Bản án số 344/2024/HC-PT ngày 18/09/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 344/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 344/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 344/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 344/2024/HC-PT ngày 18/09/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 344/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Huỷ Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2024/HC-ST ngày 05 tháng 3 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 344/2024/HC-PT
Ngày: 18/9/2024
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Phạm Văn Hợp
Ông Vũ Thanh Liêm
Ông Trần Đức Kiên
Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Ngọc Gia Linh - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: Ông Quách Hòa Bình - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 100/2024/TLPT-HC ngày
11 tháng 4 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực
quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2024/HC-ST ngày 05 tháng 3 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1726/2024/QĐ-PT ngày 30 tháng
8 năm 2024 giữa các đương sự:
-
Người khởi kiện
:
1. Bà Ngô Bích N; địa chỉ: Số I Phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng.
Vắng mặt.
2. Ông Hồ Đắc Công P; địa chỉ: Số A N, phường T, thành phố K, tỉnh Kon
Tum. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Chu Văn T; địa
chỉ: Số C (S), phố M, phường Y, quận C, thành phố Hà Nội. Có mặt.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Ông Trần
Đình K - Luật sư Văn phòng luật sư L và đồng sự thuộc Đoàn luật sự thành phố
Hà Nội. Địa chỉ: Số C (S), phố M, phường Y, quận C, thành phố Hà Nội. Có mặt.
-
Người bị kiện
:
1. Ủy ban nhân dân tỉnh K; địa chỉ: D T, phường Q, thành phố K, tỉnh Kon
Tum.
Đại diện theo pháp luật: Ông Lê Ngọc T1 – Chủ tịch. Có đơn xin xét xử
vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Trương Đ – Phó Giám đốc
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K. Có mặt.
2. Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K;
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn L1 – Giám đốc. Vắng mặt.
Đại diện theo ủy quyền: Ông A B, Phó Giám đốc. Có mặt.
- Người kháng cáo:
Người bị kiện là Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh K, Ủy ban nhân dân tỉnh K.
- Kháng nghị:
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên
tòa đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày:
Năm 1996, để có mặt bằng sản xuất chế biến gỗ của Xí nghiệp T2 nên ông
P nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Minh N1 và ông Đoàn Văn B1 diện tích
22.554 m
2
đất tại Km3, Quốc lộ A, xã H, nay là phường T, thành phố K.
Năm 1997, UBND tỉnh K thu hồi diện tích 22.554 m
2
của Xí nghiệp T2 và
cho thuê lại, thời hạn thuê 50 năm, mục đích để chế biến lâm sản, theo Quyết định
số 62/QĐ-UB ngày 17/01/1997. Ngày 31/10/1998, Giám đốc Sở địa chính ký hợp
đồng số 153/HĐ-TĐ cho Xí nghiệp thuê đất là 50 năm, kể từ ngày 01/01/1996.
Năm 2007, Xí nghiệp làm thủ tục được UBND tỉnh cấp GCNQSD đất. Ngày
15/10/2008, Xí nghiệp giải thể. Ngày 04/3/2022, ông P có đơn đề nghị UBND
tỉnh K công nhận diện tích 22.554 m
2
.
Ngày 19/12/2022, Sở tài nguyên và môi trường tỉnh K ban hành Kết luận
thanh tra số 08/KL-STNMT việc ông P đề nghị nhận lại diện tích 22.554 m
2
là
không có cơ sở xem xét, giải quyết và báo cáo UBND tỉnh K. Ngày 13/02/2023,
UBND tỉnh K ban hành Thông báo số 354/UBND-NNTN về việc trả lời không
công nhận đất theo đơn kiến nghị của ông P. Ngày 13/2/2023, ông P và bà N làm
đơn khiếu nại Kết luận thanh tra. Ngày 05/7/2023, Sở Tài nguyên và môi trường
tỉnh K ra Quyết định số 311/QĐ-STNMT về việc giải quyết khiếu nại của ông P
và bà N (lần đầu). Không đồng ý với giải quyết khiếu nại, ông P khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết:
3
Hủy Kết luận thanh tra số 08/KL-STNMT ngày 19/12/2022 của Giám đốc
Sở tài nguyên và môi trường tỉnh K; hủy văn bản số 354/UBND-NNTN ngày
13/02/2023 của UBND tỉnh K về việc trả lời đơn kiến nghị của ông Hồ Đắc Công
P; hủy quyết định giải quyết khiếu nại số 311/QĐ-STNMT ngày 05/7/2023 của
Giám đốc Sở tài nguyên và môi trường tỉnh K; buộc UBND tỉnh K và Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh K thực hiện thủ tục công nhận quyền sử dụng nông
nghiệp, diện tích đất 23.973,5 m
2
.
Tại phiên tòa, đại diện người khởi kiện yêu cầu HĐXX xem xét tính hợp
pháp quyết định 62/QĐ-UB ngày 17/01/1997 và Kết luận thanh tra số 08/KL-
STNMT ngày 19/12/2022 của Giám đốc Sở tài nguyên và môi trường tỉnh K là
quyết định có liên quan trong vụ án.
* Người bị kiện
UBND tỉnh K
không đồng ý với yêu cầu của người khởi
kiện và cho rằng:
Thực hiện Chỉ thị số 245/TTg ngày 22/4/1996 của Thủ tướng
Chính phủ về Tổ chức thực hiện một số việc cấp bách trong quản lý, sử dụng đất
của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất cho thuê đất. Vì vậy, UBND
tỉnh K làm thủ tục cho các doanh nghiệp, tổ chức trong tỉnh thuê đất, trong đó có
X thuê đất. Trên cơ sở Kết luận thanh tra số 08/KL-STNMT ngày 19/12/2022 của
Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh K, UBND tỉnh K trả lời nội dung đơn kiến nghị
của ông P về việc xin nhận lại quyền sử dụng đất đối với diện tích 22.554 m
2
tại
vị trí thửa đất số 3, tờ bản đồ số 50, phường T, thành phố K, tỉnh Kon Tum là
không có cơ sở để xem xét, giải quyết. Đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của ông
P và bà N.
* Người bị kiện Giám đốc
Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh K
không
đồng ý yêu cầu của người khởi kiện và cho rằng:
Ông P cho rằng nguồn gốc đất do nhận chuyển nhượng từ ông B1 và ông
N1 nhưng không có giấy tờ hợp pháp về đất đai. Hợp đồng chuyển nhượng đều là
bản photo; không lưu trữ trong hồ sơ thuê đất của Xí nghiệp và cơ quan quản lý
đất đai.
Ông P là Chủ Xí nghiệp T2, năm 1996 có đơn xin thuê đất, được UBND
tỉnh K thực hiện thủ tục cho thuê và đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người sử
dụng đất. Năm 2008 Xí nghiệp T2 giải thể, bị thu hồi giấy chứng nhận kinh doanh,
do đó theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật Đất đai năm 2003, điểm a khoản 1
Điều 65 Luật Đất đai năm 2013, phải trả lại đất đã thuê cho Nhà nước. Vì vậy, đề
nghị bác đơn khởi kiện của người khởi kiện.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2024/HC-ST ngày 05 tháng 3
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đã quyết định:
Căn cứ khoản 2 Điều 3; Điều 30; Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 116; điểm
b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ các Điều 20, 27, 28, 29, 30, 31 Luật khiếu nại năm 2011.
Căn cứ khoản 1 Điều 2; Điều 21, Điều 27 và Điều 73 Luật đất đai năm
1993; Mục 2, Chỉ thị số 245/TTg ngày 22/4/1996 của Thủ tướng Chính phủ về Tổ
4
chức thực hiện một số việc cấp bách trong quản lý, sử dụng đất của các tổ chức
trong nước được Nhà nước giao đất cho thuê đất; Pháp lệnh về quyền và nghĩa
vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất ngày
25/10/1994.
Chấp nhận đơn khởi kiện, hủy Quyết định hành chính số 311/QĐ-STNMT
ngày 05/7/2023 của Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K; hủy Văn bản
số 354/UBND-NNTN ngày 13/02/2023 của UBND tỉnh K về việc trả lời đơn kiến
nghị của ông Hồ Đắc Công P.
Buộc cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục quyền sử dụng đất nông
nghiệp cho ông Hồ Đắc Công P đối với diện tích 22.554m
2
, tại thửa số 03, tờ bản
đồ số 50, địa chỉ: Tổ C, phường T, thành phố K, tỉnh Kon Tum theo quy định của
pháp luật.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
kháng cáo.
Ngày 12/3/2024 và 13/3/2024, người bị kiện là Giám đốc Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh K và Ủy ban nhân dân tỉnh K kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm.
Ngày 18/3/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum kháng
nghị với nội dung sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận đơn
khởi kiện của ông P.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng, về phần thủ
tục tố tụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm đảm bảo đúng quy định pháp luật. Kháng
cáo của người bị kiện và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Kon Tum là có cơ sở để được chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản
3 Điều 241 Luật tố tụng hành chính, hủy Bản án hành chính sơ thẩm số
02/2024/HC-ST ngày 05/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum chuyển hồ
sơ để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của
đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử xét thấy;
[1] Về thủ tục tố tụng:
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum, Đơn
kháng cáo của người bị kiện là Ủy ban nhân dân tỉnh K, Giám đốc Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh K đúng thủ tục và trong thời hạn nên được xem xét theo thủ
tục phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung kháng cáo, kháng nghị
5
[2.1] Người khỏi kiện ông Hồ Đắc Công P cho rằng nguồn gốc diện tích
22.554m
2
đất, tại thửa số 03, tờ bản đồ số 50, địa chỉ: Tổ C, phường T, thành phố
K, tỉnh Kon Tum là do năm 1995 ông nhận chuyển nhượng của ông Đoàn Văn B1
và ông Nguyễn Minh N1, năm 1996 xây dựng xưởng chế biết gỗ. Việc nhận
chuyển nhượng đã được UBND xã H chứng thực và thực hiện nghĩa vụ theo quy
định.
Phía người bị kiện Giám đốc Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh K cho rằng
quá trình giải quyết khiếu nại ông P không cung cấp được chứng cứ hợp pháp để
chứng minh về nguồn gốc đất nêu trên là do ông P nhận chuyển nhượng theo đúng
quy định nên không có cơ sở công nhận quyền sử dụng đất này cho ông P.
Tại Biên bản thẩm tra hồ sơ thuê đất của Đoàn liên ngành ngày 30/9/1996
(BL108), do UBND tỉnh K thành lập để thẩm tra hiện trạng sử dụng của Xí nghiệp
T2 do ông Hồ Đắc Công P làm chủ Xí nghiệp, nội dung Biên bản thể hiện: Diện
tích sử dụng đất 22.554m
2
; hiện trạng khu đất: Xưởng chế biến gỗ. Quá trình giải
quyết vụ án, đại diện người khởi kiện cung cấp một bản gốc Giấy chuyển quyền
sử dụng đất giữa ông Đoàn Văn B1 và ông Hồ Đắc Công P, diện tích 14.550m
2
và có sơ đồ, vị trí, kích thước thửa đất, được UBND xã H chứng thực ngày
19/10/1995.
Sau khi xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum tiến hành
xác minh và cung cấp hai bản photo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông P với ông B1 diện tích 14.550 m
2
với ông N1 8000m
2
, có xác nhận của
người chuyển nhượng, cơ quan địa chính, cơ quan thuế, UBND xã H và UBND
thị xã K. Tại phiên toà phúc thẩm phía người khởi kiện cung cấp thêm các tài liệu
mới về nhân thân người chuyển nhượng, lời trình bày của con của ông N1 có liên
quan đến nguồn gốc và việc chuyển nhượng đất giữa ông P bà N với người chuyển
nhượng.
[2.2] Như vậy, với các tài liệu chứng cứ trên thì trước khi UBND tỉnh K
ban hành Quyết định 62/QĐ-UB để thu hồi và cho Xí nghiệp T2 thuê đất thì ông
P có tiến hành việc nhận chuyển nhượng đất và đã quản lý và sử dụng diện tích
đất nêu trên. Do đó cần phải xác minh làm rõ để đánh giá tính có căn cứ và hợp
pháp về nguồn gốc, quá trình quản lý, sử dụng, việc chuyển nhượng các thửa đất
cũng như quyền, nghĩa vụ của những người có liên quan. Tuy nhiên nội dung này
chưa được xác minh, làm rõ đầy đủ ở cấp sơ thẩm.
UBND xã H (cũ) nay là phường T là cơ quan có trách nhiệm quản lý, theo
dõi đất đai tại địa phương và trực tiếp xác nhận vào Giấy chuyển quyền sử dụng
đất giữa ông Đoàn Văn B1 và ông Hồ Đắc Công P, những người đã chuyển
nhượng đất cho bà N, ông P (hoặc người kế thừa quyền và nghĩa vụ của họ) là
những người liên quan trực tiếp đến vụ án nên cần phải đưa họ vào tham gia tố
tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để tiến hành
xác minh, lấy ý kiến, lời khai của họ về nguồn gốc, thực tế quá trình quản lý sử
dụng đất, nội dung chuyển nhượng đất giữa các bên, các giấy tờ, tài liệu có liên
quan kèm theo mà họ có thể cung cấp, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên
6
khi giải quyết vụ án. Để làm rõ nội dung vụ án cũng cần phải xác minh, lấy lời
khai của người đã trực tiếp xác nhận vào các hợp đồng chuyển nhượng, những hộ
dân xung quanh hoặc những người sử dụng đất liền kề với diện tích đất mà ông
P, bà N đang khởi kiện về các nội dung trên.
Từ những nhận định trên, xét thấy để vụ án được giải quyết khách quan,
toàn diện, đúng pháp luật cần phải đưa đầy đủ những người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ và chứng minh đầy đủ các vấn
đề quan trọng nêu trên nhưng tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung ngay được
nên HĐXX chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Kon Tum, chấp nhận một phần kháng cáo của người bị kiện là Ủy ban nhân dân
tỉnh K, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K, hủy án sơ thẩm để giải
quyết lại vụ án đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
[3] Về án phí phúc thẩm: do kháng cáo được xem xét, Bản án sơ thẩm bị
hủy nên những người kháng cáo không phải chịu án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 241 Luật tố tụng hành chính; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án;
1. Huỷ Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2024/HC-ST ngày 05 tháng 3 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum
và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân tỉnh Kon Tum để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: Ủy ban nhân dân tỉnh K và Giám đốc Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh K không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm và
được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng lần
lượt theo biên lai thu số 0000016 ngày 14/3/2024 và biên lai số 0000018 ngày
18/3/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Kon Tum;
- VKSND tỉnh Kon Tum;
- Cục THADS tỉnh Kon Tum;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Phạm Văn Hợp
Tải về
Bản án số 344/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 344/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm