Bản án số 33/2024/DS-PT ngày 20/09/2024 của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 33/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 33/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 33/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 33/2024/DS-PT ngày 20/09/2024 của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thừa Thiên Huế |
Số hiệu: | 33/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc Ánh-Quyên |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Bản án số: 33/2024/DS-PT
Ngày: 20 - 9 - 2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trương Thị Đào Vi
Các Thẩm phán: Ông Trần Ngọc Tú
Ông Huỳnh Trọng Cẩn
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Huyền Trang - Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Phụng Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên
Huế, xét xử phúc thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 23/2024/TLPT-DS ngày
24 tháng 7 năm 2024 về việc: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
Do Bản án Dân sự sơ thẩm số: 21/2024/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 162/2024/QĐXXPT-DS
ngày 09 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Ngọc A, sinh năm 1988. Địa chỉ: Thôn Đông
Thái, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn
Hoài Nam – Luật sư Công ty Luật hợp danh Thiên Hà thuộc Đoàn Luật sư tỉnh
Thừa Thiên Huế. Địa chỉ: Số 5/56 đường H, phường V, thành phố H, tỉnh Thừa
Thiên Huế. Có mặt.
2. Bị đơn: Bà Hoàng Thị Q, sinh năm 1972. Địa chỉ: Thôn N, xã P, huyện
P, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (Theo Giấy ủy quyền ngày
24/11/2023): Chị Hoàng Thị Ngọc T, sinh năm 2001. Địa chỉ: Thôn N, xã P,
huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.
3. Người làm chứng:
- Chị Lê Thị C, sinh năm 1994. Địa chỉ: Tổ dân phố Trạch Tả, thị trấn P,
huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.
- Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1965. Địa chỉ: Thôn Bàu, xã P, huyện P,
tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.
2
Người kháng cáo: Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là Chị Hoàng
Thị Ngọc T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 26/6/2023, Đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện
ngày 15/8/2023 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là Chị Ngô Thị Ngọc
A trình bày:
Ngày 06/01/2022, Bà Hoàng Thị Q (Bên A) và Chị Ngô Thị Ngọc A (Bên
B) có ký kết “Hợp đồng đặt cọc mua bán nhà đất” để bảo đảm chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Theo hợp đồng, hai bên thỏa thuận bên A sẽ chuyển nhượng
một phần diện tích đất có chiều ngang 27m, chiều dài đến hết đất, trong đó có
200m² đất thổ cư, còn lại là đất trồng cây lâu năm thuộc thửa đất số: 83, tờ bản
đồ số: 53, địa chỉ tại: Thôn N, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế đã được Ủy
nhân dân huyện P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 13/6/2014
mang tên Bà Hoàng Thị Q; giá trị đất chuyển nhượng là 250.000.000 (Hai trăm
năm mươi triệu) đồng; bên B đã đặt cọc 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng; bên
A chịu trách nhiệm bàn giao giấy tờ; bên B chịu trách nhiệm làm giấy tờ, thủ tục
liên quan đến Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để ký hợp đồng chuyển
nhượng và công chứng; nếu bên A từ chối chuyển nhượng thì chịu phạt gấp 02
lần tiền đặt cọc. Thời hạn hợp đồng đặt cọc kể từ ngày 06/01/2022 đến khi xong
sổ.
Sau khi ký hợp đồng, Chị A đã nhiều lần liên hệ đề nghị Bà Q giao giấy tờ
để chị thực hiện thủ tục cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tách
thửa nhưng Bà Q không chịu giao giấy tờ như đã thỏa thuận. Sự việc kéo dài,
sau 01 năm kể từ ngày ký hợp đồng, Bà Q không đồng ý bán đất và không chịu
trả lại tiền cọc.
Do đó, Chị A đã khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Q phải trả lại số tiền đặt
cọc đã nhận là 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng và số tiền phạt cọc 02 lần theo
hợp đồng là 400.000.000 (Bốn trăm triệu) đồng.
Tại Đơn trình bày đề nghị giải quyết mua bán ngày 01/11/2023 và quá
trình giải quyết vụ án, bị đơn là Bà Hoàng Thị Q và người đại diện hợp pháp
của bị đơn là Chị Hoàng Thị Ngọc T trình bày:
Vào khoảng tháng 7/2021, bị đơn (bên A) và nguyên đơn (bên B) có thỏa
thuận giao kết Hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng một phần diện tích đất thuộc
thửa số: 83, tờ bản đồ số: 53, địa chỉ tại: Thôn N, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên
Huế của bên A. Hai bên thỏa thuận phần đất chuyển nhượng rộng 17m, chiều
dài đến hết đất; giá chuyển nhượng 250.000.000 đồng; Bên B ước lượng chiều
rộng 17m bằng 17 bước chân và đánh dấu mốc bằng bê tông, không có đo đạc;
bên B chịu trách nhiệm liên hệ làm thủ tục đo đạc, tách thửa để tiến hành ký hợp
đồng chuyển nhượng; bên A nhận số tiền cọc là 50.000.000 đồng và ký hợp
đồng lần 1. Khi hai bên trao đổi, ký hợp đồng và nhận tiền cọc có ông Nguyễn
Văn Đ chứng kiến. Bên A có đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bên B
chụp lại.
3
Sau đó, bên A cần thêm tiền nên nhiều lần liên hệ, được bên B cho nhận
thêm tiền cọc. Tính đến ngày 06/01/2022 thì tổng số tiền đặt cọc mà bên A nhận
được từ bên B là 200.000.000 đồng. Cả hai bên làm lại bản Hợp đồng mới lần 2.
Sau khi ký hợp đồng đặt cọc, bên A nhiều lần liên hệ qua điện thoại để hỏi tình
hình làm thủ tục thì được trả lời là vẫn đang làm nhưng vì chờ đợi quá lâu, cần
chuyển nhượng đất nên bên A đã trực tiếp liên hệ đo đạc, đăng ký biến động
thửa đất. Khi bị khởi kiện, bên A mới biết hợp đồng đặt cọc ngày 06/01/2022,
diện tích đất thỏa thuận sẽ chuyển nhượng ghi tại hợp đồng là 27m, không phải
17m như thống nhất ban đầu. Nếu theo diện tích 27m thì bên A sẽ phải tháo dỡ
một phần nhà ở. Bên A thừa nhận có ký hợp đồng đặt cọc nhưng vì tin tưởng
nên đã không đọc, không lưu hoặc chụp lại bản hợp đồng trước đó.
Nay Chị Ngô Thị Ngọc A khởi kiện, bị đơn đồng ý trả lại 200.000.000
đồng tiền cọc; không chấp nhận yêu cầu phạt cọc 02 lần là 400.000.000 đồng vì
lý do bên nguyên đơn không thực hiện thủ tục nên không thể ký hợp đồng
chuyển nhượng, lỗi là của nguyên đơn.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 07/12/2023, người làm chứng là ông
Nguyễn Văn Đ trình bày: Ông ở cùng địa phương với Bà Hoàng Thị Q. Trước
thời điểm xảy ra dịch bệnh Covid-19, (khoảng tháng 5 hoặc tháng 6), Bà Q có
nhu cầu chuyển nhượng đất nên hỏi ông. Ông có chỉ cho một số người đến nhà
Bà Q trao đổi đặt cọc để chuyển nhượng đất. Ông có mặt khi các bên trao đổi và
nghe hai bên thông nhất giá chuyển nhượng 250.000.000 đồng. Có người đàn
ông tên Chiến đưa tiền cho Bà Q đi lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về.
Người tên Chiến ước lượng diện tích đất dự kiến chuyển nhượng bằng cách
bước 17 bước chân theo đường bê tông và đánh dấu mốc bằng bê tông.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 29/12/2023, người làm chứng là chị Lê Thị
C trình bày: Ngày 06/01/2022, chị có giới thiệu cho Chị Ngô Thị Ngọc A trao
đổi ký hợp đồng đặt cọc để mua thửa đất của Bà Hoàng Thị Q. Hai bên thỏa
thuận giá chuyển nhượng là 250.000.000 đồng. Diện tích đất thỏa thuận chuyển
nhượng không đo cụ thể mà chỉ ước chừng 27m ngang, trong đó có 200m² đất
thổ cư. Khi trao đổi, Bà Q nói cần tiền để lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và chỉ dùng cho con ăn học nên Chị A đã đặt cọc 200.000.000 đồng. Hợp
đồng được lập thành 02 bản, mỗi bên giữ 01 bản. Sau khi ký hợp đồng, chị và
Chị A nhiều lần liên hệ Bà Q giao giấy tờ của thửa đất để làm thủ tục đo đạc
tách thửa nhưng Bà Q không chịu giao.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Hợp
đồng đặt cọc ký ngày 06/01/2022 là hợp pháp, đúng theo quy định của pháp luật.
Các bên đã thỏa thuận trách nhiệm khi giao kết Hợp đồng đặt cọc nhưng bên
nhận cọc (bị đơn) đã không chịu giao giấy tờ về quyền sử dụng đất để bên đặt
cọc thực hiện thủ tục liên quan; từ chối giao kết hợp đồng thể hiện qua việc ký
hợp đồng đặt cọc để thỏa thuận chuyển nhượng đất cho người khác mặc dù hợp
đồng với nguyên đơn chưa chấm dứt như thừa nhận của người đại diện hợp pháp
của bị đơn tại phiên tòa. Vì vậy, thống nhất như ý kiến của nguyên đơn là Chị
Ngô Thị Ngọc A, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
4
Ngày 07/12/2023, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xem xét, thẩm định tại
chỗ tài sản, kết quả như sau: Thửa số: 83, tờ bản đồ số: 53, diện tích: 1.387,3 m²
(400m
2
đất ở và 987,3m² đất trồng cây lâu năm) đã được Ủy ban nhân dân
huyện P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất ngày 13/6/2014, số hiệu: BG 494573 mang tên Bà Hoàng
Thị Q. Hai bên thống nhất cột mốc đầu tiên để xác định vị trí của phần diện tích
đất sẽ chuyển nhượng. Từ cột mốc đo theo chiều rộng của diện tích đất dự kiến
chuyển nhượng (cạnh tiếp giáp của đường bê tông); theo ý kiến của nguyên đơn
rộng 27m kéo dài qua cạnh đối diện, kết quả trên phần đất này có một phần nhà
ở, vật kiến trúc; theo ý kiến của bị đơn rộng 17m kéo dài qua cạnh đối diện, kết
quả trên phần đất này không có nhà ở, vật kiến trúc.
Tại Văn bản số: 100/CNVPĐKÐÐ-HC ngày 27/02/2024 của Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện P cung cấp thông tin về việc xác minh thông
tin đất đai theo yêu cầu của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm như sau: Sau khi kiểm
tra, rà soát từ năm 2022 đến nay, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện P
không tiếp nhận đơn yêu cầu đo đạc, tách thửa của cá nhân, tổ chức nào liên
quan đến thửa đất số: 83, tờ bản đồ số: 53, địa chỉ tại: Thôn N, xã P, huyện P,
tỉnh Thừa Thiên Huế.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 21/2024/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế đã nhận định và
tuyên xử:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 2 Điều 95, Điều 147, Điều 157, khoản 1 Điều 227, khoản 2 Điều 228
và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 117 và 328 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc Bà Hoàng Thị Q phải
trả lại cho Chị Ngô Thị Ngọc A số tiền đặt cọc đã nhận 200.000.000 (Hai trăm
triệu) đồng và số tiền phạt cọc 400.000.000 (Bốn trăm triệu) đồng, tổng cộng
600.000.000 (Sáu trăm triệu) đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí sơ thẩm, chi phí tố tụng,
quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án theo luật định.
Ngày 17/6/2024, người đại diện hợp pháp của bị đơn là Chị Hoàng Thị
Ngọc T có đơn kháng cáo không chấp nhận bản án sơ thẩm; yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm Sửa Bản án dân sự sơ thẩm về phần yêu cầu phạt cọc là 400.000.000
đồng, không buộc bị đơn phải chịu phạt số tiền trên. Chị T không có tài liệu,
chứng cứ gửi kèm theo đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên đương sự đã thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án theo hướng: Phía nguyên đơn bà Ngô Thị Ngọc Ánh yêu
cầu bị đơn Bà Hoàng Thị Q phải trả lại cho nguyên đơn số tiền đã đặc cọc là
200.000.000 đồng và số tiền phạt cọc là 200.000.000 đồng. Tổng số tiền mà bị
đơn Bà Q phải trả cho nguyên đơn Chị A là 400.000.000 đồng.
5
Về phương thức thanh toán: Các đương sự thỏa thuận chia số tiền mà bị
đơn phải trả cho nguyên đơn làm hai đợt.
Đợt 1: Ngày 30/9/2024, bị đơn Bà Q phải trả cho nguyên đơn Chị A số tiền
đã nhận đặt cọc là 200.000.000 đồng.
Đợt 2: Ngày 30/11/2024, bị đơn Bà Q phải trả cho nguyên đơn Chị A số
tiền phạt cọc là 200.000.000 đồng.
Trường hợp đến hạn trả tiền cọc lần thứ nhất mà bị đơn chưa trả cho
nguyên đơn số tiền nêu trên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành
án thi hành một lần toàn bộ số tiền mà bị đơn phải có nghĩa vụ trả cho nguyên
đơn.
Về chi phí tố tụng: Các đương sự thỏa thuận nguyên đơn chịu chi phí thẩm
định tại chỗ số tiền 1.600.000 đồng, nguyên đơn đã nộp đủ.
Về án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự thỏa
thuận bị đơn chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là: 20.000.000 đồng và án phí
dân sự phúc thẩm số tiền 300.000 đồng.
Nguyên đơn được hoàn trả lại số tiền tạm nộp án phí là: 14.000.000 đồng
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2021/0006932 ngày
04/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện
đúng các trình tự, thủ tục của phiên tòa phúc thẩm. Đối với những người tham
gia tố tụng trong vụ án đều tuân theo pháp luật tố tụng dân sự, không có vi phạm
gì cần phải kiến nghị để khắc phục.
Về nội dung: Các bên đương sự đã tự nguyện thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án tại phiên tòa. Theo đó, nguyên đơn đồng ý giảm tiền phạt
cọc cho bị đơn, yêu cầu bị đơn trả tiền cọc là 200.000.000 đồng vào ngày
30/9/2024 và tiền phạt cọc là 200.000.000 đồng vào ngày 30/11/2024 cho
nguyên đơn; các đương sự cũng thỏa thuận được với nhau về nghĩa vụ chịu án
phí dân sự sơ thẩm, án phí phúc thẩm và chi phí thẩm định tại chỗ. Đại diện
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đề nghị Hội đồng xét xử phúc
thẩm căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án, để tuyên sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự tại phiên tòa theo hướng đã nêu trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà, lời trình bày của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn, kết quả tranh tụng, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội
đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Tính hợp pháp của kháng cáo: Đơn kháng cáo của người đại diện hợp
pháp của bị đơn có nội dung phù hợp với quy định tại Điều 271 và Điều 272,
6
trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
nên đủ diều kiện để đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Về sự vắng mặt của người làm chứng: Tại phiên tòa, người làm chứng là
bà Lê Thị C và ông Nguyễn Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng
mặt. Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa cấp sơ thẩm, họ
đã có lời khai trực tiếp với Tòa án cấp sơ thẩm nên căn cứ theo quy định tại
khoản 2 Điều 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử
vắng mặt người làm chứng.
[2] Về nội dung:
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên đương sự đã thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án theo hướng: Phía nguyên đơn Chị Ngô Thị Ngọc A yêu
cầu bị đơn Bà Hoàng Thị Q phải trả lại cho nguyên đơn số tiền đã đặc cọc là
200.000.000 đồng và số tiền phạt cọc là 200.000.000 đồng. Tổng số tiền mà bị
đơn Bà Q phải trả cho nguyên đơn Chị A là 400.000.000 đồng.
Về phương thức thanh toán: Các đương sự thỏa thuận chia số tiền mà bị
đơn phải trả cho nguyên đơn làm hai đợt.
Đợt 1: Ngày 30/9/2024, bị đơn Bà Q phải trả cho nguyên đơn Chị A số tiền
đã nhận đặt cọc là 200.000.000 đồng.
Đợt 2: Ngày 30/11/2024, bị đơn Bà Q phải trả cho nguyên đơn Chị A số
tiền phạt cọc là 200.000.000 đồng.
Trường hợp đến hạn trả tiền cọc lần thứ nhất mà bị đơn chưa trả cho
nguyên đơn số tiền nêu trên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành
án thi hành một lần toàn bộ số tiền mà bị đơn phải có nghĩa vụ trả cho nguyên
đơn.
Về chi phí tố tụng: Các đương sự thỏa thuận nguyên đơn chịu chi phí thẩm
định tại chỗ số tiền 1.600.000 đồng, nguyên đơn đã nộp đủ.
Về án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự thỏa
thuận bị đơn chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là: 20.000.000 đồng và án phí
dân sự phúc thẩm số tiền 300.000 đồng.
Nguyên đơn được hoàn trả lại số tiền tạm nộp án phí là: 14.000.000 đồng
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2021/0006932 ngày
04/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Xét thấy, sự thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không
trái pháp luật và đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử phúc thẩm cần chấp nhận
sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa để sửa bản án dân sự sơ thẩm
21/2024/DS-ST ngày 04/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thừa Thiên
Huế về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc" đồng thời công nhận sự thỏa thuận
của các bên đương sự như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Thừa Thiên Huế tại phiên tòa phúc thẩm là đúng theo quy định của pháp luật.
[3] Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự thỏa thuận bị đơn là Bà Hoàng
Thị Q phải chịu số tiền là: (400.000.000 đồng x 5%) = 20.000.000 đồng.
Hoàn trả cho Chị Ngô Thị Ngọc A số tiền 14.000.000 đồng theo Biên lai
7
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2021/0006932 ngày 04/10/2023 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Hoàng Thị Q tự nguyện chịu án phí dân sự
phúc thẩm là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000
đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0000904 ngày 09/7/2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; Bà Q đã nộp đủ án phí
dân sự phúc thẩm.
[4] Về chi phí tố tụng: Các đương sự thỏa thuận nguyên đơn chịu chi phí
thẩm định tại chỗ số tiền 1.600.000 đồng, nguyên đơn đã nộp đủ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào khoản 2 Điều 229; Điều 300; khoản 2 Điều 308; Điều 309
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 29 của Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án;
Tuyên xử: Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 21/2024/DS-ST ngày 04/6/2024
của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế về việc “Tranh chấp hợp
đồng đặt cọc".
Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án.
Bà Hoàng Thị Q phải trả lại cho nguyên đơn Chị Ngô Thị Ngọc A số tiền
đã đặc cọc là 200.000.000 đồng và số tiền phạt cọc là 200.000.000 đồng. Tổng
số tiền mà bị đơn Bà Q phải trả cho nguyên đơn Chị A là 400.000.000 đồng.
Về phương thức thanh toán: Các đương sự thỏa thuận chia số tiền mà bị
đơn phải trả cho nguyên đơn làm hai đợt.
Đợt 1: Ngày 30/9/2024, bị đơn Bà Q phải trả cho nguyên đơn Chị A số tiền
đã nhận đặt cọc là 200.000.000 đồng.
Đợt 2: Ngày 30/11/2024, bị đơn Bà Q phải trả cho nguyên đơn Chị A số
tiền phạt cọc là 200.000.000 đồng.
Trường hợp đến hạn trả tiền cọc lần thứ nhất mà bị đơn Bà Q chưa trả cho
nguyên đơn số tiền nêu trên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành
án thi hành một lần toàn bộ số tiền mà bị đơn phải có nghĩa vụ trả cho nguyên
đơn.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn
yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành
không đầy đủ số tiền như trên thì phải chịu thêm thêm lãi suất theo quy định tại
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi
hành.
2. Về án phí:
2.1. Về chi phí tố tụng: Các đương sự thỏa thuận nguyên đơn chịu chi phí
thẩm định tại chỗ số tiền 1.600.000 đồng, nguyên đơn đã nộp đủ.
2.2. Án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự thỏa thuận bị đơn là Bà Hoàng

8
Thị Q phải chịu số tiền là: (400.000.000 đồng x 5%) = 20.000.000 đồng.
Hoàn trả cho Chị Ngô Thị Ngọc A số tiền 14.000.000 đồng theo Biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2021/0006932 ngày 04/10/2023 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.3. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Hoàng Thị Q tự nguyện chịu án phí dân
sự phúc thẩm là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0000904 ngày 09/7/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; Bà Q đã nộp đủ
án phí dân sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TT-Huế;
- TAND huyện P;
- VKSND huyện P;
- Chi cục THADS huyện P;
- Cục THADS tỉnh TT Huế;
- Các đương sự;
- Lưu Hồ sơ vụ án;
- Lưu Tòa DS, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trương Thị Đào Vi
9
CÁC THẨM PHÁN
Trần Ngọc Tú Huỳnh Trọng Cẩn
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trương Thị Đào Vi
10
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm