Bản án số 37/2022/DS-ST ngày 09/09/2022 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSD đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 37/2022/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 37/2022/DS-ST ngày 09/09/2022 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSD đất
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Bảo Lâm (TAND tỉnh Lâm Đồng)
Số hiệu: 37/2022/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/09/2022
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BẢO LÂM
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 37/2022/DS-ST
Ngày : 09.9.2022
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Chủ tọa phiên tòa:Nguyễn Thị Bích Thủy
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Phạm Đức Minh
2. Bà Phan Thị Hà
Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Anh Vương- Thư Tòa án, Tòa án nhân
dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Hà- Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh
Lâm Đồng xét xử thẩm công khai theo thủ tục thông thường ván thụ số
192/2022/TLST-DS ngày 24 tháng 12 năm 2020 về “tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
33/2022/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 7 m 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:Quách Thị N, sinh năm 1944
Địa chỉ: Thôn 5, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Tấn T, sinh năm 1973. Địa chỉ: 43
Nguyễn Văn Cừ, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng
2. Bị đơn:Nguyễn Thị K, sinh năm 1953
Địa chỉ: Thôn 5, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo y quyền: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1961. Địa chỉ:
141F Trần Phú, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Minh C, sinh năm 1952
Địa chỉ: Thôn 5, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
Ông T, ông N đều có mặt, ông C có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/11/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn
trình bày:
2
Bà N không quan hệ họ hàng thân thích với bà K, ông C. Ngày 01/11/2013
bà N nhận chuyển nhượng của bà K một diện tích đất tại thôn 5, xã L, huyện B, tỉnh
Lâm Đồng, đất chiều rộng (mặt tiền phía sau bằng nhau) 05 mét, chiều dài
khoảng 25 mét- 30 mét. Hai bên viết giấy tay sang nhượng, thể hiện bên bán là
K, bên mua N, giá chuyển nhượng 10.000.000 đồng/ mét ngang mặt tiền,
thành tiền 50.000.000 đồng, đất các mặt giáp như sau: mặt tiền giáp đường đi thôn
5, xã Lộc Thành, một mặt giáp đất ông Canh, hai mặt còn lại giáp đất K, đất chưa
sổ đỏ. Trong giấy chuyển nhượng không chữ của ông C nhưng hiện nay ông
C và K vẫn là vợ chồng, vẫn ở đất giáp ranh đã bán cho bà N, N làm nhà ông
C biết và không ý kiến gì. N đã thanh toán được cho K nhiều lần với stiền
35.000.000 đồng, hiện còn nợ lại số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi mua đất bà N xây
nhà n định đến nay. Sau đó N nhiều lần yêu cầu bà K làm thủ tục tách thửa
sang tên diện tích đất trên cho N và bà N thanh toán hết số tiền còn lại nhưng
K không đồng ý. Nay toàn bộ đất trên thuộc một phần thửa 840- TBĐ 11- Diện tích
112,5 m
2
- Thôn 5, L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng, bà N yêu cầu ng nhận hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất đã ký kết giữa N với K đối với diện tích đất 112,5 m
2
thuộc 01 phần thửa 840- TBĐ 11- Thôn 5, L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng, công nhận
toàn bộ diện tích đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà N. N đồng ý thanh
toán số tiền đất còn thiếu cho vợ chồng K 15.000.000 đồng, đồng ý chịu lãi
phát sinh từ ngày 01/4/2016 đến 30/4/2022: 15.000.000 đồng x 9%/năm x 72 tháng=
8.100.000 đồng, cộng cả gốc và lãi 23.100.000 đồng. Về chi phí tố tụng, án phí
N yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bị đơn trình bày: Bà K thừa nhận vợ chồng bà không có quan hệ họ hàng với
Quách Thị N. Bà muốn bán đất nên bà Nguyễn Thị Thu (là hàng xóm) giới thiệu
cho N mua. Ngày 01/11/2013 bán cho bà N một đất nông nghiệp chiều
rộng khoảng 05 mét x chiều sâu khoảng 25 mét, đất sình chưa sđỏ, nguồn gốc
đất vợ chồng bà sang nhượng của người khác từ năm 1987. Hai bên có viết giấy tay,
nhờ Thu viết hộ, giá thỏa thuận 50.000.000 đồng (10.000.000 đồng/mét ngang
mặt tiền). Đất có tứ cận như sau: hai mặt Đông, Nam giáp đất bà K còn lại, phía tây
giáp đất ông Căn, phía Bắc giáp mặt đường thôn 5. Khi bán bà N đặt cọc 5.000.000
đồng, đến ngày 29/11/2013 trả thêm 10.000.000 đồng, sau này trả thêm 01 lần
20.000.000 đồng, tổng cộng trả 35.000.000 đồng. Sau khi viết giấy, đặt cọc tiền thì
giao đất luôn cho bà N đến nay. Cuối năm 2013 nhà nước đã tiến hành xây nhà tình
thương cho N, cũng tạo điều kiện để N làm n. Tuy nhiên sau đó bà N
không trả tiền còn lại cho K mặc đã đòi nhiều lần vậy không sang tên cho
N. Số tiền bán đất cho N K sử dụng đtrả tiền vay ngân ng của vợ
chồng trước đó, bà K n đất lúc đó ông C không biết, không ký tên, nhưng sau này
bà N làm nhà, ở sát đất của vợ chồng nên ông C biết và không ý kiến gì. Nay bà
K không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của N. K yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sdụng đất đã kết giữa với N ngày 01/11/2013, do khi
chuyển nhượng không sự đồng ý của ông C, cần tiền trả nợ nên mới bán đất
3
nhưng đến nay bà N vẫn chưa trả đủ tiền cho bà. đồng ý trả lại gtrị tiền đất theo
giá thị trường số tiền N trả cho bà+ đồng ý thanh toán giá trị tài sản trên đất cho
N tổng số tiền 241.867.500 đồng, yêu cầu N giao lại toàn bộ diện tích đất 112,5
m
2
theo đo đạc thuộc 01 phần thửa 840-TBĐ 11- Thôn 5, L, huyện B tài sản
gắn liền với đất. Về chi phí ttụng, án pyêu cầu giải quyết theo quy định của pháp
luật.
Người quyền lợi, nghĩa vliên quan trình bày: Ông C với K vchồng,
không họ hàng thân thích với N. Năm 1987 vchồng chuyển đến sinh sống tại
thôn 5, L, huyện B đến nay. Hiện nay ông K vẫn chung sống trên cùng mảnh
đất liền kề phần đất bán cho bà Năn nhưng ly thân 14 năm nay, mỗi người ở 01 nhà.
Về việc K bán đất cho N thì ông không biết, không sự đồng ý của ông
không ký bất cứ giấy tờ gì cả. Khi N đổ vật liệu xây dựng để xây nhà thì ông mới
biết, sau này làm ng xóm với nhau đến nay. Tuy nhiên do vchồng mâu thuẫn nên
ông không hỏi K việc bán đất như thế nào, khi nào và bao nhiêu tiền. Sau này ông
nghe hàng xóm nói lại K bán 10.000.000 đồng/mét ngang mặt tiền, còn trả tiền,
nợ tiền thế nào ông không biết. 01 lần tại nhà N thì N đưa cho K số
tiền 20.000.000 đồng, K nhận, ông chứng kiến nhưng nghe nói trả tiền lãi
đó chứ không phải tiền đất. Toàn bộ số tiền bán đất cho bà N thì bà K trực tiếp nhận
không liên quan đến ông ông cũng không tiêu xài stiền này. Ông được biết
bà K lấy tiền trả ncủa K. Vranh giới khuôn viên đất K bán cho bà N như
đo đạc của Tòa án tiến hành là đúng, bà N đã xây nhà gần hết diện tích đất, chỉ còn
phần sân phía trước, ranh giới được rào bằng lưới B40. Ông khẳng định phần đất
K bán cho bà N là tài sản chung của ông K chuyển nhượng lại của người khác.
K bán đất không có sự đồng ý của ông nên ông không nhất trí, yêu cầu giải quyết
theo pháp luật. Ông không yêu cầu giải quyết quyền lợi trong vụ án này, đơn
yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải vàoc ngày 16/3/2022 05/5/2022 nhưng không thành.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, người đại diện
theo ủy quyền của bị đơn thỏa thuận: Nguyên đơn, bị đơn đồng ý yêu cầu công
nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/11/2013 giữa Quách
Thị N Nguyễn Thị K, N đồng ý trả cho K số tiền 70.000.000 đồng. Về
chi phí tố tụng N đồng ý chị ½, bà K đồng ý chịu ½, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông C có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm tham gia phiên tòa phát biểu
ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi
thụ cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án phát biểu ý kiến về việc
giải quyết vụ án như sau: Cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của N đối với K,
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/11/2013 giữa bà N
4
K. Cần xem t sự thỏa thuận về việc N đồng ý trả cho vợ chồng bà K và
ông C stiền 70.000.000 đồng. Vchi phí ttụng cần xem xét sự thỏa thuận của
nguyên đơn và bị đơn phù hợp với pháp luật mỗi bên chịu ½. Về án phí đề nghị giải
quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
1. Về thủ tục tố tụng:
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Minh C đơn yêu cầu
xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố
tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xvụ án theo quy định của pháp luật.
2. Về nội dung vụ án:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với bị đơn thấy rằng:
Diện tích đất đang tranh chấp thuộc thửa số 840- TBĐ 11(tờ bản đồ 299 đo
đạc năm 1998), diện tích 136 m
2
tọa lạc tại thôn 5, L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
Thửa đất 840 được tách thửa từ thửa 819 (thửa 819 được tách từ thửa gốc 79- TBĐ
11 diện tích 6.920 m
2
). Theo sổ mục kê về đăng thửa đất thì thửa 819 trước đây
không thể hiện tên người sử dụng đất, thực tế chủ sử dụng đất Nguyễn Thị K,
ông Nguyễn Minh C-trú tại thôn 5, L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. K tiến hành
tách thửa 819 thành nhiều thửa khác nhau gồm có: 837, 838, 839, 840, 841, 842, 843
và 844. Thửa 840 hiện nay bà Quách Thị N đang quản lý, sử dụng, chưa đăng ký kê
khai, chưa được cấp giấy chứng nhận QSD đất. Như vậy về nguồn gốc thửa đất 840
của ông Nguyễn Minh C Nguyễn Thị K nhận chuyển nhượng của người khác
từ năm 1987.
Theo họa đồ đo đạc hiện trạng sử dụng đất ngày 16/8/2021 của Công ty TNHH
Anh Thịnh Lâm Đồng cung cấp cho a án ngày 20/8/2021 thì diện tích đất đang
tranh chấp 112,5 m
2
thuộc một phần thửa 840- TBĐ 11- Thôn 5, xã L, huyện B, tỉnh
Lâm Đồng. Tài sản gắn liền với đất gồm có nhà xây diện tích 40 m
2
, nhà gỗ 20 m
2
.
Đất tcận như sau: phía bắc giáp đường nhựa, phía nam giáp 1 phần thửa 840
còn lại bà K đang canh tác, phía đông giáp đất bà Nguyễn Thị K (thửa 841), phía tây
giáp thửa 839 (đất ông Canh).
Theo chứng thư thẩm định giá ngày 12/01/2022 của Công ty Cổ phần thẩm
định giá Việt Tín tgiá trị tài sản theo giá thị trường hiện nay gồm: quyền sử dụng
đất 254.025.000 đồng, công trình xây dựng 64.050.000 đồng. Tổng giá trị tài
sản 318.075.000 đồng.
Về giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất:
Hình thức nội dung hợp đồng chuyển nhượng QSD đất: Ngày 01/11/2013
Nguyễn Thị K chuyển nhượng thửa đất 840 cho Quách Thị N. Hai bên
lập “giấy mua bán đất” viết tay thể hiện bên người bán Nguyễn Thị K, bên
người mua Quách Thị N. Giấy mua bán thể hiện giá 50.000.000 đồng, N đặt
5
cọc trước 5.000.000 đồng, còn lại số tiền 45.000.000 đồng phải trả vào ngày
01/01/2014, nếu không trả thì bà N phải chịu lãi cho bên bán. Trong giấy tờ chuyển
nhượng không thể hiện kích thước, diện tích chuyển nhượng, giá chuyển nhượng cụ
thể, ai làm thủ tục tách thửa sang tên, tính pháp của thửa đất, thực tế được các bên
thừa nhận nsau: giá chuyển nhượng 10.000.000 đồng/mét ngang mặt tiền, chuyển
nhượng 05 mét, chiều dài khoảng 25 mét tính từ đường đi, thành tiền 50.000.000
đồng, đất chưa được cấp sổ đỏ. K đã giao đất cho bà N sử dụng, xây nhà ổn
định từ năm 2013 đến nay không tranh chấp vphần đất đã chuyển nhượng. Bà N đã
thanh toán nhiều lần cho K với stiền là 35.000.000 đồng. Căn cứ Điều 688, 689,
697,698 BLDS 2005 t nội dung chuyển nhượng đã ràng, tuy nhiên sau khi
chuyển nhượng hai bên không lập đồng chuyển nhượng QSD đất công chứng,
chứng thực theo quy định của pháp luật.
Về điều kiện chuyển nhượng QSD đất tại thời điểm chuyển nhượng: Điều 106
Luật đất đai 2003, Điều 188 Luật đất đai 2013 quy định khi chuyển nhượng đất phải
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên diện tích đất K chuyển
nhượng cho bà N chưa được cấp sổ đỏ. Các bên thừa nhận nguồn gốc đất của vợ
chồng K, ông C nhận chuyển nhượng của người khác từ năm 1987, sử dụng ổn
định, không có tranh chấp đến thời điểm chuyển nhượng cho bà N.
Về quyền, nghĩa vụ của các bên khi giao dịch quyền sử dụng đất được quy
định tại các điều 699, 700, 701 702 BLDS 2005: Bên chuyển nhượng (K)
nghĩa vụ giao đủ diện ch đất, vtrí, số hiệu tình trạng đất nthỏa thuận, giao
giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất bên nhận nhận chuyển nhượng (N),
có quyền nhận tiền chuyển nhượng, nếu chậm trả có quyền yêu cầu tính lãi theo quy
định tại Điều 305 BLDS. Bên nhận chuyển nhượng (N) nghĩa vụ trả đủ tiền
đúng thời hạn và đúng phương thức đã thỏa thuận cho bên chuyển nhượng (K),
thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Xét thỏa thuận
trong giấy chuyển nhượng đất viết tay: K đã giao đủ đất cho N sử dụng, thời
hạn thanh toán tiền chuyển nhượng là đến ngày 01/01/2014 phải trả nhưng bà N chỉ
trả được số tiền 35.000.000 đồng, số tiền còn thiếu 15.000.000 đến nay chưa trả. Tuy
nhiên K không giao giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất (sổ đỏ) chuyển
nhượng đN thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất. Về phía bà N mặc dù đã nhận
đủ đất, xây nhà, sử dụng đất ổn định nhưng không thực hiện nghĩa vụ trả số tiền còn
lại, không thực hiện việc đăng quyền sdụng đất theo quy định của pháp luật. Do
đất chưa có giấy chứng nhận QSD đất nhưng đã chuyển nhượng nên hai bên không
ký kết được hợp đồng chuyển nhượng QSD đất, không làm thủ tục đăng ký sang tên
theo quy định của pháp luật. Điều này dẫn đến tranh chấp giữa các bên, cần xác định
hai bên cùng có lỗi dẫn đến tranh chấp (50/50).
Về việc chuyển nhượng đất như trên ông C trình bày hoàn toàn không biết
việc chuyển nhượng đất giữa các bên, không ký bất cứ giấy tờ và không nhận tiền
chuyển nhượng đất của N nên không đồng ý việc chuyển nhượng đất giữa K
với N. Tuy nhiên sau khi chuyển nhượng, ông C biết không ý kiến gì, không
6
cản trở gì khi bà N sử dụng đất, làm nhà. Đồng thời ông C cũng có biết bà N trả cho
K số tiền 20.000.000 đồng, K thừa nhận sử dụng tiền chuyển nhượng đất đtrả
nợ chung của vợ chồng, đến nay ông C không có ý kiến gì nên không có cơ s chấp
nhận.
Như vậy việc chuyển nhượng đất giữa K N thật, hiện hữu, đã
giao đất sử dụng đất chuyển nhượng, làm nhà ở n định trong thời gian dài, bà K,
ông C đều biết không ngăn cản gì. Hiện nay diện tích chuyển nhượng đã được
tách thành 01 thửa độc lập, còn hạn sử dụng đất, không thuộc diện quy hoạch của
nhà nước nên đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định của pháp luật nhưng chưa
làm thủ tục chuyển nhượng sang tên. Đến thời điểm xét xử N đã trả cho K được
số tiền 35.000.000 đồng, còn thiếu 15.000.000 đồng (đã thực hiện trên 2/3 nghĩa vụ).
Tại phiên tòa K thừa nhận đồng ý công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSD
đất ngày 01/11/2013 giữa K với bà N, công nhận đất cho bà N. Nên cần căn cứ
vào khoản 2 Điều 129 BLDS 2015 cần công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSD
đất giữa K với N đối với diện tích đất 112,5 m
2
thuộc 1 phần thửa 840- TBĐ
11- Thôn 5, L, huyện B tỉnh Lâm Đồng, công nhận toàn bộ diện tích đất trên thuộc
quyền sử dụng hợp pháp của bà Quách Thị N.
Về số tiền chuyển nhượng đất N còn thiếu chưa trả cho K là 15.000.000
đồng, theo hợp đồng thỏa thuận bà N phải chịu lãi tuy nhiên đến nay bà N không có
căn cứ đã trả lãi vậy cần tính trượt giá theo giá thị trường hiện nay cho K
ông C là có cơ sở. Hiện nay giá trị quyền sử dụng đất gó giá thị trường 254.025.000
đồng, số tiền N chưa thanh toán cho vợ chồng bà K 15.000.000 đồng trượt giá
thành 45.603.750 đồng. Tại phiên tòa N đồng ý trả cho K, ông C số tiền
70.000.000 đồng, bà K đồng ý nhận số tiền 70.000.000 đồng. Xét sự thỏa thuận này
tnguyện, phù hợp pháp luật, không gây thiệt hại đối với quyền lợi đương sự
vắng mặt nên cần xem xét chấp nhận.
Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo vẽ, thẩm định giá tài sản tồng số tiền
đồngK đã nộp xong, cần buộc N chịu ½, bà K chịu ½. Buộc bà N phải trả lại
cho K số tiền 6.919.500 đồng, K phải chịu số tiền 6.919.500 đồng (đã nộp
xong).
Về án phí: Do nguyên đơn Quách Thị N và bị đơn bà Nguyễn Thị K thuộc
người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 264, Điều 266 Bộ
luật tố tụng dân sự.
7
Căn cứ vào các điều 688, 689, 697, 698, 699, 700, 701 và 702 của Bộ luật dân
sự 2005; Điều 275 Bộ luật dân sự 2015; Điều 106 Luật đất đai 2003, Điều 188 Luật
đất đai 2013.
Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân Tối cao;
Căn cứ o Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, áp dụng Nghị quyết
326/2016/NQ- UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí, lệ
phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca bà Quách Thị N đối với Nguyễn Thị K
về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/11/2013 giữa
đã lập giữa Quách Thị N và bà Nguyễn Thị K.
Công nhận toàn bộ diện tích đất đất 112,5 m
2
thuộc 01 phần thửa 840- TBĐ
11- Thôn 5, L, huyện B tỉnh Lâm Đồng thuộc quyền sử dụng hợp pháp của
Quách Thị N.
(có họa đkèm theo)
Quách Thị N trách nhiệm đăng khai diện tích đất trên để được cấp
giấy chứng nhận QSD đất theo quy định của pháp luật.
Quách Thị N trách nhiệm trả cho vợ chồng Nguyễn Thị K ông
Nguyễn Minh C số tiền 70.000.000 đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về chi phí tố tụng: Buộc Quách Thị N phải trả lại cho Nguyễn Thị
K số tiền 6.919.500 đồng. Nguyễn Thị K phải chịu 6.919.500 đồng (đã nộp xong).
3. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho bà Quách Thị N, miễn
toàn bộ án phí DSST cho bà Nguyễn Thị K (người trên 60 tuổi).
4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn mặt tại phiên tòa quyền kháng
cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan liên quan vắng mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể
từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết đyêu cầu Tòa án nhân dân
tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2015 thì người được thi hành án
dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6; Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu
8
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được
sửa đổi, bổ sung năm 2015.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lâm Đồng;
- VKSND tỉnh Lâm Đồng;
- VKSND huyện Bảo Lâm;
- Chi cục THADS huyện Bảo Lâm;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Thị Bích Thủy
Tải về
Bản án số 37/2022/DS-ST Bản án số 37/2022/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất