quy định tại
khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đối chiếu các tài liệu chứng cứ, lời
4
trình bày của các đương sự thể hiện:
Theo giấy sang nhượng viết tay ngày 24/01/2019 (thực tế là ngày 24/01/2020)
thì Ka T chuyển nhượng thửa đất số 252, tờ bản đồ s28, thị trấn L, huyện B,
tỉnh Lâm Đồng cho Hồ Thị Ánh N ông Nguyễn Tất T, giấy chuyển nhượng
do N viết. Về nội dung “đã chồng trước 450.000.000 đồng, hẹn 20 ngày sau
công chứng sẽ thanh toán số tiền còn lại N thừa nhận trong số tiền
450.000.000 đồng ghi trong giấy chuyển nhượng ngày 24/01/2019 thực tế bà N chỉ
mới thanh toán cho Ka T 250.000.000 đồng để lấy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đang thế chấp tại ngân hàng, còn đối với 200.000.000 đồng cấn trừ
khoản nợ mà chị Ka L trước đó vay của Phạm Thị Tố T (điều này cũng được
N, Ka T, T chị Ka L thừa nhận trong quá trình giải quyết tại bản án số
47/2021/DS-ST ngày 31-8-2021 của Toà án nhân dân huyện B bản án số
133/2021/DSPT ngày 21/12/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng). Đến ngày
14/02/2020, trước khi tiến hành công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất tại phòng công Nguyễn Thị Thanh L (số 81 đường L, thị trấn L, huyện B,
Lâm Đồng) thì giữa T N thoả thuận để vợ chồng T đứng tên, T
trách nhiệm trả lại cho N số tiền N đã bỏ ra trước đó T đã đưa
(thanh toán) cho bà Ka T 100.000.000 đồng nên Ka T đã chuyển nhượng thửa
đất nêu trên cho vợ chồng Phạm Thị Tố T ông Cao Đức B, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất được văn phòng công Nguyễn Thị Thanh L công chứng
ngày 17/02/2020. Do T không thanh toán số tiền chuyển nhượng quyền quyền
sử dụng đất còn lại nên Ka T đã khởi kiện Phạm Thị Tố T về “Tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất” đã được giải quyết tại bản án số
47/2021/DS-ST ngày 31-8-2021 của Toà án nhân dân huyện B Toà án nhân dân
tỉnh Lâm Đồng đã xét xử phúc thẩm tại bản án số 133/2021/DSPT ngày
21/12/2021 nay đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, N cho rằng tại văn phòng
công chứng Ka T đổi ý không chuyển nhượng diện tích đất trên cho N mà
thống nhất chuyển nhượng cho bà T là không có cơ sở.
Trong quá trình giải quyết vụ án về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn Ka T với bị đơn Phạm Thị Tố T thì
N trình bày: T có trách nhiệm trả lại cho bà N số tiền mà bà N đã bỏ ra trước đó
(biên bản ghi lời khai ngày 19/3/2021). Ngoài ra, số tiền 450.000.000 đồng chị Ka
L nợ T, T đã khởi kiện đã được Toà án giải quyết tại quyết định công
nhận sự thoả thuận của các đương sự số 21/2022/QĐST-DS ngày 26/12/2022 đã có
hiệu lực pháp luật. Như vậy, đối với số tiền 250.000.000 đồng mà bà T chưa trả thì
N quyền khởi kiện T nhưng Hồ Thị Ánh N không yêu cầu nên Hội
đồng xét xử không xem xét.
[4] Từ những sở nêu trên, nay N khởi kiện yêu cầu buộc Ka T phải
trả lại số tiền 450.000.000 đồng theo giấy sang nhượng viết tay ngày 24/01/2019
thì không có cơ sở chấp nhận là đúng quy định của pháp luật.
5
[5] Về án phí: do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận
nhưng Hồ Thị Ánh N người già trên 60 tuổi nên được miễn án phí dân sự
thẩm là đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 144, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; áp dụng Điều
500 của Bộ luật dân sự năm 2015 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án;
Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị Ánh N về
việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với bị
đơn Ka T.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hồ Thị Ánh N về việc buộc bà Ka
T phải trả lại số tiền 450.000.000 đồng theo giấy sang nhượng viết tay ngày
24/01/2019.
2. Về án phí: Hồ Thị Ánh N được miễn số tiền 22.000.000 đồng án phí dân
sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: đương sự mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên toà
quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án
được niêm yết.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Lâm Đồng; THẨM PHÁN-CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- VKSND tỉnh Lâm Đồng; (Đã ký)
- VKSND huyện B;
- Các đương sự;
- THADS huyện B;
- Lưu hồ sơ vụ án. Trần Văn Biên
Tải về
Bản án số 37/2023/DS-ST Bản án số 37/2023/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất