Bản án số 358/2025/DS-PT ngày 24/07/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 358/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 358/2025/DS-PT ngày 24/07/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Cần Thơ
Số hiệu: 358/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tại Bản án số 06/2025/DS-ST ngày 18/02/2025, Tòa án nhân dân huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 7 - Cần Thơ) đã quyết định
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CẦN T
Bản án số: 358/2025/DS-PT
Ngày 24/7/2025
V/v tranh chấp yêu cầu tuyên
bố hợp đồng mua bán tài sản
đấu giá vô hiệu và xử lý hậu
quả hợp đồng vô hiệu
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hoàng Lâm;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hoàng Thành;
Ông Trần Nam Trung.
- Thư phiên tòa: Trầm Thị Phương Hằng, Thẩm tra viên Tòa án
nhân dân Thành phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Cần Thơ tham gia phiên
tòa: Nguyễn Thị Như Huỳnh, Kiểm sát viên.
Trong ngày 24 tháng 7 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố
Cần Thơ, số 01, Đường 30/4, phường Phú Lợi, Thành phố Cần Thơ, xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ số: 147/2025/TLPT-DS ngày 27 tháng 5 năm 2025,
về tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản đấu giá hiệu xử
lý hậu quả hợp đồng vô hiệu.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2025/DS-ST ngày 18 tháng 02 năm 2025
của Toà án nhân dân huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng (nay Tòa án nhân dân
khu vực 7 - Cần Thơ) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét x phúc thẩm số: 193/2025/-PT
ngày 09 tháng 6 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Mã Anh N;
Địa chỉ: Ấp 2, thị trấn P, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (nay ấp 2, P,
Thành phố Cần Thơ). ( mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Minh
T, Luật của Văn phòng Luật N (Chi nhánh P), thuộc Đoàn Luật tỉnh
Sóc Trăng; địa chỉ: Số 399, ấp P, T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (nay là số 399,
ấp P, xã G, Thành phố Cần T). (có mặt)
2
- Bị đơn: Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S (quan kế thừa
quyền nghĩa vụ tố tụng là Thi hành án dân sự Thành phố C);
Địa chỉ: Số 15A, đường N, phường A, Thành phố Cần Thơ.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Giang Hải T1; địa chỉ làm việc:
Khóm 3, phường N, Thành phố Cần Thơ; là người đại diện theo ủy quyền của bị
đơn (văn bản ủy quyền ngày 22/7/2025). (có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn N1;
2. Bà Phạm Thị K;
Cùng địa chỉ: Ấp Q, C, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (nay ấp Q, V,
Thành phố Cần Thơ). (đều vắng mặt)
3. Ông Trương Hoàng T2;
Địa chỉ: Ấp T, C, huyện V, tỉnh Bạc Liêu (nay ấp T, V, tỉnh
Mau). (vắng mặt)
4. Công ty đấu giá hợp danh Đ.
Địa chỉ: Số 18B, đường T, khóm 1, Phường X, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng (nay số 18B, đường T, khóm 1, phường P, Thành phố Cần Thơ). (vắng
mặt)
5. Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện T, tỉnh S (quan kế thừa quyền
nghĩa vụ tố tụng là Ủy ban nhân dân xã P, Thành phố C);
Địa chỉ: Ấp 2, P, Thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)
- Người kháng cáo: Ông Mã Anh N - Nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 25 tháng 4 năm 2024 trong quá trình giải
quyết vụ án, nguyên đơn ông Mã Anh N trình bày:
Vào tháng 02/2022, ông trúng đấu giá thửa đất số 28, tbản đồ số 36,
diện tích 7.001,2m
2
, tọa lạc ấp Q, C, huyện T, tỉnh Sóc Trăng tài sản do
Chi cục Thi hành án dân sự huyện T biên của ông Nguyễn Văn N1
Phạm Thị K với số tiền đấu giá là 191.000.000 đồng.
Ngày 04/4/2022, Chi cục Thi hành án dân sự huyện T tiến hành cưỡng chế
chuyển giao phần đất đấu giá cho ông, nhưng ông N1, K không mặt. Sau
đó, ông Chi cục Thi hành án dân sự huyện T đã tiến hành hợp đồng mua
bán tài sản đấu giá làm các thủ tục đăng sang tên quyền sdụng đất. Đến
ngày 16/12/2022, ông được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh S cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, kể từ khi Chi cục Thi hành án dân sự huyện
T cưỡng chế chuyển giao toàn bộ phần đất đấu giá cho ông, ông N1 K
không chấp hành mà tiếp tục bao chiếm không cho ông sử dụng đất.
Ngày 09/4/2024, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện T thông
3
báo thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông do cấp sai quy
trình. Ngày 11/4/2024, ông đã giao nộp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
DG 595477 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh S cấp ngày 16/12/2022 cho
ông đối với thửa đất số 28, tờ bản đồ số 36, diện tích 7.001,2m
2
, tọa lạc ấp Q, xã
C, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết:
Xử Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá giữa ông với Chi cục Thi hành
án dân sự huyện T, đối với thửa đất s28, tờ bản đồ số 36, diện tích 7.001,2m
2
,
tọa lạc ấp Q, xã C, huyện T, tỉnh Sóc Trăng là vô hiệu.
Buộc Chi cục Thi hành án dân sự huyện T trả lại cho ông số tiền đã trúng
đấu giá 191.000.000 đồng (chưa bao gồm các loại thuế và các khoản chi phí phát
sinh như chi phí công chứng hợp đồng 300.000 đồng, thuế thu nhập nhân
0,5% tương đương số tiền 955.000 đồng, chi phí mua cọc và thuê người cặm
ranh đất 1.000.000 đồng, chi phí tham gia đấu giá 500.000 đồng).
Đối với thửa đất số 28, kể tkhi Chi cục Thi hành án dân sự huyện T
cưỡng chế đến nay, ông N1 K vẫn bao chiếm, không giao đất cho ông sử
dụng nên ông không có nghĩa vụ giao trả lại đất.
Tại phiên tòa thẩm, ông bổ sung yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự
huyện T bồi thường các khoản chi phí phát sinh gồm chi phí công chứng hợp
đồng 300.000 đồng, thuế trước bạ sang tên 0,5% tương đương số tiền 1.255.000
đồng, chi phí mua cọc, thuê người cặm ranh đất và tham gia đấu giá 1.000.000
đồng, tiền chênh lệch giá đối với phần đất chuyển nhượng theo giá thị trường
263.209.851 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Chi cục Thi hành án dân sự
huyện T trình bày:
Chi cục Thi hành án dân sự huyện T có thụ lý thi hành Bản án số
01/2018/DS-ST ngày 04/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Trị, tỉnh
Sóc Trăng, giữa người được thi hành án ông Trương Hoàng T2 với người phải
thi hành án ông Nguyễn Văn N1 Phạm Thị K. Trong quá trình thi hành
án, người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án nên Chi cục Thi hành án
dân sự huyện T đã tiến hành cưỡng chế, biên, bán đấu giá tài sản của người
phải thi hành án phần đất diện tích 7.001,2m
2
, loại đất lúa, thuộc thửa đất
số 28, tờ bản đồ số 36, tọa lạc ấp Q, C, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Chấp hành
viên đã ký Hợp đồng bán đấu giá tài sản đến lần thứ 8 thì tài sản kê biên bán đấu
giá thành với giá 191.000.000 đồng, người trúng đấu giá ông Anh N. Khi
ông N thanh toán đtiền trúng đấu giá, Chi cục Thi hành án dân sự huyện T đã
lập bảng kê phân phối tiền bán tài sản để thi hành án sau khi cộng số tiền bán hồ
bán đấu giá 200.000 đồng, tổng số tiền thu 191.200.000 đồng. Chi cục Thi
hành án dân sự huyện T đã chi các khoản gồm: Chi phí cưỡng chế (chi phí
cưỡng chế biên, thẩm định giá, bán đấu giá, chi phí thù lao dịch vụ bán đấu
giá, thuế thu nhập cá nhân do chuyển quyền sử dụng đất, cưỡng chế giao tài sản)
4
số tiền 54.006.050 đồng, thu án phí nộp ngân sách nhà nước 4.762.500 đồng
chi cho người được thi hành án ông Trương Hoàng T2 số tiền 132.431.450
đồng, ông T2 đơn yêu cầu đình chỉ thi hành án nên vụ việc thi hành án kết
thúc.
Quá trình thi hành án có Kiểm sát viên kiểm sát nên các thủ tục cưỡng chế
biên, bán đấu giá, giao tài sản bán đấu giá thanh toán tiền bảo đảm đúng
quy định. Tuy nhiên, sau khi Chi cục Thi hành án dân sự huyện T giao tài sản
cho ông N canh tác thì người phải thi hành án là ông N1, bà K cản trở không cho
sử dụng đất, ông N phản ánh vụ việc được quan thẩm quyền xem xét
thì biết được, tại thời điểm tham gia mua tài sản bán đấu giá, ông N là viên chức
nhà nước, không đủ điều kiện nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa,
nhưng được Uỷ ban nhân dân thị trấn P xác nhận có trực tiếp canh tác, có nguồn
thu nhập trực tiếp từ đất nông nghiệp để đáp ứng điều kiện mua tài sản bán đấu
giá đất nông nghiệp chưa đúng, làm ảnh hưởng đến kết quả bán đấu giá, việc
bán đấu giá do Công ty đấu giá hợp danh Đ - Chi nhánh S thực hiện bảo đảm
đúng quy định.
Chi cục Thi hành án dân sự huyện T yêu cầu Tòa án xem xét trách nhiệm
của ông N và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi giải quyết vụ án,
có lỗi đến đâu thì xử lý đến đó. Chi cục Thi hành án dân sự huyện T đã tiến hành
việc bán đấu giá tài sản đúng theo trình tự, thủ tục về thi hành án nên không
trách nhiệm hoàn trả lại tiền theo yêu cầu của ông N.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Công ty đấu giá hợp danh Đ trình bày:
Vào ngày 30/12/2021, Công ty Đấu giá hợp danh Đ - Chi nhánh S (gọi tắt
Công ty) Chi cục Thi hành án dân sự huyện T ký kết Hợp đồng dịch vụ
đấu giá tài sản số 201/2021/HĐDVĐGTS.ST, về việc đấu giá Quyền sử dụng
đất diện tích 7.001,2m
2
(LUC), thuộc thửa đất số 28, tờ bản đsố 36, tọa lạc
tại ấp Q, xã C, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Sau đó, Công ty đã tiến hành thông báo,
niêm yết việc đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật, trong thông báo đấu
giá tài sản có nêu điều kiện đăng tham gia đấu giá: Các tổ chức, nhân
đăng đấu giá đủ điều kiện theo Điều 38 Luật đấu giá tài sản; các tổ chức,
nhân đăng ký tham gia đấu giá thông qua việc nộp hồ sơ tham gia đấu giá hợp lệ
tiền đặt trước cho tổ chức đấu giá tài sản theo quy định của Luật đấu gtài
sản (trừ các trường hợp không được đăng tham gia đấu giá tại khoản 4 Điều
38 Luật đấu giá tài sản) quy định khác của pháp luật liên quan. Trong
trường hợp pháp luật quy định về điều kiện khi tham gia đấu giá thì người
tham gia đấu giá phải đáp ứng điều kiện đó nêu rõ: “Người tham gia đấu
giá đất trồng lúa phải có giấy xác nhận địa phương nghề nông là nghề chính”.
Ông N trước khi đăng tham gia đấu giá cung cấp Đơn xin xác nhận
(V/v hộ gia đình, nhân trực tiếp sản xuất đất nông nghiệp nguồn thu
nhập ổn định từ đất nông nghiệp) do Uỷ ban nhân dân thị trấn P (nơi ông N
trú) xác nhận ngày 11/02/2022. Căn cứ vào Giấy xác nhận y, Công ty tiếp
5
nhận đơn đăng ký tham gia đấu giá của ông N. Vào lúc 09 giờ, ngày 17/02/2022,
Công ty đã tổ chức cuộc đấu giá. Tại cuộc đấu giá, ông N trả với giá cao nhất
191.000.000 đồng, việc đấu giá thành nên Công ty thông báo kết quả đấu giá
thành cho Chi Cục thi hành án dân sự huyện T Công ty thu thù lao dịch vụ
đấu giá, chi phí đấu giá tài sản theo Thông tư số 108/2020/TT-BTC ngày
21/12/2020 của Bộ Tài chính, quy định khung thù lao dịch vụ đấu giá tài sản
theo quy định tại Luật Đấu gtài sản, đồng thời Chi Cục thi hành án dân sự
huyện T Công ty tiến hành lập biên bản thanh số 10/BBTL.HĐDVĐGTS
ngày 10/3/2022, sau đó ông N đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán tiền trúng
đấu giá Chi Cục thi hành án dân sự huyện T đã tổ chức giao tài sản cho ông
N ngày 04/4/2022.
Như vậy, khi tổ chức bán đấu giá, Công ty và Chi Cục Thi hành án dân sự
huyện T đã thực hiện thông báo bán đấu giá, ghi điều kiện tham gia đấu giá,
việc cung cấp các giấy tờ liên quan do ông N cung cấp. Công ty không
nghĩa vụ liên quan đến việc hoàn trả số tiền trên theo yêu cầu của ông N Chi
cục Thi hành án dân sự huyện T.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Ủy ban nhân dân thị trấn P trình bày:
Việc ông Mã Anh N gửi đơn đề nghị Ủy ban nhân dân thị trấn P xác nhận
người trực tiếp sản xuất nguồn thu nhập tđất nông nghiệp thì n bộ
phụ trách tham mưu cho lãnh đạo xác nhận, còn đối với nội dung khởi kiện của
ông N và yêu cầu của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T thì không có ý kiến.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Trương Hoàng T2 trình bày:
Trước đây, ông khởi kiện vợ chồng ông N1, K để yêu cầu trả tiền
thức ăn chăn nuôi được Tòa án nhân dân huyện Thạnh Trị thụ lý, giải quyết
bằng bản án hay quyết định công nhận thỏa thuận thì ông không nhớ rõ. Sau đó,
Chi cục Thi hành án dân sự huyện T đã tiến hành đấu giá phần đất của ông N1,
K để thi hành theo quyết định của Tòa án, ông đã nhận được tiền mua n
thức ăn mà ông N1, bà K nợ từ tiền phát mãi tài sản thi hành án. Nay ông N khởi
kiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện T thì ông không có liên quan gì trong vụ
án y. Chi cục Thi hành án dân sự huyện T phát mãi tài sản, giao tiền theo
quyết định của Tòa án nên ông không đồng ý trả lại.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn N1 và bà
Phạm Thị K: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố
tụng đúng theo đúng quy định, nhưng ông, từ chối nhận không gửi văn
bản cho Tòa án nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của ông N.
Tại Bản án số 06/2025/DS-ST ngày 18/02/2025, Tòa án nhân dân huyện
Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng (nay Tòa án nhân dân khu vực 7 - Cần Thơ) đã
quyết định:
6
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 266,
Điều 271 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 191 Luật đất đai
năm 2013; Điều 117, Điều 122, Điều 123 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm
2015; khoản 1 Điều 26 và khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Mã Anh N.
Tuyên bố Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá giữa ông Anh N với Chi
cục Thi hành án dân sự huyện T xác lập ngày 01/3/2022, đối với thửa đất số 28,
tờ bản đồ s36, diện ch 7.001,2m
2
, loại đất lúa, tọa lạc ấp Q, C, huyện T,
tỉnh Sóc Trăng là vô hiệu.
Buộc Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S trách nhiệm hoàn trả
cho ông Mã Anh N số tiền 151.043.950 đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Mã Anh N, đối với yêu cầu
Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S nghĩa vụ trả khoản tiền
305.720.901 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ, thẩm định giá, án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án quyền kháng cáo của
các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 03/3/2025, ông N đơn kháng cáo một phần bản án thẩm, yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết buộc Chi cục Thi hành án dân sự
huyện T trách nhiệm trả cho ông các khoản thiệt hại với số tiền 305.720.901
đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ông N không rút đơn khởi kiện, không rút kháng o các đương sự
cũng không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông N cho rằng, cấp thẩm
nhận định hợp đồng mua bán tài sản đấu giá giữa ông N với Chi cục Thi hành án
dân sự huyện T hiệu, lỗi hoàn toàn thuộc về ông N chưa chính xác, ông N
chỉ lỗi một phần, lỗi chính thuộc vChi cục Thi hành án dân sự huyện T,
do biên, bán đấu giá tài sản không đảm bảo đúng quy định, không giao được
tài sản trúng đấu giá cho ông N nên gây thiệt hại cho ông N, do đó đề nghị Hội
đồng xét xử phúc thẩm xem t chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông N, buộc
Chi cục Thi hành án dân sự bồi thường cho ông N các khoản thiệt hại tổng cộng
305.720.901 đồng.
7
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm. Đối với các yêu cầu kháng cáo của
ông N không căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp
nhận áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về sự vắng mặt của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Văn N1, Phạm Thị K, ông Trương Hoàng T2, Công ty đấu giá hợp
danh Đ, Ủy ban nhân dân thị trấn P (nay Ủy ban nhân dân P): Các ông,
cũng như các quan này đã được a án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham
gia phiên tòa phúc thẩm, nhưng vắng mặt không skiện bất khả kháng hoặc
trở ngại khách quan cũng không kháng cáo. Do đó, căn cứ khoản 3 Điều
296 của Bộ luật Ttụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa
phúc thẩm xét xử vụ án.
[2] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của ông Mã Anh
N đảm bảo về hình thức và nội dung, đúng người có quyền kháng cáo, còn trong
thời hạn kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, Điều 272 và Điều 273 B
luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên hợp lệ, đủ điều kiện để giải quyết, xét xử theo
trình tự phúc thẩm.
[3] Xét kháng cáo của ông N, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[4] Ông N Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S (cũ) kết
Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá đối với thửa đất số 28, tờ bản đồ số 36, diện
tích 7.001,2m
2
, mục đích sử dụng chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp Q, C,
huyện T, tỉnh Sóc Trăng, được Văn phòng Công chứng V công chứng ngày
01/3/2022. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015, đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh.
[5] Căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án thể hiện, tại thời
điểm ký kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá thửa đất trên, ông N là viên chức,
thuộc đối tượng được hưởng lương thường xuyên.
[6] Khoản 3 Điều 191 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình,
nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng,
nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa”. Khoản 2 Điều 2 Nghị định số
01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ, sửa đổi, bổ sung một số Nghị
định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai quy định, khi thực hiện thủ tục
đăng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Ủy ban nhân dân cấp nơi
đăng hộ khẩu thường trú xác nhận nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp
nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp. Khoản 1 Điều 3 Thông số
33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên môi trường, quy
8
định chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ, sửa
đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai và sửa đổi,
bổ sung một số điều của các Thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai quy định,
việc xác định hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp được thực hiện
trong 04 trường hợp, trong đó trường hợp đăng nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất trồng lúa của hộ gia đình, nhân các căn cứ để xác định
nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp đang sử dụng đất nông nghiệp, không
thuộc đối tượng được hưởng lương thường xuyên, đối tượng đã nghỉ hưu, nghỉ
mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp hội có nguồn thu nhập
thường xuyên từ sản xuất nông nghiệp trên diện tích đất đang sử dụng.
[7] Như vậy, ông N không đủ điều kiện để nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất trồng lúa. Nội dung hợp đồng mua bán tài sản đấu giá đối với thửa đất
số 28 giữa ông N với Chi cục Thi hành án dân sự huyện T vi phạm điều cấm của
luật, nên Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N, tuyên
bố Hợp đồng mua bán tài sản đấu gnêu trên hiệu có căn cứ, đúng quy
định tại Điều 117 và Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
[8] Về xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu, Điều 131 Bộ luật Dân sự năm
2015 quy định: “1. Giao dịch dân sự hiệu không làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được
xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được
bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. 3. Bên ngay tình trong việc thu
hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. 4. Bên có lỗi gây thiệt
hại thì phải bồi thường. 5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu
liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”.
[9] Sau khi trúng đấu giá, ông N đã giao cho Chi cục Thi hành án dân sự
huyện T 191.000.000 đồng, Chi cục Thi hành án dân sự huyện T đã chi thanh
toán chi phí ký hợp đồng bán đấu giá 08 lần hết 23.200.000 đồng, thù lao dịch
vụ bán đấu giá 7.644.970 đồng, nộp thuế thu nhập nhân do chuyển quyền sử
dụng đất 6.301.080 đồng, chi phí cưỡng chế giao tài sản 2.790.000 đồng, tổng
cộng 39.956.050 đồng, ông N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T thống nhất
đây các chi phí thực tế trong q trình thực hiện giao dịch, n lại
151.043.950 đồng, cấp thẩm buộc Chi cục Thi hành án dân sự huyện T hoàn
trả lại cho ông N số tiền này căn cứ. Đối với thửa đất số 28, mặc Chi
cục Thi hành án dân sự huyện T đã cưỡng chế giao cho ông N, nhưng sau đó
ông N1, K đã bao chiếm lại, quản lý, sử dụng đất cho đến nay nên cấp
thẩm không buộc ông N giao trả lại thửa đất này là đúng.
[10] Ông N yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện T bồi thường các
khoản thiệt hại phát sinh gồm chi phí công chứng hợp đồng 300.000 đồng, thuế
trước bạ sang tên 1.255.000 đồng, chi phí mua cọc, thuê người cặm ranh, tham
gia đấu giá 1.000.000 đồng, tiền chênh lệch giá đất theo giá thị trường
263.209.851 đồng, tổng cộng 305.720.901 đồng. Cấp thẩm không chấp nhận
yêu cầu này là n cứ. Bởi lẽ, ông N biết mình viên chức, được hưởng
9
lương thường xuyên, không đủ điều kiện để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất trồng lúa, nhưng che giấu, cung cấp thông tin không đầy đủ, làm đơn u
cầu Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện T, tỉnh S xác nhận mình đủ điều kiện, từ
đó tham gia đấu giá trúng đấu giá, để được nhận chuyển nhượng thửa đất số
28; trên sở trúng đấu giá, Chi cục Thi hành án dân sự huyện T mới ký hợp
đồng mua bán tài sản đấu giá với ông, nên lỗi dẫn đến thiệt hại nêu trên hoàn
toàn thuộc về ông, Chi cục Thi hành án dân sự huyện T không có lỗi.
[11] Ông N kháng cáo yêu cầu buộc Chi cục Thi hành án dân sự huyện T
trách nhiệm trả cho ông c khoản thiệt hại với stiền 305.720.901 đồng,
nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới chứng minh Chi cục Thi
hành án dân sự huyện T người lỗi dẫn đến hợp đồng mua bán tài sản đấu
giá vô hiệu nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận. Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông N đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm
chấp nhận toàn b kháng cáo của ông N là không có căn cứ chấp nhận.
[12] Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Quyết định số 1898/QĐ-
BTP ngày 25/6/2025 của Bộ pháp, Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn cấu tổ chức của Cục Quản Thi hành án dân sự thì, “Thi hành án
dân sự tỉnh, thành phố tiếp nhận tiếp tục thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của các quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh,
thành phố trước khi sắp xếp đang được quy định tại các văn bản quy phạm pháp
luật và các văn bản khác do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành đến khi có văn bản
thay thế theo quy định”. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định cơ quan kế
thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S
là Thi hành án dân sự Thành phố C.
[13] Các phần khác trong quyết định của bản án thẩm không kháng
cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[14] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đề
nghị của Kiểm sát viên, không chấp nhận đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của ông N, không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông N, căn cứ
khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án dân
sự sơ thẩm.
[15] Về án phí dân sự phúc thẩm: Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lphí Tòa
án quy định: “Đương sự kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, nếu Tòa
án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định thẩm bị kháng cáo, trừ
trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án pphúc thẩm. Như vậy, ông
N người kháng cáo không được Tòa án chấp nhận, không thuộc trường hợp
được miễn hoặc không phải chịu án phí phúc thẩm, nên ông phải chịu án phí
phúc thẩm 300.000 đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên;
10
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 6 Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn ông Mã Anh N.
1. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 06/2025/DS-ST ngày 18 tháng
02 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng (nay là Tòa
án nhân dân khu vực 7 - Cần Thơ), cụ thể:
Tuyên xử:
1.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Mã Anh N.
Tuyên bố Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá giữa ông Anh N với Chi
cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S xác lập ngày 01 tháng 3 năm 2022, đối
với thửa đất số 28, t bản đồ số 36, diện tích 7.001,2m
2
, mục đích sử dụng
chuyên trồng lúa nước, tọa lạc ấp Q, xã C, huyện T, tỉnh Sóc Trăng là vô hiệu.
Buộc Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S (quan kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng là Thi hành án dân sự Thành phố C) có nghĩa vụ hoàn trả lại
cho ông Anh N số tiền 151.043.950 đồng (Một trăm năm mươi mốt triệu
không trăm bốn mươi ba nghìn chín trăm năm mươi đồng).
Ktừ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của ông Mã Anh N thì hàng tháng,
Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S (quan kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng Thi hành án dân sự Thành phố C) còn phải chịu khoản tiền lãi trên số
tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ
luật Dân sự năm 2015 cho đến khi thi hành án xong.
1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Anh N, về việc yêu
cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S (cơ quan kế thừa quyền và nghĩa
vụ tố tụng Thi hành án dân sự Thành phố C) bồi thường các khoản thiệt hại
với số tiền 305.720.901 đồng (Ba trăm lnăm triệu bảy trăm hai ơi nghìn
chín trăm lẻ một đồng).
1.3. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ:
Buộc Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S (quan kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng là Thi hành án dân sự Thành phố C) có nghĩa vụ hoàn trả lại
cho ông Mã Anh N số tiền 375.000 đồng (Ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
1.4. Về chi phí thẩm định giá tài sản: Ông Mã Anh N phải chịu
14.000.000 đồng (Mười bốn triệu đồng) và đã nộp xong.
1.5. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Anh N phải chịu 15.286.045 đồng (Mười lăm triệu hai trăm
tám mươi sáu nghìn không trăm bốn mươi lăm đồng), được khấu trừ vào số tiền
tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm
11
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003884 ngày 26 tháng 4 năm 2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện T, tỉnh Sóc Trăng như vậy, ông còn phải nộp thêm án
phí dân sự thẩm là 14.986.045 đồng (Mười bốn triệu chín trăm tám mươi sáu
nghìn không trăm bốn mươi lăm đồng).
- Chi cục Thi hành án dân shuyện T, tỉnh S (cơ quan kế thừa quyền
nghĩa vụ tố tụng Thi hành án dân sự Thành phố C) phải chịu 7.852.198
đồng (Bảy triệu tám trăm năm mươi hai nghìn một trăm chín mươi tám đồng).
2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Anh N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng),
theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008160 ngày 05 tháng 3 năm
2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Sóc Trăng như vậy, ông
đã nộp xong án phí dân sự phúc thẩm.
3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bcưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật
Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sđược sửa đổi, bổ
sung năm 2014.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND khu vực 7 - Cần Thơ;
- VKSND TP Cần Thơ;
- VKSND khu vực 7 - Cần Thơ;
- THADS TP C;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Hoàng Lâm
Tải về
Bản án số 358/2025/DS-PT Bản án số 358/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 358/2025/DS-PT Bản án số 358/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất