Bản án số 338/2022/HS-ST ngày 21/12/2022 của TAND TP. Thuận An, tỉnh Bình Dương về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 338/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 338/2022/HS-ST ngày 21/12/2022 của TAND TP. Thuận An, tỉnh Bình Dương về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Thuận An (TAND tỉnh Bình Dương)
Số hiệu: 338/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/12/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 338/2022/HS-ST NGÀY 21/12/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 21 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 317/2022/HSST ngày 25 tháng 10 năm 2022 về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 328/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 102/2022/QĐST-HS ngày 28 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Mạnh T, sinh năm 1994 tại tỉnh Bắc Giang; nơi thường trú: Thôn TV, xã TD, huyện LG, tỉnh BG; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: Lớp 09/12; nghề nghiệp: Phụ xe; con ông Trần Văn N, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1974; chưa vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Quyết định số 206/QĐ-XPHC ngày 24/10/2019 của Công an huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt hành chính 750.000 đồng về hành vi cố ý gây thương tích. Nhân thân: Bản án số 58/2022/HS-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt 10 (Mười) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Vĩnh Quang thuộc Bộ Công an; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị Diễm P, sinh năm 1993; nơi cư trú: Ấp 7X, xã ĐH, huyện AM, tỉnh KG (đã chết).

Đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Bà Võ Thị Bích T, sinh năm 1968; địa chỉ: Ấp BA, xã AH, huyện CT, tỉnh AG. AG.

2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1965; địa chỉ: Ấp BA, xã AH, huyện CT, tỉnh KG.

3. Ông Đinh Văn V, sinh năm 1984; nơi cư trú: Ấp 7X, xã ĐH, huyện AM, tỉnh Người đại diện hợp pháp của bà T, ông T và ông V: Ông Nguyễn Hoàng N, sinh năm 1996; địa chỉ: Ấp BA, xã AH, huyện CT, tỉnh AG; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Công ty cổ phần vận tải ĐBQ; địa chỉ: Số 23, Đường số 1, khu dân cư BĐ, khu phố BĐ, phường AB, thành phố DA, tỉnh BD.

Người đại diện hợp pháp: Ông Cao Văn B, sinh năm 1977; chức vụ: Phó Giám đốc Công ty cổ phần vận tải ĐBQ (Giấy ủy quyền ngày 30/9/2021); đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bà Ngô Thị Thanh D, sinh năm 1977; nơi cư trú: Ấp HT, xã ĐT, huyện TS, tỉnh AG; vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Cao Văn T2, sinh năm 1989; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Trần Mạnh T không có giấy phép lái xe theo quy định. Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 28/9/2021, bị cáo T điều khiển xe ôtô đầu kéo biển số 61C - X kéo theo rơ mooc biển số 61R-X lưu thông trên đường ĐT743B hướng từ ngã tư Nguyễn Du đi ngã sáu An Phú. Khi đến đoạn đường thuộc khu phố 2, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, bị cáo T không chú ý quan sát, vượt xe không đảm bảo an toàn nên đã va chạm vào xe mô tô biển số 67S1-X do bà Nguyễn Thị Diễm P điều khiển chở theo con gái tên Đinh Thị TA, sinh năm 2017 đang lưu thông cùng chiều phía trước. Hậu quả: Bà Nguyễn Thị Diễm P tử vong sau cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa An Phú, cháu Đinh Thị TA không bị thương tích.

Bản kết luận giám định số 252/2021/GĐCH-PC09 ngày 22/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Dấu vết va chạm giữa xe ô tô đầu kéo biển số 61C-X kéo theo sơmi rơ-moóc biển số 61R-X và xe mô tô hai bánh biển số 67S1-X là:

+ Các dấu vết trượt mất bụi, bám dính chất màu sáng (dạng nhựa) ở đầu bu lông bánh xe bên phải trục thứ nhất xe ô tô đầu kéo biển số 61C-X có chiều từ ngoài vào trong, ngược chiều quay tiến bánh xe phù hợp với dấu vết trượt xước, hằn, vỡ, bám dính bụi ở ốp nhựa đèn tín hiệu rẽ trái phía sau, ốp nhựa đuôi xe và cạnh dưới tay nắm sau yên bên trái xe mô tô hai bánh biển số 67S1 - X có chiều từ sau về trước.

+ Các dấu vết trượt xước hằn lõm kim loại, mất bụi và bám dính chất màu bạc ở phía dưới mặt ngoài thùng nhiên liệu bên phải xe ô tô đầu kéo biển số 61C-X có chiều từ trước về sau, từ trên xuống dưới phù hợp với dấu vết trượt xước mất sơn màu bạc, bám dính bám bụi ở cạnh sau tay nắm sau yên xe mô tô hai bánh biển số 67S1- X có chiều từ trái qua phải, từ sau về trước khi xe môtô này đang nghiêng sang trái.

+ Dấu vết trượt xước ở mặt ngoài bánh ngoài bên phải trục sau xe ô tô đầu kéo biển số 61C-X có chiều từ mặt lăn vào trục, ngược chiều quay tiến của bánh xe phù hợp với dấu vết trượt bám dính chất màu đen ở cạnh sau tay nắm sau yên xe mô tô hai bánh biển số 67S1-X, có chiều từ phải qua trái, từ sau về trước khi xe mô tô này đã đổ ngã sang trái trên mặt đường.

- Cơ chế hình thành dấu vết va chạm giữa xe ô tô đầu kéo biển số 61C -X kéo theo sơmi rơ-moóc biển số 61R-X và xe mô tô hai bánh biển số 67S1-X là: bánh trước bên phải và thùng nhiên liệu xe ô tô đầu kéo va chạm với phần phía sau bên trái xe mô tô làm xe mô tô đổ ngã qua trái, va chạm với mặt đường tạo ra dấu vết trên phương tiện.

- Vị trí va chạm giữa xe ô tô đầu kéo biển số 61C-X kéo theo sơmi rơ-moóc biển số 61R-X và xe mô tô hai bánh biển số 67S1-X chiếu xuống mặt đường là khu vực phía trước vị trí xe mô tô ngã ký hiệu số 3 trên Sơ đồ hiện trường (theo hướng từ ngã tư Nguyễn Du về ngã sáu An Phú).

Kết luận giám định pháp y số 818/GĐPY ngày 01/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Nạn nhân bị nhiều vết sây sát da, bầm tụ máu bên ngoài; gãy xương ức, gãy nhiều xương sườn; dập rách hai phổi, vỡ nhiều tạng: tim, gan, thận; tràn máu khoang màng phổi hai bên và ổ bụng khoảng 2500ml. Nguyên nhân chết của nạn nhân Nguyễn Thị Diễm P là do: Đa chấn thương.

Cáo trạng số 309/CT-VKS.TU ngày 18/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Mạnh T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Mạnh T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Mạnh T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại để khắc phục hậu quả và được đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b và s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

- Về hình phạt: Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 260; các điểm b và s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Mạnh T từ 04 (Bốn) năm đến 05 (Năm) năm tù. Tổng hợp với hình phạt 10 (Mười) tháng tù tại Bản án số 58/2022/HS-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/4/2022.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 210.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm nên không đề nghị Hội đồng xét xử đề cập giải quyết.

- Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (Một) xe mô tô biển số 67S1-X qua điều tra xác định là của bà Ngô Thị Thùy D. Năm 2015, bà D đã bán lại xe này cho bà Nguyễn Thị Diễm P. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe cho người đại diện hợp pháp của bị hại Diễm P là có căn cứ nên không đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết.

Đối với 01 (Một) xe ô tô đầu kéo biển số 61C-X và rơ mooc biển số 61R- X thuộc sở hữu của Công ty cổ phần vận tải ĐBQ cho bị cáo Trần Mạnh T thuê lại. Bị cáo T đồng ý trả lại xe ô tô trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả lại xe cho Công ty cổ phần vận tải ĐBQ là có căn cứ nên không đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết.

Quá trình điều tra, bị cáo Trần Mạnh T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng truy tố.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bị hại ông Nguyễn Hoàng N trình bày: Bị cáo T đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền là 210.000.000 đồng. Do đó, không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quá trình điều tra, đại diện hợp pháp của Công ty cổ phần vận tải ĐBQ trình bày: Chiếc xe ô tô đầu kéo biển số 61C-X và rơ mooc biển số 61R-X thuộc sở hữu của Công ty cổ phần vận tải ĐBQ cho bị cáo Trần Mạnh T thuê lại. Sau khi xảy ra sự việc bị cáo Toàn bồi thường cho gia đình bị hại và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả lại xe. Công ty cổ phần vận tải ĐBQ đã nhận lại xe nên không yêu cầu bị cáo Toàn phải bồi thường.

Quá trình điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Ngô Thị Thùy D trình bày: Năm 2015 bà D bán chiếc xe mô tô biển số 67S1 – X cho bà Nguyễn Thị Diễm P nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Do đó, bà D không còn quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến chiếc xe.

Quá trình điều tra, người làm chứng ông Cao Văn T2 trình bày: Ông Cao Văn T2 được bị cáo Trần Mạnh T thuê lái chiếc xe ôtô đầu kéo biển số 61C-X và rơ mooc biển số 61R-X. Vào ngày 28/9/2021 ông Cao Văn T2 đi vắng, bị cáo Trần Mạnh T lấy chiếc xe ôtô trên để chở hàng thì gây tai nạn làm bà Nguyễn Thị Diễm P tử vong. Sau vụ việc đó ông Cao Văn T2 không còn lái xe thuê cho bị cáo T nữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trên địa bàn thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với các bị cáo là đúng thẩm quyền.

Bị cáo hiện đang chấp hành án tại Trại giam Vĩnh Quang và đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 290 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử xác định hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là đúng thẩm quyền và đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh và khung hình phạt: Lời khai của bị cáo Trần Mạnh T phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 28/9/2021, bị cáo Trần Mạnh T không có giấy phép lái xe theo quy định điều khiển xe ôtô đầu kéo biển số 61C-X kéo theo rơ mooc biển số 61R-X lưu thông trên đường ĐT743B hướng từ ngã tư Nguyễn Du đi ngã sáu An Phú. Khi đến đoạn đường thuộc khu phố 2, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, bị cáo không chú ý quan sát, vượt xe không đảm bảo an toàn nên đã va chạm vào xe mô tô biển số 67S1-X do bà Nguyễn Thị Diễm P điều khiển đang lưu thông cùng chiều đúng phần đường quy định. Hậu quả làm bà Nguyễn Thị Diễm P tử vong.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm đối với xã hội, thể hiện thái độ coi thường pháp luật, xâm phạm đến quyền về sức khỏe, tính mạng và tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Khi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi điều khiển phương tiện giao thông mà không có giấy phép lái xe theo quy định của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng do chủ quan, cẩu thả mà phạm tội. Do đó, hành vi của bị cáo Trần Mạnh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo Trần Mạnh T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại để khắc phục hậu quả và được đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b và s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về căn cứ quyết định hình phạt: Xét thấy bị cáo đã có tiền sự, sau khi thực hiện hành vi phạm tội này lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và đang phải chấp hành hình phạt 10 tháng tù. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có hời hạn và nghiêm khắc mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 210.000.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các điều 46 và 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thấy:

Đối với 01 (Một) xe mô tô biển số 67S1-X đứng tên bà Ngô Thị Thùy D nhưng đã bán cho bà Nguyễn Thị Diễm P. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe cho người đại diện hợp pháp của bị hại, Hội đồng xét xử thấy phù hợp pháp luật.

Đối với xe ô tô đầu kéo biển số 61C-X và rơ mooc biển số 61R-X thuộc sở hữu của Công ty cổ phần vận tải ĐBQ cho bị cáo Trần Mạnh T thuê lại. Bị cáo T đã bồi thường thiệt hại để khắc phục hậu quả và đồng ý trả lại xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả lại cho xe Công ty cổ phần vận tải ĐBQ, Hội đồng xét xử thấy phù hợp pháp luật.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phạm tội, bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào: Các điều 106, 135, 136, 268, 269, điểm c khoản 2 Điều 290; các điều 298, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 260; các điểm b và s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; các điều 46, 47 và 56 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Mạnh T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Mạnh T 04 (Bốn) năm tù. Tổng hợp với hình phạt 10 tháng tù tại Bản án số 58/2022/HS-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 04 (Bốn) năm 10 (Mười) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/4/2022.

3. Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Trần Mạnh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Đại diện hợp pháp của bị hại có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Tải về
Bản án số 338/2022/HS-ST Bản án số 338/2022/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất