Bản án số 33/2025/DS-ST ngày 17/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng dịch vụ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 33/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 33/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 33/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 33/2025/DS-ST ngày 17/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng dịch vụ |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng dịch vụ |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 3 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng |
Số hiệu: | 33/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hoàng Thị Hoàng C - Đặng Thị Tuyết N |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Q. THANH KHÊ - TP ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 33/2025/DS-ST
Ngày 17 - 6 - 2025
V/v “Tranh chấp biêu”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lê Thị Thu Ba
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Đặng Ngọc Thúy
Ông Lê Hà
- Thư ký phiên tòa: Ông Đoàn Công Hồng Lĩnh - Thư ký Tòa án nhân dân quận
Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Ngày 17 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành
phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 423/2024/TLST-DS ngày
10 tháng 12 năm 2024 về việc “Tranh chấp biêu” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
423/2025/TLST-DS ngày 12/5/2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số 423/2025/TLST-DS
ngày 29/5/2025 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị Hoàng C, sinh năm: 1989, địa chỉ: A đường K,
phường H quận L, thành phố Đà Nẵng; địa chỉ liên lạc: A D, phường H, quận C, thành
phố Đà Nẵng
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1991, địa
chỉ liên hệ: A D, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng (Theo Giấy ủy quyền ngày
17/01/2025 được công chứng tại Văn phòng C1, thành phố Đà Nẵng). Có mặt.
* Bị đơn: Bà Đặng Thị Tuyết N, sinh năm: 1993, địa chỉ: B Hồ T, phường A,
quận T, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Tạ Thị Kim T1, sinh năm: 1974,
địa chỉ: B Hồ T, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo Đơn khởi kiện, Btự khai, quá trình tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn
bà bà Hoàng Thị Hoàng C và đại diện nguyên đơn là ông Nguyễn Văn T trình bày:
Bà Hoàng Thị Hoàng C, bà Đặng Thị Tuyết N và bà Tạ Thị Kim T1 có mối quan
hệ quen biết ngoài xã hội. Bà C và bà N đã thỏa thuận về việc tham gia vào dây biêu do
bà C tổ chức. Để đảm bảo bà N có đủ tiền tham gia, bà Tạ Thị Kim T1 mẹ của bà N đã ký
mượn bà C số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) theo Giấy mượn tiền ngày
26/4/2022 và bà N đã ký mượn bà C số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) theo
Giấy mượn tiền ngày 12/4/2024.
2
Từ tháng 4/2022 đến tháng 9/2024, bà N tham gia vào dây biêu của bà C tổng
cộng 56 dây biêu, trong đó có 31 dây bưu sống và 25 dây biêu chết. Mặc dù có một vài
lần vi phạm về thời gian thanh toán, nhưng bà N vẫn cố gắng đảm bảo thanh toán đầy đủ
các khoản, qua đó tạo dựng được sự tin tưởng giữa hai bên.
Vào ngày 30/9/2024, bà N đã chia sẻ với bà C về tình hình tài chính khó khăn mà
bà đang gặp phải và nhờ bà C xem xét cho phép bà N tham gia vào chân biêu sau. Đồng
thời, bà N cũng yêu cầu được rút biêu trước và cam kết sẽ thanh toán đầy đủ số tiền khi
tới kỳ hạn đóng biêu. Trước tình hình của bà N bà C đã đồng ý và chuyển vào tài khoản
số 040107681823 tại Ngân hàng TMCP S đứng tên bà Đặng Thị Tuyết N số tiền
196.160.000đ (Một trăm chín mươi sáu triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng) cho bà N
trong các ngày từ 17/10/2024 đến 21/10/2024, cụ thể: Ngày 17/10/2024, số tiền
28.600.000đ; ngày 18/10/2024 số tiền 73.884.000đ; ngày 20/10/2024, số tiền 70.790.000đ
và ngày 21/10/2024 số tiền 22.886.000đ.
Căn cứ theo Điều 471 Bộ luât Dân sự quy định như sau:
“Điều 471. Họ, hụi, biêu, phường
1. Họ, hụi, biêu, phường (sau đây gọi chung là họ) là hình thức giao dịch về tài
sản theo tập quán trên cơ sở thỏa thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng định
ra số người, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ
của các thành viên.
2. Việc tổ chức họ nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân được thực hiện theo
quy định của pháp luật.
3. Trường hợp việc tổ chức họ có lãi thì mức lãi suất phải tuân theo quy định của
Bộ luật này.
4. Nghiêm cấm việc tổ chức họ dưới hình thức cho vay nặng lãi.”
Bên cạnh đó, căn cứ theo Điều 16 Nghị định 19/2019/NĐ-CP về họ, hụi, biêu,
phường như sau:
“Điều 16. Nghĩa vụ của thành viên
1. Thành viên trong họ không có lãi có các nghĩa vụ sau đây:
a) Góp phần họ theo thoả thuận;
b) Thông báo về nơi cư trú mới trong trường hợp có thay đổi cho những người
tham gia dây họ;
c) Tiếp tục góp các phần họ để các thành viên khác được lĩnh cho đến khi thành
viên cuối cùng lĩnh họ trong trường hợp đã lĩnh họ trước thành viên khác;
d) Các nghĩa vụ của thành viên trong việc thực hiện quy định tại Điều 10 và
khoản 2 Điều 11 của Nghị định này;
đ) Trong trường hợp không có chủ họ thì thành viên được giao lập và giữ sổ họ
có các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 Điều 12, khoản 5 và khoản 6 Điều 18 của Nghị
định này.
…”
3
Theo các quy định trên, sau khi nhận được số tiền bà Nsẽ phải tiếp tục đóng biêu
như thỏa thuận thì bà Nlại rút khỏi dây biêu.
Căn cứ theo Điều 10 Nghị định 19/2019/NĐ-CP quy định về họ, hụi, biêu,
phường như sau:
“Điều 10. Rút khỏi dây họ
1. Thành viên đã lĩnh họ có thể rút khỏi dây họ nhưng phải góp các phần họ chưa
góp và giao cho chủ họ hoặc thành viên giữ sổ họ trong trường hợp không có chủ họ theo
quy định tại khoản 1 Điều 12 của Nghị định này.
…”
Dựa trên cơ sở đó, khi bà N rút khỏi dây biêu, bà có nghĩa vụ phải đóng các phần
biêu chưa góp. Việc này nhằm đảm bảo công bằng và sự ổn định trong dây biêu. Tuy
nhiên, sau khi rút biêu trước, bà N không thực hiện nghĩa vụ đóng các phần biêu còn lại,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định của dây biêu. Bà C đã phải góp số tiền biêu
thay cho bà N để duy trì tiến độ và ổn định cho các thành viên khác trong nhóm biêu.
Việc bà N không hoàn trả đúng theo cam kết đã tạo ra khó khăn về tài chính và
làm gián đoạn tiến độ trả tiền cho các thành viên khác trong dây biêu. Điều này không chỉ
làm mất niềm tin của các thành viên mà còn gây ra sự bất bình và bức xúc trong nhóm.
Mặc dù bà C đã liên lạc và yêu cầu bà thanh toán, nhưng bà liên tục từ chối với lý do gặp
khó khăn tài chính.
Căn cứ vào Điều 24 Nghị định 19/2019/NĐ-CP, như sau:
“Điều 24. Trách nhiệm của thành viên không góp phần họ
Trường hợp đến kỳ mở họ mà có thành viên không góp phần họ hoặc góp phần họ
không đầy đủ thì thành viên đó có trách nhiệm đối với chủ họ như sau:
1. Hoàn trả số tiền mà chủ họ đã góp thay cho thành viên.
…”
Theo quy định trên, khi bà N không thực hiện nghĩa vụ đóng biêu theo thỏa thuận,
bà phải hoàn trả số tiền mà bà C đã đóng thay cho bà. Tuy nhiên, bà N không thực hiện
nghĩa vụ này dù đã được yêu cầu nhiều lần. Đến nay, bà N vẫn chưa hoàn trả cho bà C số
tiền trên.
Tính đến ngày 22/10/2024 là thời điểm bà N thông báo với bà C là mất khả năng
nộp tiền biêu thì bà N còn nợ bà C tổng số tiền biêu là 196.160.000đ. Trong quá trình giải
quyết vụ án, bà C cung cấp các bill chuyển khoản từ tài khoản cá nhân của bà N sang tài
khoản của bà C trước ngày 22/10/2014. Do đó, việc bà N cho rằng đã thanh toán cho bà C
khoản tiền 40.000.000đ là không có căn cứ.
Vì vậy, đề nghị Tòa giải quyết buộc bà Đặng Thị Tuyết N và bà Tạ Thị Kim T1
liên đới nghĩa vụ thanh toán bà Hoàng Thị Hoàng C số tiền biêu là 196.160.000đ (Một
trăm chín mươi sáu triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng).
Tuy nhiên, do tính đến ngày 22/10/2024 là thời điểm bà N thông báo với bà C là
mất khả năng nộp tiền biêu thì bà N còn nợ bà C số tiền 196.160.000đ nêu trên và chỉ
đồng ý trừ số tiền 6.194.000đ bà N trả vào các ngày 28/10/2024, 02/11/2024, 30/11/2024,
4
23/12/2024, 23/01/2025. Đồng thời, chỉ yêu cầu buộc bà N trả tiền còn nợ do bà N có
quan hệ chơi biêu với bà C
Như vậy, yêu cầu bà N phải thanh toán số tiền biêu còn nợ cho bà C là
189.966.000đ (Một trăm tám mươi chín triệu, chín trăm sáu mươi sáu nghìn đồng) ngay
sau khi bản án có hiệu lực pháp luật và không đồng ý cho bà N trả dần.
* Tại Bản tự khai, quá trình tố tụng và tại phiên tòa, bị đơn bà Đặng Thị Tuyết
N trình bày:
Ngày 22/10/2025 bà có nhắn tin cho bà Hoàng Thị Hoàng C để xin tất toán dây
biêu 199.194.000đ nhưng bà C không đồng ý với số tiền trên mà đòi phiếu tất toán có dây
biêu với phí là 30%: 113.492.000đ và có xin bà C thư thả vì bà hết khả năng đóng biêu do
gặp một số vấn đề khó khăn. Bà xin góp dần số tiền trên 1.500.000 đồng/ngày nhưng bà C
không đồng ý, đồng thời nhờ người lạ đến nhà bà nói những lời không đúng sự thật. Mẹ
bà là bà Tạ Thị Kim T1 có điện thoại và nói với bà C thêm một lần nữa về vấn đề trả
1.500.000đ/ngày nhưng bà C vẫn không chấp nhận.
Bà C đã chuyển tiền cho bà vào ngày 17/10/2024: 28.600.000đ, ngày 18/10/2024:
73.884.000đ, ngày 20/10/2024: 70.790.000đ, ngày 21/10/2024: 22.886.000đ. Tổng cộng
là 196.160.000đ (Một trăm chín mươi sáu triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng). Bà có
nhận từ tài khoản của bà C số tài khoản của T2 và số tài khoản của bà là S
1040107682823 Đặng Thị Tuyết N
Bà đã chuyển khoản trả cho bà C như: Ngày 18/10/2024: 4.400.000đ, ngày
19/10/2024: 4.400.000đ, ngày 19/10/2024: 20.541.000đ, ngày 20/10/2024: 4.400.000đ,
ngày 21/10/2024: 4.400.000đ, ngày 28/10/2024: 1.194.000đ, ngày 02/11/2024:
1.000.000đ, ngày 30/11/2024: 1.000.000đ, ngày 23/12/2024: 1.000.000đ, ngày
23/01/2025: 2.000.000đ. Tổng cộng là 44.335.000đ.
Vì vậy, tổng số tiền còn nợ biêu bà C là 151.825.000đ (Một trăm năm mươi mốt
triệu, tám trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
Do hiện tại bà đang làm cho chồng cũ của bà tại nhà số B Hồ T, quận T và còn
nuôi ba con nhỏ nên bà xin trả cho bà C một tháng 2.000.000đ cho đến khi hết nợ biêu. Số
tiền còn nợ biêu trên là giữa bà và bà C chơi từ 4/2024 đến ngày 23/10/2024 không liên
quan gì đến mẹ bà là bà Tạ Thị Kim T1 nên một mình bà trả nợ. Còn giấy mượn nợ của
mẹ bà và bà C ngày 26/04/2022 bà không biết và không biết khi nào. Tuy nhiên, Tòa án
triệu tập mẹ bà thì bà cam kết giao giấy triệu tập cho mẹ bà. Đề nghị bà C không đến nhà
số B Hồ T quậy phá và triệt đường làm ăn của bà.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thị Kim T1 đã được tống đạt
hợp lệ nhưng không đến Tòa án, không có trình bày và Tòa án không ghi nhận được có
yêu cầu độc lập hay không.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi thảo luận và nghị án, Hội
đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
5
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hoàng Thị Hoàng C về việc “Tranh chấp
biêu” đối với bị đơn bà Đặng Thị Tuyết N có địa chỉ liên hệ tại B Hồ T, phường A, quận
T, thành phố Đà Nẵng là tranh chấp về hợp đồng dân sự theo quy định tại khoản 3 Điều
26 Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê
theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân
sự.
Bị đơn là bà Đặng Thị Tuyết N người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thị
Kim T1 vắng mặt lần thứ hai tại phiên toà không có lý do mặc dù đã được Tòa án tống đạt
hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa. Vì vậy, Toà án tiến
hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
Bà Hoàng Thị Hoàng C, bà Tạ Thị Kim T1 và bà Đặng Thị Tuyết N có quan hệ
xã hội. Theo Giấy mượn tiền ngày 26/4/2022 của bà Tạ Thị Kim T1 mượn bà Hoàng Thị
Hoàng C số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng), Giấy mượn tiền ngày 12/4/2024 của
bà Đặng Thị Tuyết N mượn bà Hoàng Thị Hoàng C số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu
đồng). Tuy nhiên, đại diện theo ủy quyền của bà C và bà N xác nhận việc viết giấy trên do
bà C yêu cầu, thực chất là hai bà có chơi biêu với nhau và đều xác nhận hai bên đã chuyển
khoản và nhận tiền do bà N yêu cầu được rút biêu trước và cam kết sẽ thanh toán đầy đủ
số tiền khi tới kỳ hạn đóng biêu.
Vì vậy, bà C đã đồng ý chuyển từ số tài khoản của bà Hoàng Thị Hoàng C tại
Ngân hàng TMCP T3 (T2 là 0932555517 vào số tài khoản của bà Đặng Thị Tuyết N tại
Ngân hàng TMCP S (S1 là 040107682823 với tổng số tiền 196.160.000đ (Một trăm chín
mươi sáu triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng) cho bà N trong các ngày từ 17/10/2024
đến 21/10/2024, cụ thể: Ngày 17/10/2024, số tiền 28.600.000đ; ngày 18/10/2024 số tiền
73.884.000đ; ngày 20/10/2024, số tiền 70.790.000đ và ngày 21/10/2024 số tiền
22.886.000đ.
Hội đồng xét xử xét thấy: Bà C và bà N chơi biêu với nhau là hình thức giao dịch
về tài sản theo tập quán trên, hai bên tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và
không trái đạo đức xã hội nên có hiệu lực pháp luật ràng buộc các bên tham gia nên quan
hệ trên là quan hệ chơi biêu giữa bà C và bà N chứ không phải quan hệ giữa bà C và bà N,
bà T1.
Bà N đã chuyển khoản trả cho bà C tổng cộng là 44.335.000đ, cụ thể: Ngày
18/10/2024: 4.400.000đ, ngày 19/10/2024: 4.400.000đ, ngày 19/10/2024: 20.541.000đ,
ngày 20/10/2024: 4.400.000đ, ngày 21/10/2024: 4.400.000đ, ngày 28/10/2024:
1.194.000đ, ngày 02/11/2024: 1.000.000đ, ngày 30/11/2024: 1.000.000đ, ngày
23/12/2024: 1.000.000đ, ngày 23/01/2025: 2.000.000đ. Tuy nhiên, bà C chỉ đồng ý trừ số
tiền 6.194.000đ bà N trả vào các ngày 28/10/2024, 02/11/2024, 30/11/2024, 23/12/2024,
23/01/2025 do tính đến ngày 22/10/2024 là thời điểm bà N thông báo với bà C là mất khả
năng nộp tiền biêu thì bà N còn nợ bà C số tiền 196.160.000đ nêu trên. Hội đồng xét xử
thấy rằng bà N chỉ cung cấp chuyển khoản giao dịch thành công, Tòa án đã yêu cầu cung
cấp bản sao kê tài khoản nhiều lần nhưng bà N không cung cấp được.
Như vậy, bà N đã bốc các chân biêu, nhận tiền đầy đủ từ bà C và cam kết sẽ thanh
toán đầy đủ số tiền khi tới kỳ hạn đóng biêu nhưng chưa thanh toán hết cho bà C, bà N
6
xin trả dần nhưng không được bà C chấp nhận. Do đó, căn cứ vào các Điều 471 Bộ luật
dân sự yêu cầu khởi kiện của bà C, buộc bà N thanh toán cho bà C số tiền nợ biêu là
189.966.000đ (Một trăm tám mươi chín triệu, chín trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).
[3] Về án phí:
Do yêu cầu khởi kiện của bà C được chấp nhận nên bà N phải chịu án phí dân sự
sơ thẩm là 189.966.000đ x 5% = 9.498.000đ theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH1430/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
- Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147,
khoản 2 Điều 227 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 471 Bộ luật Dân sự;
- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14ngày 30.12.2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị Hoàng C về việc
“Tranh chấp biêu” đối với bà Đặng Thị Tuyết N.
1. Buộc bà Đặng Thị Tuyết N phải thanh toán cho bà Hoàng Thị Hoàng C số tiền
biêu còn nợ 189.966.000đ (Một trăm tám mươi chín triệu, chín trăm sáu mươi sáu nghìn
đồng) ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu
thi hành án mà bên phải thi hành án không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ thì
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên
thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về
mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
Dân sự.
2. Về án phí:
Bà Đặng Thị Tuyết N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 9.498.000đ (Chín triệu,
bốn trăm chín mươi tám nghìn đồng).
Hoàn trả cho bà Hoàng Thị Hoàng C số tiền tạm ứng án phí 4.904.000đ (Bốn
triệu, chín trăm lẻ nghìn bốn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0006030 ngày 10/12/2024
tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
3. Án xử công khai, đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 17/6/2025. Đương sự vắng mặt tại
phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án
hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi
hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều
7
6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại
điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Người tham gia tố tụng; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND quận Thanh Khê;
- Chi cục THADS quận Thanh Khê;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Lê Thị Thu Ba
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 01/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 04/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 03/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 02/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm