Bản án số 34/2025/HC-PT ngày 17/01/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 34/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 34/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 34/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 34/2025/HC-PT ngày 17/01/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 34/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bác kháng cáo của ông Nguyễn Thanh C và giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm 114/2024/HC-ST ngày 09 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 34/2025/HC-PT
Ngày: 17/01/2025
V/v “Khiếu kiện quyết định hành
chính trong lĩnh vực đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Bà Đặng Thị Thơm;
Các Thẩm phán:
Ông Điều Văn Hằng;
Ông Nguyễn Phan Nam.
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Minh Tùng, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Bà Hoàng Thị Hải
- Kiểm sát viên cao cấp tham gia phiên tòa.
Ngày 17 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số
673/2024/TLPT-HC ngày 05 tháng 12 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực đất đai”, do Bản án hành chính sơ thẩm số
114/2024/HC-ST ngày 09 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải
Phòng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 110/2025/QĐ-PT ngày
02 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Nguyễn Thanh C, sinh năm 1960; nơi ĐKHKTT:
Số A đường TB, phường MK, quận HB, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện tại: Số
B LT, tổ dân phố số C, phường ĐG, quận NQ, thành phố Hải Phòng. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Anh Nguyễn Đăng Đ, sinh năm 2002; địa chỉ: Tổ
dân phố Hạ D, phường TT, quận BTL, thành phố Hà Nội. Có mặt.
2. Người bị kiện:
2.1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận HB, thành phố Hải Phòng.
2.2. Uỷ ban nhân dân quận HB, thành phố Hải Phòng.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Đức H – Phó Chủ tịch. Vng mặt,
có đơn xin xét xử vng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
+ Ông Phạm Văn K – Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường quận HB.
2
Vng mặt.
+ Ông Nguyễn Văn T – Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất quận HB.
Vng mặt.
+ Ông Mai Xuân H1 – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường MK. Vng mặt.
+ Ông Nguyễn Tuấn K1 – Chuyên viên phòng Tài nguyên và Môi trường
quận HB. Vng mặt.
+ Bà Đoàn Thị K2 – Công chức địa chính phường MK. Vng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1963; nơi cư trú: Số A đường TB,
phường MK, quận HB, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện tại: Số B LT, tổ dân
phố số C, phường ĐG, quận NQ, thành phố Hải Phòng. Vng mặt, có đơn xin
xét xử vng mặt.
3.2. Anh Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1994 và chị Võ Thanh H2, sinh năm
1994; nơi ĐKHKTT: Số A đường TB, phường MK, quận HB, thành phố Hải
Phòng; nơi ở hiện tại: Số E đường PBC, phường PBC, quận HB, thành phố Hải
Phòng. Anh A có mặt, chị H2 vng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của chị Võ Thanh H2: Anh Nguyễn Hoàng A.
3.3. Anh Nguyễn Hoàng L, sinh năm 1987 và chị Phạm Thị H1, sinh năm
1990; nơi ĐKHKTT: Số A đường TB, phường MK, quận HB, thành phố Hải
Phòng; nơi ở hiện tại: Số B LT, tổ dân phố số C, phường ĐG, quận NQ, thành
phố Hải Phòng. Vng mặt, có đơn xin xét xử vng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị N, anh Nguyễn Hoàng L,
chị Phạm Thị H1: Ông Nguyễn Thanh C (người khởi kiện).
4. Người kháng cáo: Người khởi kiện là ông Nguyễn Thanh C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/3/2024 và quá trình giải quyết vụ án, người
khởi kiện là ông Nguyễn Thanh C trình bày:
Năm 1986, gia đình ông Nguyễn Thanh C, bà Nguyễn Thị N được Xí nghiệp
vận tải đường sông thanh lý cho 01 gian nhà diện tích 16,5m
2
đất. Quá trình sử
dụng, gia đình ông bà đã bỏ công sức để tôn tạo và xây dựng thêm được 7m
2
đất,
tổng cộng là hơn 24m
2
đất để cho cả gia đình sinh sống. Sau khi nhận chuyển
nhượng, gia đình ông C sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp với ai, hàng năm
ông C đã đóng thuế đất đầy đủ cho diện tích 24m
2
đất. Trên diện tích 24m
2
đất có
tất cả 03 hộ cùng sinh sống là hộ ông Nguyễn Thanh C, hộ anh Nguyễn Hoàng L,
hộ anh Nguyễn Hoàng A (đều là các con của ông C).
Quá trình sử dụng đất, cùng ngày 16/11/2022, UBND quận HB ban hành
Quyết định thu hồi đất số 1505/QĐ-UBND và Quyết định số 1540/QĐ-UBND về
việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Theo đó gia
đình ông bị thu hồi diện tích 24,7m
2
đất tại thửa số 19, trích lục địa chính số
3
297/2022-TL ngày 15/4/2022 do Trung tâm Kỹ thuật – Dữ liệu, thông tin Tài
nguyên và Môi trường lập. Tại Quyết định thu hồi và phương án bồi thường trên,
UBND quận HB phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho gia đình ông C số
tiền 1.479.224.000 đồng và trừ 515.250.000 đồng, hỗ trợ 01 lô tái định cư.
Ông C không đồng ý với quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất của UBND quận HB nên ông đã làm đơn
khiếu nại. Ngày 07/4/2023, Chủ tịch UBND quận HB đã có Quyết định số
752/QĐ-CT về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của ông Nguyễn Thanh C. Tuy
nhiên, ông C vẫn không đồng ý với quyết định trên nên đã làm đơn khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết:
- Huỷ Quyết định số 752/QĐ-CT ngày 07/4/2023 của Chủ tịch UBND quận HB;
- Đối với Phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng của UBND
quận HB về việc thu hồi diện tích đất của ông Nguyễn Thanh C:
+ Hủy phần trừ tiền sử dụng đất 515.250.000 đồng theo Phương án bồi
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thực hiện dự án chỉnh trang sông TB, đoạn từ
cầu LL đến cầu HVT, quận HB đối với hộ ông Nguyễn Thanh C;
+ Bổ sung thêm 02 lô tái định cư, gồm 01 lô chính cho ông Nguyễn Thanh
C, 01 lô phụ cho hộ anh Nguyễn Hoàng L.
Người bị kiện là Chủ tịch UBND và UBND quận HB (do người đại diện)
trình bày:
Về nguồn gốc sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Thanh C do UBND phường
MK lập như sau:
“Ngày 18/6/1989, Xí nghiệp vận tải đường Sông bán thanh lý gian nhà cho
ông Nguyễn Bạch T1 theo Quyết định số 10 diện tích 16,5m
2
. Sau khi ông T1 và
vợ chết, ngày 8/11/2006, các con của vợ chồng ông T1 đã có biên bản họp gia
đình thống nhất để cho vợ chồng ông Nguyễn Thanh C được toàn quyền sử dụng
căn nhà trên (được UBND phường MK chứng thực).
Căn cứ theo kết quả đo đạc tại Trích lục địa chính số 297/2022-TL ngày
15/4/2022 của Trung tâm Kỹ thuật - Dữ liệu, thông tin Tài nguyên và Môi trường
lập, tổng diện tích các thửa đất do hộ ông C quản lý sử dụng là 24,7 m
2
. Diện tích
tăng 8,2 m
2
so Quyết định thanh lý ông T1 gồm 6,7m
2
lấn chiếm đất khuôn viên
khu tập thể thời gian từ trước 15/10/1993 và 1,5m
2
lấn chiếm sau 15/10/1993 đến
trước 1999”.
Căn cứ theo báo cáo nguồn gốc sử dụng đất nêu trên và căn cứ theo các
giấy tờ sử dụng đất; hồ sơ địa chính phường MK và Trích lục địa chính số
297/2022/TL ngày 15/4/2022 của Trung tâm Kỹ thuật, Dữ liệu – Thông tin Tài
nguyên và Môi trường lập, UBND quận đã thẩm định nguồn gốc sử dụng đất đối
với hộ ông Nguyễn Thanh C, cụ thể:
Diện tích thu hồi của hộ ông Nguyễn Thanh C là 24,7m
2
gồm:
+ 16,5m
2
được giao trái thẩm quyền năm 1989;
4
+ 6,7m
2
lấn chiếm sử dụng trước ngày 15/10/1993;
+ 1,5m
2
lấn chiếm sử dụng từ sau ngày 15/10/1993 đến trước năm 1999.
Việc tính toán bồi thường, hỗ trợ về đất:
Căn cứ Điều 75 Luật Đất đai năm 2013, diện tích 24,7m
2
đất thu hồi của hộ
ông Nguyễn Thanh C sử dụng ổn định, đủ điều kiện bồi thường về đất.
Căn cứ khoản 3 Điều 11 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ
sung bởi khoản 1 Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP quy định:
“3. Đất có nguồn gốc được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 01
tháng 7 năm 2004 nhưng không có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền để được sử
dụng đất đối với diện tích đất được giao thì người đang sử dụng đất được bồi
thường về đất đối với diện tích và loại đất được giao nhưng phải trừ đi số tiền sử
dụng đất phải nộp (nếu có) theo quy định của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất
khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.”
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định:
“c) Trường hợp sử dụng đất có nhà ở ổn định trước ngày 01 tháng 7 năm
2004 và không có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất, khi được
cấp Giấy chứng nhận thì thu tiền sử dụng đất như sau:
Trường hợp đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm
1993 thì thu tiền sử dụng đất bằng 40% tiền sử dụng đất theo giá đất ở đối với
phần diện tích đất trong hạn mức giao đất ở tại địa phương theo giá đất quy định
tại Bảng giá đất tại thời điểm có quyết định công nhận quyền sử dụng đất của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền; bằng 100% tiền sử dụng đất theo giá đất ở đối với
phần diện tích vượt hạn mức giao đất ở (nếu có) theo giá đất quy định tại Điểm
b, Điểm c Khoản 3 Điều 3 Nghị định này tại thời điểm có quyết định công nhận
quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”
Căn cứ khoản 2 Điều 6 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định:
“2. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất để ở mà tại thời điểm bắt đầu sử dụng
đất đã có một trong các hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 22 Nghị định của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, nhưng nay nếu
được Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở thì phải nộp 50% tiền sử dụng
đất đối với diện tích đất trong hạn mức công nhận đất ở theo giá đất quy định tại
Bảng giá đất; nộp 100% tiền sử dụng đất đối với diện tích đất vượt hạn mức công
nhận đất ở theo giá đất quy định tại Điểm b, Điểm c Khoản 3 Điều 3 Nghị định
này tại thời điểm có quyết định công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.”
Căn cứ khoản 2 Điều 7 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định:
“2. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở mà tại thời điểm bắt đầu sử dụng
đất đã có một trong các hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 22 Nghị định của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai nhưng nay nếu
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở thì phải nộp 100% tiền sử dụng
5
đất theo giá đất quy định tại Bảng giá đất đối với phần diện tích đất trong hạn
mức giao đất ở; đối với phần diện tích vượt hạn mức giao đất ở (nếu có), phải
nộp 100% tiền sử dụng đất theo giá đất quy định tại Điểm b, Điểm c Khoản 3
Điều 3 Nghị định này tại thời điểm có quyết định công nhận quyền sử dụng đất
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”
Trên cơ sở hồ sơ có liên quan và đối chiếu các quy định của pháp luật (như
nêu trên), UBND quận HB đã lập và phê duyệt phương án bồi thường, theo đó
khấu trừ tiền sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Thanh C. Việc yêu cầu không khấu
trừ tiền sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Thanh C là không có cơ sở để thực hiện.
Việc xét giao đất ở tái định cư:
Các căn cứ để thẩm định điều kiện giao đất tái định cư đối với hộ ông
Nguyễn Thanh C tại Số A đường TB, phường MK:
- Biên bản cuộc họp số 01/BB-UBND ngày 22/6/2022 của UBND phường
MK xác định hộ ông Nguyễn Thanh C có người ăn ở thực tế và không có chỗ ở
khác trên địa bàn phường, đề nghị xét tái định cư;
- Biểu mẫu điều tra nhân khẩu, hộ khẩu do Công an phường MK lập, xác
định hộ ông Nguyễn Thanh C có 05 nhân khẩu đăng ký thường trú tại địa chỉ thu
hồi đất, tuy nhiên chỉ có 03 nhân khẩu ăn ở thực tế tại địa chỉ trên là anh Nguyễn
Hoàng A, chị Võ Thanh H2 (vợ anh Nguyễn Hoàng A) và Nguyễn Tú L1 (con
anh Nguyễn Hoàng A). Các nhân khẩu khác không ăn ở thực tế; Hộ anh Nguyễn
Hoàng L (con trai ông C) có 04 nhân khẩu thường trú tại số A đường TB (tách hộ
cùng số nhà) tuy nhiên các nhân khẩu trên không ăn ở thực tế tại địa chỉ trên.
- Theo Biên bản thẩm định điều kiện giao đất ngày 29/3/2023 của Phòng
Tài nguyên và Môi trường có sự tham gia của UBND, Ủy ban Mặt trận tổ quốc
phường, Công an phường, Tổ dân phố và 11 hộ dân sinh sống tại khu vực, xác
định hộ ông Nguyễn Thanh C chỉ có 03 nhân khẩu ăn ở thực tế tại địa điểm thu
hồi đất là anh Nguyễn Hoàng A, chị Võ Thanh H2 (vợ anh Nguyễn Hoàng A) và
Nguyễn Tú L1 (con anh Nguyễn Hoàng A). Các nhân khẩu khác có đăng ký
thường trú nhưng không ăn ở thực tế tại địa điểm thu hồi đất.
Căn cứ theo các quy định của pháp luật và các hồ sơ liên quan kể trên,
UBND quận HB ban hành Quyết định số 1540/QĐ-UBND ngày 16/11/2022 về
việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với 37 hộ dân,
trong đó có hộ ông Nguyễn Thanh C. Theo đó, UBND quận phê duyệt tái định cư
cho hộ anh Nguyễn Hoàng A (con trai ông C) 01 lô đất ở tại khu Tái định cư KT,
phường SD theo đúng quy định của pháp luật. Ông C đề nghị giao bổ sung 02 lô
đất ở tái định cư (cho hộ phụ) cho vợ chồng ông C và vợ chồng con ông C (anh
Nguyễn Hoàng L). Tuy nhiên các cặp vợ chồng ông C và con ông C không ăn ở
thực tế, không phải di chuyển chỗ ở.
Từ những phân tích trên, đề nghị Toà án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
ông Nguyễn Thanh C.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ủy quyền cho ông Nguyễn Thanh C và
6
đều trình bày thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh C.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 114/2024/HC-ST ngày 09 tháng 9 năm
2024, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 30; Điều 32; Điều 79; Điều 115; Điều 116; điểm b
khoản 2 Điều 157; Điều 158; điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 194; khoản 1 Điều
348 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Căn cứ Điều 66; Điều 69; Điều 75; Điều 82 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Điều 9; Điều 18; Điều 21; Điều 27; Điều 28; Điều 29; Điều 30;
Điều 31; Điều 33; Điều 36; Điều 37; Điều 38; Điều 39; Điều 40 Luật Khiếu nại;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Bác toàn bộ các yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh C.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
kháng cáo cho các đương sự theo quy định pháp luật.
Ngày 17/9/2024, người khởi kiện là ông Nguyễn Thanh C kháng cáo toàn
bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
yêu cầu kháng cáo và quan điểm đã trình bày, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm
sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người
khởi kiện; người bị kiện vng mặt nhưng có đơn xin xét xử vng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội trình bày quan điểm:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã
tuân thủ đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính. Kháng cáo của ông
Nguyễn Thanh C trong thời hạn luật định và hợp lệ, được xem xét theo thủ tục
phúc thẩm.
Về nội dung: Đủ cơ sở xác định gia đình ông C bị thu hồi đất, về nguồn
gốc, quá trình sử dụng đất, đối tượng sử dụng đất thực tế, đối tượng ăn ở sinh hoạt
trên đất thực tế, căn cứ quy định pháp luật có liên quan, UBND quận HB thực
hiện đúng và đầy đủ quy định pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho người có đất bị
thu hồi. Yêu cầu khởi kiện không có cơ sở chấp nhận. Bản án sơ thẩm có căn cứ,
đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, không phát sinh tình tiết mới.
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, đề nghị Hội đồng xét xử bác
kháng cáo, giữ nguyên quyết định của bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ đã
được thẩm tra công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định như sau:
[1] Về tố tụng:
7
[1.1] Về thủ tục kháng cáo: Ngày 17/9/2024, Tòa án cấp sơ thẩm nhận đơn
kháng cáo ông Nguyễn Thanh C kháng cáo toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm
số 114/2024/HC-ST ngày 09 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố
Hải Phòng; ông Nguyễn Thanh C thuộc trường hợp miễn án phí do người cao tuổi
có đơn xin miễn tạm ứng án phí phúc thẩm. Căn cứ Điều 206 Luật Tố tụng hành
chính năm 2015; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kháng cáo của ông Nguyễn Thanh C được xem
xét theo quy định của pháp luật.
[1.2] Về sự có mặt của đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện là
Chủ tịch và UBND quận HB vng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vng mặt;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị N vng mặt nhưng có
đơn xin xét xử vng mặt; chị Võ Thanh H2, anh Nguyễn Hoàng L, chị Phạm Thị
H1 vng mặt nhưng có mặt người đại diện theo ủy quyền và cũng đã có đơn xin
xét xử vng mặt; xét việc vng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét kháng
cáo của người khởi kiện, căn cứ quy định tại Điều 225 Luật Tố tụng hành chính
2015, Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành xét xử vụ án.
[1.3] Về thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Thanh C yêu
cầu Toà án huỷ Quyết định số 752/QĐ-CT ngày 07/4/2023 của Chủ tịch UBND
quận HB về việc giải quyết khiếu nại của hộ ông Nguyễn Thanh C (lần đầu); yêu
cầu hủy phần trừ tiền 515.250.000 đồng theo Phương án bồi thường hỗ trợ giải
phóng mặt bằng của UBND quận HB và đề nghị cấp 02 lô đất tái định cư. Yêu
cầu khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại khoản 1 Điều
30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 nên Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền quy định tại Điều 32 Luật Tố tụng
hành chính năm 2015.
Tòa án cấp sơ thẩm đồng thời xem xét các Quyết định hành chính có liên
quan là Quyết định thu hồi đất số 1505/QĐ-UBND và Quyết định số 1540/QĐ-
UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng cùng
ngày 16/11/2022 của UBND quận HB là phù hợp quy định tại Điều 6 Luật Tố
tụng hành chính năm 2015.
[1.4] Về thời hiệu giải quyết vụ án: Ngày 07/4/2023, Chủ tịch UBND quận
HB ban hành Quyết định số 752/QĐ-CT về việc giải quyết khiếu nại của hộ ông
Nguyễn Thanh C (lần đầu). Ngày 27/3/2024, ông Nguyễn Thanh C làm đơn khởi
kiện tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng. Do vậy, căn cứ điểm a khoản 3 Điều
116 Luật Tố tụng hành chính, việc khởi kiện vụ án trên còn thời hiệu khởi kiện.
[2] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Thanh C:
[2.1] Về trình tự, thẩm quyền ban hành các quyết định hành chính:
- Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu của UBND quận HB: Sau khi nhận được đơn khiếu nại của ông C, Chủ tịch
UBND quận HB đã thụ lý giải quyết khiếu nại và ban hành quyết định giao nhiệm
vụ xác minh nội dung khiếu nại và đã tiến hành tổ chức đối thoại giải quyết đơn
của ông C nhưng ông C không đồng ý. Ngày 07/4/2023, Chủ tịch UBND quận HB
8
ban hành Quyết định số 752/QĐ-CT về việc giải quyết khiếu nại lần đầu đối đơn
khiếu nại của ông Nguyễn Thanh C. Căn cứ Điều 18, Điều 27, Điều 28, Điều 29,
Điều 30, Điều 31 Luật khiếu nại, Chủ tịch UBND quận HB ban hành Quyết định
số 752/QĐ-CT là đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền.
Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành các quyết định thu hồi đất, phê
duyệt phương án bồi thường: Căn cứ Điều 66, Điều 69, Điều 71 Luật Đất đai
2013, UBND quận HB ban hành Quyết định số 1505/QĐ-UBND ngày 16/11/2022
về việc thu hồi đất, Quyết định số 1540/QĐ-UBND ngày 16/11/2022 về việc phê
duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất ngày 20/10/2022
thực hiện Dự án chỉnh trang sông TB, đoạn từ cầu LL đến cầu HVT, phường MK,
quận HB là đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền.
[2.2] Về nội dung các quyết định hành chính:
[2.2.1] Xét yêu cầu hủy phần tiền bị trừ tương ứng 515.250.000 theo Quyết
định số 1505/QĐ-UBND của UBND quận HB:
- Về nguồn gốc sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Thanh C:
Căn cứ kết quả đo đạc tại Trích lục địa chính số 297/2022-TL ngày
15/4/2022 của Trung tâm Kỹ thuật - Dữ liệu, thông tin Tài nguyên và Môi trường
lập, tổng diện tích các thửa đất do hộ ông C quản lý sử dụng là 24,7m
2
. Trong đó,
phần diện tích 16,5m² là gian nhà được ông Nguyễn Bạch T1 (bố đẻ ông C) mua
lại từ Xí nghiệp vận tải đường Sông vào ngày 18/6/1989 theo Quyết định số 10
với diện tích đất là 16,5m
2
. Sau khi ông bà T1 qua đời, gia đình đã thống nhất và
có biên bản họp về việc giao lại căn nhà này cho vợ chồng ông C và được UBND
phường MK chứng thực vào năm 2006.
So với diện tích ban đầu khi mua thanh lý, hiện tại hộ ông C đang sử dụng
thêm 8,2m² đất lấn chiếm. Cụ thể, 6,7m² đất đã được lấn chiếm từ trước
15/10/1993 và 1,5m² đất được lấn chiếm sau 15/10/1993 đến trước 1999. Trong
quá trình sử dụng thửa đất, ông C có nộp thuế đất hàng năm. Tuy nhiên, thông tin
kê khai thuế là do người sử dụng đất tự kê khai và việc ông C nộp thuế đất không
phải là căn cứ để công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của người nộp đối với
đất được xác định là lấn chiếm theo quy định tại khoản 7 Điều 7 Luật Thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp năm 2010. Do đó, việc UBND quận HB xác định nguồn
gốc, loại đất là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.
Căn cứ Quyết định số 1505/QĐ-UBND ngày 16/11/2022 về việc thu hồi
24,7m
2
đất tại thửa đất số 19, trích lục địa chính số 297/2022-TL ngày 15/4/2022 do
Trung tâm Kỹ thuật – Dữ liệu, thông tin Tài nguyên và Môi trường lập; tại địa chỉ:
Số A đường TB, phường MK, quận HB, thành phố Hải Phòng và Quyết định số
1540/QĐ-UBND ngày 16/11/2022 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư đối với 37 hộ dân, trong đó có hộ ông Nguyễn Thanh C do UBND
quận HB ban hành. Theo đó, ông C được bồi thường, hỗ trợ 1.479.224.332 đồng (sau
khi trừ số tiền sử dụng đất bị trừ tương ứng 515.250.000 đồng). UBND quận phê
duyệt tái định cư cho hộ anh Nguyễn Hoàng A (con trai ông C) 01 lô đất ở tại khu
Tái định cư KT, phường SD với diện tích 54m
2
. Gia đình ông C đã nhận số tiền
9
1.479.224.000 đồng và bàn giao mặt bằng cho UBND quận HB theo quy định.
- Đối với diện tích 16,5m
2
đất: Về thẩm quyền giao đất, Xí nghiệp Vận tải
đường sông (thuộc Sở Giao thông vận tải HP) chỉ có quyền thanh lý nhà ở, không
có thẩm quyền giao đất theo Điều 13 Luật Đất đai 1987. Vì vậy, việc bán thanh
lý nhà cho cán bộ, công nhân không thuộc các trường hợp được chuyển quyền sử
dụng đất theo Điều 16 của Luật này. Do đó, diện tích 16,5m
2
đất của hộ ông C
được xác định là trường hợp giao đất không đúng thẩm quyền theo Điều 23 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP. Mặt khác, ông C không có hóa đơn, giấy tờ chứng minh
đã thực hiện nghĩa vụ tài chính về nhà đất. Các giấy tờ phân phối, thanh lý bán
nhà của Xí nghiệp không hợp lệ theo quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 và
Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP. Về quyền lợi bồi thường, do hộ ông C đã
sử dụng đất ổn định và đóng thuế phi nông nghiệp trước ngày 15/10/1993, nên
UBND quận xác định đủ điều kiện bồi thường về đất nhưng phải trừ đi số tiền sử
dụng đất phải nộp là đảm bảo theo quy định tại khoản 3 Điều 11 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ (sửa đổi bởi khoản 1 Điều 4 Nghị
định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ). Việc UBND quận HB
tính toán số tiền sử dụng đất bị trừ là 6,5 m
2
x 45.000.000 đồng x 40% =
297.000.000 đồng là đúng theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Nghị định số
45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất.
- Đối với diện tích 6,7m² đất mà hộ gia đình đã lấn chiếm và sử dụng ổn
định trước ngày 15/10/1993, theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 47/2014/NĐ-
CP, hộ gia đình đủ điều kiện được bồi thường. Tuy nhiên, số tiền bồi thường sẽ
bị trừ đi khoản tiền nghĩa vụ tài chính về sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Cụ thể, UBND quận HB đã tính toán số tiền sử dụng đất phải trừ là 6,7m
2
x
45.000.000 đồng x 50% =150.750.000 đồng. Cách tính này hoàn toàn phù hợp
với quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP.
- Đối với 1,5m² đất mà hộ gia đình đã lấn chiếm và sử dụng ổn định trước
năm 1999, theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, hộ gia đình
đủ điều kiện được bồi thường. Tuy nhiên, số tiền bồi thường sẽ bị trừ đi khoản
tiền nghĩa vụ tài chính về thu tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Cụ
thể, UBND quận HB đã tính toán số tiền phải trừ là 1,5m² x 45.000.000 đồng x
100% = 67.500.000 đồng. Cách tính này hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản
2 Điều 7 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP.
Do đó, yêu cầu của ông C về việc trừ tiền sử dụng đất 515.250.000 đồng là
không có cơ sở.
[2.2.2] Xét việc giao đất tái định cư:
Căn cứ hồ sơ, tài liệu thu thập được cho thấy tại thời điểm thu hồi đất, hộ
ông Nguyễn Thanh C có 05 nhân khẩu đăng ký thường trú tại địa chỉ thu hồi đất,
tuy nhiên chỉ có 03 nhân khẩu ăn ở thực tế tại địa chỉ trên là anh Nguyễn Hoàng
10
A (con ông C), bà Võ Thanh H2 (vợ ông Nguyễn Hoàng A) và Nguyễn Tú L1
(con Nguyễn Hoàng A). Hộ anh A (con ông C) không còn đất ở, nhà ở khác trên
địa bàn phường MK nên đủ điều kiện được cấp đất tái định cư theo quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 79 Luật Đất đai năm 2013, điểm a khoản 1 Điều 6 Nghị
định số 47/2014/NĐ-CP. Ngoài ra, tại Công văn số 129/UBND ngày 12/4/2023
của UBND phường ĐG, quận NQ, xác định: “Ông Nguyễn Thanh C, vợ là bà
Nguyễn Thị N cùng gia đình con trai là Nguyễn Hoàng L hiện đang ăn ở sinh
hoạt tại nhà Số B LT, thuộc tổ dân phố số C, phường ĐG, quận NQ” mà không
ăn ở thực tế tại địa chỉ đăng ký thường trú nên hộ gia đình ông C không thuộc
trường hợp "trong hộ có nhiều thế hệ nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên
một thửa đất ở thu hồi nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng
theo quy định của pháp luật về cư trú" và không thuộc trường hợp "có nhiều hộ
gia đình có chung quyền sử dụng một thửa đất ở" nên không đủ điều kiện được
xét cấp đất tái định cư (hộ phụ) theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP.
Vì vậy, việc UBND quận HB chỉ cấp 01 suất đất tái định cư cho hộ anh
Nguyễn Hoàng A (là con trai ông Nguyễn Thanh C) là người ăn ở thực tế trên đất
tại thời điểm thu hồi đất theo Quyết định số 2086/QĐ-UBND ngày 09/11/2023
(BL 191) là đúng quy định.
[2.3] Về yêu cầu hủy Quyết định số 752/QĐ-CT ngày 07/4/2023 của Chủ
tịch UBND quận HB về việc giải quyết khiếu nại lần đầu và Phương án bồi
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng của UBND quận HB:
Từ các phân tích tại mục [2.1] và [2.2] trên, HĐXX xét thấy Quyết định số
752/QĐ-CT ngày 07/4/2023 của Chủ tịch UBND quận HB về giải quyết khiếu nại
của ông Nguyễn Thanh C lần đầu và Phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng ngày 20/10/2022 của UBND quận HB về việc thu hồi đất của ông Nguyễn
Thanh C để thực hiện dự án chỉnh trang sông TB được ban hành đúng thẩm quyền
và trình tự, thủ tục; nội dung các quyết định đều phù hợp quy định của pháp luật
nên không có căn cứ pháp lý để chấp nhận yêu cầu huỷ các quyết định nêu trên
của người khởi kiện. Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
C là có cơ sở.
[2.4] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Thanh C không xuất trình tài liệu,
chứng cứ mới nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông C.
[3] Về án phí: Mặc dù kháng cáo của ông Nguyễn Thanh C không được
chấp nhận nhưng do ông C là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên Hội
đồng xét xử phúc thẩm miễn án phí hành chính phúc thẩm cho ông.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính; điểm đ khoản 1 Điều

11
12, khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Bác kháng cáo của ông Nguyễn Thanh C và giữ nguyên quyết định của
Bản án hành chính sơ thẩm 114/2024/HC-ST ngày 09 tháng 9 năm 2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Hải Phòng.
2. Về án phí: Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho ông Nguyễn Thanh C.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND thành phố Hải Phòng;
- VKSND thành phố Hải Phòng;
- Cục THADS thành phố Hải Phòng;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu HS, P.HCTP.TANDCC tại Hà Nội.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Đặng Thị Thơm
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Bản án số 103/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm