Bản án số 31/2024/HNGĐ-PT ngày 18/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 31/2024/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 31/2024/HNGĐ-PT ngày 18/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 31/2024/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/12/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Nguyễn Văn A yêu cầu chia tài sản chung sau ly hôn với bà Phạm Thị N
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Đỗ Thị Thúy Năng
Các Thẩm phán: Bà Thái Thị Phi Yến
Ông Ngô Hà Nam
- Thư phiên tòa: Trương Thùy Trang - TTòa án nhân n thành
phố Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân n thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Huỳnh Mạnh - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 26/2024/TLPT-HNGĐ ngày 29 tháng
10 năm 2024 về việc Tranh chấp chia tài sản sau ly hôn.
Do Bản án hôn nhân gia đình thẩm số: 42/2024/HNGĐ-ST ngày 02/8/2024
của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2024/QĐ-PT ngày 02 tháng 12
năm 2024; Thông báo bổ sung người tham gia tố tụng số: 30A/2024/TB-TA ngày
02 tháng 12 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tòa số: 11/2024/QĐ-PT ngày 13
tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn A, sinh năm: 1970. Địa chỉ: C H, phường
K, quận C, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
2. Bị đơn: Phạm Thị N, sinh năm: 1978. Địa chỉ: A C, phường H, quận C,
thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Bản án số: 31/2024/HNGĐ-PT
Ngày: 18 -12 - 2024
V/v: Tranh chấp chia tài sản sau
ly hôn”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Văn T, sinh năm 2000. Địa chỉ: Khu
phố I, thị trấn H, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt lần 2.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Nguyễn Thành C -
Luật sư Công ty L thuộc Đoàn luật sư tỉnh Q. Vắng mặt lần 2.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn H, sinh năm 1972 Ngô Thị T1, sinh năm 1975; Cùng
địa chỉ: Thôn V, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
- Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1969. Địa chỉ: thị trấn H, huyện Q, tỉnh Quảng
Nam. Vắng mặt lần 2.
- Ngân hàng N2 chi nhánh H2, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Địa chỉ: thị trấn
H, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt lần 2.
- Văn phòng C2, tỉnh Quảng Nam. Địa chỉ: quốc lộ A, H, huyện Q, tỉnh
Quảng Nam. Kế thừa quyền nghĩa vụ của Văn phòng C2 Văn phòng công
chứng Nguyễn Văn N1. Địa chỉ: E N, thị trấn H, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng
mặt lần 2.
- Ông Nguyễn Thành C1, Công chứng viên. Địa chỉ: Văn phòng C3 Địa chỉ:
B T, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam (có đơn xét xử vắng mặt).
- Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện T. Địa chỉ: C T, thị trấn T,
tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt lần 2.
4. Người kháng cáo:Phạm Thị N bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm, nội dung vụ án như sau:
* Nguyên đơn ông Nguyễn Văn A người đại diện theo ủy quyền thống
nhất trình bày:
Ông và bà Phạm Thị N kết hôn vào năm 2001, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban
nhân dân T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Hôn nhân trên sở tự nguyện. Trong
quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng đã thuận tình ly
hôn tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự
số 167/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam.
Trong quá trình chung sống, vợ chồng ông tạo lập được nhiều tài sản chung
đã thỏa thuận chia tài sản theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn s
thỏa thuận của các đương sự số 167/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20/9/2019 của Tòa
án nhân dân huyện Quế n, tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra, còn 01 tài sản chưa phân
3
chia nhà và đất tại thửa đất số 126, Tờ bản đồ số 01, diện tích 207,44m
2
, địa chỉ:
Khu Tái định T Trung cấp Cảnh sát giao thông tại B, huyện T, tỉnh Quảng
Nam theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND tỉnh Q cấp. Tại thời điểm
ly hôn, ông phát hiện vợ ông đã giả mạo chữ của ông để yêu cầu công chứng
Văn bản cam kết tài sản riêng ngày 23/3/2017 tại Văn phòng C2 với nội dung: công
nhận tài sản trên là tài sản riêng của bà N. Đồng thời, tại Văn phòng C2, bà N đã ký
chuyển nhượng nhà và đất trên cho vợ chồng ông Huỳnh Minh PNguyễn Thị
T2. Tại Bản án số 02/2020/DS-ST ngày 14/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện
Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam đã hiệu lực pháp luật, đã tuyên bố: Hợp đồng chuyển
nhượng nhà đất số công chứng 289 ngày 12/3/2018 giữa Phạm Thị N và vợ
chồng ông Huỳnh Minh P, Nguyễn Thị T2 Văn bản cam kết tài sản riêng
ngày 23/3/2017 hiệu; Bản án tuyên thửa đất số 126, Tờ bản đồ số 01, diện tích
207,44m
2
, địa chỉ: Khu Tái định T Trung cấp Cảnh sát giao thông tại xã B,
huyện T, tỉnh Quảng Nam được UBND tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BM 861565 là tài sản chung của ông Á và bà N.
Ngày 07/5/2020, ông Á khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân của ông N nhà đất tại thửa đất số 126, Tờ bản đồ số 01, diện
tích 207,44m
2
, địa chỉ: Khu Tái định T Trung cấp Cảnh sát giao thông tại B,
huyện T, tỉnh Quảng Nam được UBND tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BM 861565; chia phần mỗi người theo tỷ lệ 50:50, cụ thể ông nhận quyền sở
hữu nhà đất, ông cam kết thối trả lại Phạm Thị N nhận 50% giá trị tài sản
chung.
Tuy nhiên, trong quá trình Tòa án nhân dân quận C giải quyết vụ án và tuyên
Bản án số 274/2021/HNGĐ-ST ngày 28/9/2021 thì ông Á không biết việc nhà
đất tại thửa đất s126, Tờ bản đồ số 01, diện ch 207,44m
2
, địa chỉ: Khu Tái định
cư T Trung cấp Cảnh sát giao thông tại xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam lại được bà
N ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông Nguyễn H và bà Ngô Thị T1 do Văn phòng
C2 công chứng ngày 11/4/2018, đăng biến động sang tên ông H bà T1 ngày
16/5/2018.
Sau khi xử thẩm, không kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, Bản án
hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, phát hiện được việc nhà và đất ông Á được giao theo
Bản án số 274/2021/HN-ST ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân quận C, TP .
đã được chỉnh biến động sang tên ông Nguyễn H NThị T1, nên việc
giao nhà đất cho ông Nguyễn Văn A không thể thi hành được. Phát hiện
tình tiết mới phát sinh, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã kháng nghị tái
4
thẩm Quyết định tái thẩm số 05/2022/HNGĐ-TT ngày 05/12/2022 tuyên hủy
Bản án sơ thẩm số 274/2021/HNGĐ-ST ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân quận
C và giao hồ sơ về Tòa án nhân dân quận C để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Quá trình thụ lại vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn A sửa đổi bổ
sung yêu cầu khởi kiện và tại phiên a nguyên đơn người đại diện theo ủy
quyền Trần Thị Thùy T3 thống nhất trình bày: Ông Á yêu cầu chia tài sản
theo tỷ l50:50 giao tài sản nhà đất cho N được quyền quản , sở hữu
buộc N thối trả lại giá trị tài sản phần ông Á được chia theo giá trị thẩm định
giá, tương đương số tiền 1.580.523.000 đồng : 2 = 790.261.150 đồng. Yêu cầu
tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt giữa bà Phạm Thị N với ông
Nguyễn H bà Ngô Thị T1 hiệu, hủy chỉnh biến động sang tên ông
Nguyễn H Ngô Thị T1, xử trách nhiệm của Văn phòng C2, Công chứng
viên Nguyễn Thành C1.
* Bị đơn Phạm Thị N người đại diện theo ủy quyền thống nhất trình
bày:
Về vấn đề hôn nhân đúng như ông Á trình bày, ông Á đã ly hôn theo
quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số
167/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh
Quảng Nam. Khi ly hôn ông đã thống nhất thỏa thuận về một số tài sản khác,
riêng đối với tài sản nhà đất tại thửa đất số 126, Tờ bản đồ số 01, diện tích
207,44m
2
, địa chỉ: Khu tái định cư T Trung cấp Cảnh sát giao thông tại xã B, huyện
T, tỉnh Quảng Nam tài sản riêng của bà, do một mình tạo lập nên và ông Á
không đóng p. Nay ông Á khởi kiện yêu cầu chia i sản chung thì không
đồng ý.
Ngoài ra, ông Á đã văn bản cam kết tài sản riêng, thừa nhận nhà đất
này là tài sản riêng của được Văn phòng C2 công chứng ngày 23/3/2017. Do
vậy, nhà đất này là tài sản riêng của bà và bà không đồng ý chia tài sản cho ông Á.
Về phần nợ chung: Bà N yêu cầu chia các khoản nợ gồm:
- Khoản vay Ngân hàng N2 chi nhánh H2 số tiền 300.000.000 đồng; Tiền lãi
Ngân hàng là 30.000.000 đồng
- Tiền vay mượn của Nguyễn Thị M để mua đất là 300.000.000 đồng và tiền lãi
vay của bà M là 180.000.000 đồng.
Tổng cộng tiền nợ chung 810.000.000 đồng. N yêu cầu chia khoản nợ
chung theo tỷ lệ 50:50
5
Đối với kết luận thẩm định giá tài sản, tổng giá trị tài sản nhà đất
1.580.523.000 đồng. yêu cầu thẩm định giá tài sản tại thời điểm bán cho
ông Nguyễn HNgô Thị T1, bà không đồng ý kết quả thẩm định giá tài sản tại
thời điểm thẩm định giá, tuy nhiên bà không có yêu cầu thẩm định giá lại.
* Tại phiên tòa, N trình bày về tài sản nhà đất tại thửa đất 126 này
do một mình bà mua bán gầy dựng nên, vào khoảng thời gian từ năm 2015 đến khi
ly hôn 2019 thì ông Á sống ly thân, ông Á bệnh nặng không lao động được
nên không có thu nhập, tài sản, không có đóng góp vào việc hình thành nên nhà đất
này. Do vậy, bà yêu cầu Tòa án phân chia đây là tài sản riêng của bà và không đồng
ý chia cho ông Á phần giá trị nhà đất theo tỷ lệ 50/50.
- Đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng hiệu thì không
căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu của nguyên đơn và công nhận hợp
đồng, giao tài sản nhà đất cho ông H bà T1 quản lý, sở hữu theo quy định pháp luật.
- Đối với yêu cầu độc lập của ông H về việc giải quyết hậu quả của hợp đồng
vô hiệu và yêu cầu N hoàn trả lại tiền ông H bà T1 đã mua nhà đất thì bà N trình
bày: Tài sản riêng của bà và bà đã bán cho ông H bà T1 nên bà yêu cầu giữ nguyên
và công nhận tài sản nhà và đất là của ông H bà T1.
N không ý kiến đối với việc ông H T1 yêu cầu hoàn trả tiền giá
trị thửa đất đã mua bán nhà đất cho ông H bà T1 theo giá trị đã được thẩm định giá
là 1.580.523.000 đồng.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn là ông Nguyễn Thành
C: Thống nhất với các nội dung bị đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn
đã trình bày, ngoài ra không có trình bày bổ sung gì thêm.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn H Ngô Thị T1
yêu cầu độc lập: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông Nguyễn H trình
bày: Ngày 11/4/2018 vợ chồng ông có nhận chuyển nhượng thửa đất số 126, Tờ
bản đồ số 01, diện tích 207,44m
2
, địa chỉ: Khu Tái định T Trung cấp Cảnh sát
giao thông tại B, huyện T, tỉnh Quảng Nam do UBND tỉnh Q cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của Phạm Thị N, giá mua n lúc đó 940.000.000
đồng, ông nộp thuế sang tên 10.000.000 đồng nữa thành 950.000.000 đồng (theo
hợp đồng đặt cọc đã ký giữa vợ chồng ông với ông P bà T2), vợ chồng ông đã đăng
ký biến động sang tên Nguyễn H Ngô Thị T1 ngày 16/5/2018.
Việc chia tài sản chung vợ chồng của ông Á và bà N thì vợ chồng ông không
liên quan, qtrình Tòa án giải quyết ông được biết nhà đất vợ chồng ông mua
tài sản chung của vợ chồng ông Á N ông Á khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp
6
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất giữa Phạm Thị N với vợ chồng ông là vô hiệu thì ông đã yêu cầu
độc lập yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài
sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất thửa đất số 126, Tờ bản đồ số 01, diện
tích 207,44m
2
, địa chỉ: Khu tái định T Trung cấp Cảnh sát giao thông tại B,
huyện T, tỉnh Quảng Nam của vợ chồng ông; trường hợp Tòa án tuyên hợp đồng
chuyển nhượng quyền sdụng đất này hiệu thì ông yêu cầu giải quyết hậu
quả của hợp đồng vô hiệu, buộc bà N phải hoàn trả lại giá trị thửa đất vợ chồng ông
đã mua và bồi thường theo giá trị trượt giá lỗi làm cho hợp đồng hiệu theo
giá trị thửa đất hiện nay đã được Tòa án tiến hành thẩm định giá, ông đồng ý với
mức giá Tòa án đã thẩm định giá, yêu cầu N hoàn trả lại cho vợ chồng ông số
tiền là 1.580.523.000 đồng.
Đối với Ngô Thị T1: Ông H trình bày: Vợ ông Ngô Thị T1 việc
gia đình phải đi TP Hồ Chí Minh nên không tham gia phiên tòa, nhưng vợ ông
thống nhất tất cả các yêu cầu và trình bày của ông.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan- Văn phòng C2 do Văn phòng C4
kế thừa quyền nghĩa vụ văn bản trình bày gửi cho Tòa án: Văn phòng C4
thực hiện theo Quyết định số 71/QĐ-STP ngày 18/5/2021 của Sở Pháp tỉnh
Quảng Nam về việc chỉ định Văn phòng C (nay là Văn phòng C4) trách nhiệm
tiếp nhận tiếp tục lưu trữ toàn bộ các hồ sơ, sổ sách có liên quan của Văn phòng
C2, đồng thời giải quyết các yêu cầu công chứng sửa đổi bổ sung, hủy bỏ, chấm
dứt hoặc thanh lý, sao lục các văn bản ng chứng liên quan đến các hợp đồng,
giao dịch đã xác lập. Văn phòng C chỉ tiếp nhận Văn phòng C2 theo hình thức ch
định của cơ quan có thẩm quyền chứ không thực hiện việc chuyển nhượng hoặc sáp
nhập đối với Văn phòng C2. Do đó, Văn phòng C4 (VPCC T) không tham gia tố
tụng với cách kế thừa quyền nghĩa vụ của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thành C1 Công
chứng viên Trưởng Văn phòng C2 (cũ) có văn bản trình bày (BL 278): Năm 2017,
ông có tiếp nhận hồ sơ công chứng của bà Phạm Thị N đến trụ sở Văn phòng C2 đề
nghị chứng thực Văn bản cam kết tài sản riêng trong thời kỳ n nhân của vợ
chồng ông Nguyễn Văn A và bà Phạm Thị N đối với thửa đất số 126, Tờ bản đồ số
01, diện tích 207,44m
2
, địa chỉ: Khu Tái định T Trung cấp Cảnh sát giao thông
tại xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM
861565 do UBND tỉnh Q cấp ngày 20/4/2017. Sau khi tiếp nhận hồ kiểm tra
7
thấy đủ các điều kiện, thủ tục thì ông thực hiện công chứng số 427 ngày 23/3/2017,
quyển số 1-TP/QC-SCC/VBCK. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện quy trình lấy
chữ do ông Á nói bị mệt, do chỗ quen biết thường xuyên giao dịch công
chứng tại văn phòng nên ông để vợ chồng ông Nguyễn Văn A bà Phạm Thị N
ngồi bàn chờ lấy chký. Lợi dụng hở trong quá trình này Phạm Thị N đã
thay chcủa ông Nguyễn Văn A vào văn bản cam kết tài sản riêng. Tuy
nhiên, trước khi ký văn bản công chứng, ông đã hỏi lại trực tiếp ông Nguyễn Văn A
về ý ctrong việc giấy cam kết tài sản riêng cho Phạm Thị N thì ông Á xác
nhận đó hoàn toàn ý chí của ông đó sthật, cam kết chịu trách nhiệm
trước pháp luật nên ông đã chứng thực n bản cam kết tài sản riêng. do sức
khỏe không thể tham gia phiên tòa nên ông Nguyễn Thành C1 đề nghị Tòa án t
xử vắng mặt.
* Ngân hàng N2 chi nhánh H2. Mặc đã được tống đạt hợp lệ các văn bản
tố tụng Tòa án đã yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ nhiều lần nhưng Ngân
hàng N2 Chi nhánh H2 không cung cấp tài liệu, chứng cứ, vắng mặt tất cả các
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa giải đồng
thời không có văn bản trình bày gửi Tòa án.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị M: Mặc dù đã được
tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bà M vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Tại bản
tự khai ngày 28/4/2024 (BL 138) bà M trình bày: Vào ngày 20/3/2017 bà có cho bà
Phạm Thị N mượn 300.000.000 đồng để mua đất trường Trung cấp Công an.
Tiền lãi N trả cho từ 20/3/2017 đến 20/3/2023 180.000.000đồng. Hiện nay
N còn nợ 300.000.000 đồng tiền gốc. yêu cầu N trả tiền lại
300.000.000 đồng cho bà. Tại biên bản hòa giải ngày 28/4/2024 M ý kiến
trình bày: cho N ợn số tiền 300.000.000 đồng để mua đất năm 2017.
Việc cho N mượn tiền thì ông Á không biết. yêu cầu bà N trả lại tiền đã
mượn cho bà.
* Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện T, tỉnh Quảng Nam: Mặc dù
đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai huyện T, tỉnh Quảng Nam vẫn vắng mặt và không có trình bày.
Với nội dung như trên, Bản án sơ thẩm số 42/2024/HNGĐ-ST ngày 02 tháng
08 năm 2024, Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
- Điều 28, 35, 39, 147, 157, 165, 244, 271, 272 273 B luật Tố tụng n
sự;
- Điều 33 và 59 Luật Hôn nhân và Gia đình;
8
- Điều 123, 131, 213 và 357 Bộ luật Dân sự;
-Điều 48, 70, 71 Luật Công chứng, Thông 01/2021/TT-BTP ngày
03/02/2021 của Bộ tư pháp;
- Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn A đối với bà Phạm Thị
N về việc chia tài sản sau ly hôn.
- Xác định khối tài sản chung của ông Nguyễn Văn A Phạm Thị N tạo
lập trong thời kỳ hôn nhân là: toàn bộ nhà đất tại thửa đất số 126, Tờ bản đồ số
01, diện tích 207,44m
2
, địa chỉ: Khu Tái định T Trung cấp Cảnh sát giao thông
tại B, huyện T, tỉnh Quảng Nam theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BM 861565 do UBND tỉnh Q cấp.
- Giao toàn b nhà đất tại thửa đất số 126, tờ bản đồ số 01, diện tích
207,44m
2
, địa chỉ: Khu tái định cư T Trung cấp Cảnh sát giao thông tại xã B, huyện
T, tỉnh Quảng Nam theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 861565 do
UBND tỉnh Q cấp
cho bà Phạm Thị N quản lý và sở hữu.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Thị N
với ông Nguyễn H, NThị T1 do Văn phòng C2, tỉnh Quảng Nam công
chứng số 420 ngày 11/4/2018 hiệu. Hủy đăng ký biến động sang tên ông
Nguyễn H và bà Ngô Thị T1 do Văn phòng Đ Chi nhánh huyện T, tỉnh Quảng Nam
đăng ký biến động ngày 16/5/2018.
- Phạm Thị N quyền liên hệ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực
hiện đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
- Bà Phạm Thị N nghĩa vụ thanh toán lại cho ông Nguyễn Văn A 50% giá
trị tài sản chung, tương ứng số tiền là 790.261.500 đồng.
Kể từ ngày ông Nguyễn Văn A đơn yêu cầu thi hành án nếu Phạm Thị
N không thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì bà Phạm Thị N còn phải chịu khoản tiền lãi
đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy
định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự.
2. Không chấp nhận yêu cầu của Phạm Thị N về việc chia khoản nợ vay
của Ngân hàng N2 chi nhánh H2 và khoản nợ vay của bà Nguyễn Thị M.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn H: Buộc bà Phạm Thị N phải
hoàn trả tiền mua nhà đất bồi thường thiệt hại cho ông H T1 tổng số tiền
9
1.580.523.000 đồng. Ông HT1 trả lại cho bà Phạm Thị N nhà đất tại thửa đất số
126, tờ bản đồ số 01, diện tích 207,44m
2
tại khu tái định T Trung cấp Cảnh sát
giao thông thuộc xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam.
4. Kiến nghị Sở Pháp tỉnh Quảng Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh Q xem xét
xử lý trách nhiệm, vi phạm của Công chứng viên Nguyễn Thành C1.
5 . Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Văn A chịu án phí hôn nhân gia đình thẩm 35.610.460
đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 7.500.000 đồng theo biên
lai số 0005509 ngày 15/6/2020 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam khấu trừ o số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo
biên lai thu số 0001768 ngày 08/8/2023 của Chi cục thi hành án Dân sự quận C, TP
.; Ông Á còn phải nộp số tiền án phí hôn nhân gia đình là 27.810.460 đồng.
- Phạm Thị N chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm v chia tài sản
chung là 35.610.460 đồng
- Bà Phạm Thị N phải chịu án phí đối với yêu cầu chia khoản nợ là
36.300.000 đồng. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí N đã nộp 7.500.000
đồng theo biên lai thu số 0009383 ngày 15/3/2023 số tiền 12.200.000 đồng theo
biên lai thu số 0000806 ngày 07/7/2023 của Chi cục thi hành án Dân squận C, TP
.; Bà N còn phải nộp số tiền án phí đối với yêu cầu chia nợ là 16.600.000 đồng
- Bà Phạm Thị N phải chịu án phí đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng hiệu 300.000 đồng án pđối với yêu cầu giải quyết hậu quả của
hợp đồng vô hiệu là 59.415.690đ. Tổng khoản này là 59.715.690 đồng.
- Hoàn trả cho ông Nguyễn H số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng tại
biên lai thu số 0002802 ngày 11/12/2023 số tiền tạm ứng 29.707.845 đồng tại
biên lai thu số 0001567 ngày 14/5/2024 của Chi cục thi hành án Dân s quận C,
6. Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Văn A Phạm Thị N phải chịu chi
phí ttụng mỗi người 8.500.000 đồng. N nghĩa vụ hoàn trả cho ông Á số
tiền chi phí tố tụng ông Á đã tạm ứng là 1.500.000 đồng.
Ngoài ra, Bản án thẩm n tuyên về quyền kháng cáo, nghĩa vụ chậm thi
hành án của bà N đối với ông Á.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/8/2024, Tòa án nhân dân quận C nhân được
đơn kháng cáo của bị đơn Phạm Thị N đề ngày 03/8/2024, kháng cáo toàn bộ
Bản án hôn nhân gia đình thẩm số 42/2024/HNGĐ-ST ngày 02/8/2024 của Tòa
án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng. Đề nghị cấp phúc thẩm xem xét theo trình
tự phúc thẩm.
10
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên đơn khởi kiện, người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan giữ nguyên yêu cầu độc lập, bị đơn giữ nguyên nội
dung kháng o. Các đương sự không thống nhất được với nhau về việc giải quyết
vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa
phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật ttụng trong quá trình giải quyết vụ án: Quá
trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã
tuân theo quy định của Bộ luật Ttụng Dân sự. Các đương sự thực hiện đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của mình.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của
Phạm Thị N về án phí chia khoản nợ chung Phạm Thị N phải chịu. Ngoài ra,
Bản án sơ thẩm không tuyên nghĩa vụ chậm thi hành án của bà Phạm Thị N đối với
ông Nguyễn H Ngô Thị T1, nên cần căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố
tụng Dân sự, sửa Bản án thẩm số: 42/2024/HNGĐ-ST ngày 02/8/2024 của Tòa
án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng về nội dung sai sót trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa kết quả tranh
tụng tại phiên toà, sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xét x
nhận định:
[1] Về tố tụng: Người đại diện theo uỷ quyền và người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của Phạm Thị N; người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được Tòa án
triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ
luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt.
[2] Xét nội dung kháng cáo của bà Phạm Thị N, Hội đồng xét xử thấy:
[2.1] Xét kháng cáo của Phạm Thị N đối với thửa đất số 126, tbản đồ số
01, diện tích 207,44m
2
, địa chỉ: Khu tái định T Trung cấp Cảnh sát giao thông
tại B, huyện T, tỉnh Quảng Nam theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BM 861565 do UBND tỉnh Q cấp ngày ngày 30/01/2013 cho Công ty cổ phần X,
chỉnh lý biến động sang tên bà Phạm Thị N ngày 20/4/2017 (sau đây gọi tắt thửa
đất 126) là tài sản riêng của bà N, thấy:
Tại Bản án dân sự thẩm số: 02/2020/DS-ST ngày 14/02/2020 của Tòa án
nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam đã hiệu lực pháp luật, đã tuyên bố:
Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất số công chứng 289 ngày 12/3/2018 giữa
11
Phạm Thị N vchồng ông Huỳnh Minh P, Nguyễn Thị T2 văn bản cam
kết tài sản riêng ngày 23/3/2017 hiệu; Bản án tuyên thửa đất số 126, tờ bản đồ
số 01, diện tích 207,44m
2
, địa chỉ: Khu tái định cư T Trung cấp Cảnh sát giao thông
tại B, huyện T, tỉnh Quảng Nam được UBND tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BM 861565 là tài sản chung của ông Á và bà N.
Tại Bản án hôn nhân gia đình thẩm số: 274/2021/HN-ST ngày
28/9/2021 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Xác định khối tài sản chung của ông Nguyễn Văn A Phạm Thị N tạo
lập trong thời kỳ hôn nhân là: Toàn bnhà đất tại thửa 126 nêu trên, giao toàn
bộ nhà đất cho ông Á quản sở hữu, ông Á nghĩa vụ thanh toán lại cho
bà N 50% giá trị tài sản chung là 961.237.860 đồng.
Ngày 16/12/2021, ông Á đơn xem xét lại Bản án hôn nhân gia đình
thẩm nêu trên với do: N đã chuyển nhượng nhà đất tại thửa 126 cho ông
Nguyễn H và bà Ngô Thị T1 ngày 11/4/2018 (trước khi Tòa án xét xử sơ thẩm).
Phát hiện tình tiết mới phát sinh, nên Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng đã kháng nghị tái thẩm tại Quyết định tái thẩm số 05/2022/HNGĐ-TT
ngày 05/12/2022 Tòa án nhân nhân cấp cao tại Đà Nẵng đã tuyên hủy Bản án
thẩm số 274/2021/HNGĐ-ST ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân quận C và giao
hồ sơ về Tòa án nhân dân quận C để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Ngày 06/01/2023, Tòa án nhân dân quận C, thành phĐà Nẵng thụ lý lại vụ
án theo thủ tục sơ thẩm.
Tại Chứng thư thẩm định giá số 147/CTTĐG-VFC ngày 12/4/2023 của ng
ty cổ phần T4 xác định: nhà và đất tại tha đất số 126, giá trị quyền sử dụng đất
1.436.256.780 đồng giá trị tài sản trên đất 144.265.875 đồng. Tổng giá trị
tài sản chung là: 1.580.523.000 đồng.
Tòa án cấp thẩm xác định đây tài sản chung chia tài sản chung theo
tỷ lệ 50/50 tuyên xử: Giao toàn bộ nhà đất tại thửa đất số 126 cho Phạm
Thị N quản sở hữu. Phạm Thị N nghĩa vụ thanh toán lại cho ông
Nguyễn Văn A 50% giá trị tài sản chung, tương ứng số tiền 790.261.500 đồng là có
căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và Gia đình, nên HĐXX
cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bà N cho rằng đây là tài sản riêng.
[2.2] Xét kháng cáo của N về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa bà Phạm Thị N với vợ chồng ông Nguyễn HNgô Thị T1:
12
Ngày 17/9/2023, ông Nguyễn H đơn yêu cầu độc lập về việc yêu cầu công
nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất s126 của vợ chồng ông yêu cầu
giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
HĐXX xét thấy: Nguyên nhân làm cho hợp đồng hiệu do lỗi hoàn toàn
của N, đã giả tạo văn bản cam kết tài sản riêng của bà. Vì vậy, Tòa án cấp
sơ thẩm đã tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Thị
N với ông Nguyễn H, Ngô Thị T1 do Văn phòng C2, tỉnh Quảng Nam công
chứng số 420 ngày 11/4/2018 vô hiệu. Hủy đăng ký biến động sang tên ông
Nguyễn H và bà Ngô Thị T1 do Văn phòng Đ Chi nhánh huyện T, tỉnh Quảng Nam
đăng ký biến động ngày 16/5/2018 là đúng pháp luật.
Căn cứ Điều 131 Bộ luật Dân sự về giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu
thì các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã
nhận, bên lỗi làm cho hợp đồng hiệu mà gây thiệt hại thì phải bồi thường
thiệt hại cho bên kia.
Xét thấy: Tại thời điểm xét xử sơ thẩm, theo kết quả định giá nhà đất
1.580.523.000 đồng, khoản tiền chênh lệch giữa giá chuyển nhượng với giá trị tại
thời điểm xét xử 1.580.523.000đ - 940.000.000 đ = 640.523.000 đồng. Tỷ lệ lỗi
của bà N là 100%, tỷ lệ tiền bên mua đã trả để thực hiện chuyển nhượng là 100%.
Do đó, cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu độc lập của ông H, buộc bà N phải
hoàn trả lại cho vợ chồng ông H -T1 là 940.000.000 đồng đã nhận và khoản tiền
bồi thường thiệt hại do lỗi làm cho hợp đồng chuyển nhượng hiệu
640.523.000 đồng, tổng cộng bà N phải trả lại cho ông H bà T1 1.580.523.000
đồng ông H - T1 phải trả lại nđất tại thửa đất số 126 cho N đúng có
căn cứ, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bà N về nội dung này.
[2.3] Xét kháng cáo của N về nợ chung đã vay yêu cầu chia khoản
nợ chung theo tỷ lệ 50:50, thấy:
Đối với khoản vay Ngân hàng N2 chi nhánh H2, huyện Q, tỉnh Quảng Nam
(sau đây gọi tắt Ngân hàng) 300.000.000 đồng tiền gốc và 30.000.000 đồng tiền lãi,
mặc N cung cấp các bản photo hợp đồng thế chấp với Ngân hàng nhưng
không tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh N dùng chính khoản tiền vay
Ngân hàng để mua đất, xây nhà như N đã trình bày.
Mặt khác, theo N khoản nợ Ngân hàng đã tất toán từ năm 2018, trước khi
bà bán nhà đất cho ông H, bà T1. Các khoản vay này (nếu có) cũng diễn ra, sử dụng
tất toán xong trong thời kỳ hôn nhân, trước khi ông Á N ly hôn o tháng
13
3 năm 2019. Nên cấp thẩm không sđể chấp nhận yêu cầu chia nợ chung
của bà N đối với khoản vay Ngân hàng là có căn cứ.
Đối với khoản vay mượn của Nguyễn Thị M 300.000.000 đồng và tiền lãi
180.000.000 đồng thì thấy: Giấy mượn tiền ngày 20/3/2017 do một mình Phạm
Thị N vay, ông Á không biết khoản vay mượn này, đồng thời tại biên bản hòa
giải ngày 28/4/2023 M trình bày khoản vay mượn này ông Á không biết
(BL140) bà M chỉ yêu cầu N trả không yêu cầu đòi nợ ông Á phải trả
(BL138). Cấp thẩm không sở để chấp nhận yêu cầu chia nợ chung của
Phạm Thị N là có căn cứ.
Do vậy, đối với kháng cáo của N về hai khoản nợ chung nêu trên, HĐXX
cấp phúc thẩm không chấp nhận.
[2.4] Xét kháng cáo của bà Phạm Thị N nội dung khác thấy:
Đối với án phí nợ chung: Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu chia
nợ chung của N đối với số tiền 810.000.000 đồng, nhưng lại nhận định và tuyên
buộc N phải chịu án pđối với yêu cầu chia khoản nợ chung không được chấp
nhận với số tiền 36.300.000 đồng không đúng, N không phải chịu án phí
đối với yêu cầu chia khoản nợ không được chấp nhận mới đúng, cấp phúc thẩm sẽ
chấp nhận kháng cáo của N về nội dung này, sửa án sơ thẩm về án phí nợ chung.
Đối với nghĩa vụ chậm thi hành án, tuy ông Nguyễn H Ngô Thị T1
không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị, nhưng cấp thẩm không
tuyên kể từ ngày ông Nguyễn H và NThị T1 đơn yêu cầu thi hành án nếu
Phạm Thị N không thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì bà Phạm Thị N còn phải chịu
khoản tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ng với thời gian chậm trả theo mức
lãi suất quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự là có thiếu sót, không đảm bảo quyền
lợi ích hợp pháp của ông H T1 trong giai đoạn thi hành án, nên cấp phúc
thẩm sửa án sơ thẩm nội dung này.
Ngoài án phí nợ chung bsửa như đã nhận định trên, các loại án phí khác về
hôn nhân gia đình tại mục 5 chi phí tố tụng tại mục 6 tại phần Quyết định của
Bản án sơ thẩm giữ nguyên.
[3] Về án phí phúc thẩm:
Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bà N, sửa một
phần án sơ thẩm nên bà N phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 296; khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
14
Chấp nhận một phần kháng cáo của Phạm Thị N, sửa một phần Bản án
hôn nhân gia đình thẩm số 42/2024/HNGĐ-ST ngày 02 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng về án phí đối với yêu cầu chia khoản
nợ chung của bà Phạm Thị N nghĩa vụ chậm thi hành án của Phạm Thị N
đối với ông Nguyễn H và bà Ngô Thị T1.
- Căn cứ Điều 33 và 59 Luật Hôn nhân và Gia đình; các Điều 123, 131, 213
357 Bluật Dân sự; các Điều 48, 70, 71 Luật Công chứng; khoản 5 Điều 27;
khoản 2 Điều 29 Ngh quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản sử dụng án p
và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn A đối với bà Phạm Thị
N về việc chia tài sản sau ly hôn:
-Xác định khối tài sản chung của ông Nguyễn Văn A Phạm Thị N tạo
lập trong thời kỳ hôn nhân là: Toàn bnhà đất tại thửa đất s126, tờ bản đồ số
01, diện tích 207,44m
2
, địa chỉ: Khu tái định T Trung cấp Cảnh sát giao thông
tại B, huyện T, tỉnh Quảng Nam theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BM 861565 do UBND tỉnh Q cấp ngày 30/01/2013 cho Công ty cổ phần X, chỉnh
biến động sang tên Phạm Thị N ngày 20/4/2017, nhà đất trị giá
1.580.523.000 đồng.
- Giao toàn bộ nhà và đất tại thửa đất nêu trên cho bà Phạm Thị N quản lý và
sở hữu.
- Bà Phạm Thị N nghĩa vụ thanh toán lại cho ông Nguyễn Văn A 50% giá
trị tài sản chung, tương ứng số tiền là 790.261.500 đồng.
-Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Thị N
với ông Nguyễn H, NThị T1 do Văn phòng C2, tỉnh Quảng Nam công
chứng số 420 ngày 11/4/2018 hiệu. Hủy đăng ký biến động sang tên ông
Nguyễn H và bà Ngô Thị T1 do Văn phòng Đ Chi nhánh huyện T, tỉnh Quảng Nam
đăng ký biến động ngày 16/5/2018.
- Phạm Thị N quyền liên hệ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực
hiện đăng ký quyền sở hữu, sử dụng nhà đất theo quy định của pháp luật.
2. Không chấp nhận yêu cầu của Phạm Thị N v việc chia khoản nợ
chung vay của Ngân hàng N2 chi nhánh H2 và khoản nợ vay của Nguyễn Thị
M.
15
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn H: Buộc bà Phạm Thị N phải
hoàn trả tiền mua nhà đất và bồi thường thiệt hại cho ông H - T1 tổng số tiền
1.580.523.000 đồng. Ông H - T1 trả lại cho Phạm Thị N nhà đất tại thửa đất
số 126, tờ bản đồ số 01, diện tích 207,44m
2
tại khu tái định T Trung cấp Cảnh
sát giao thông thuộc xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam.
4. Phạm Thị N không phải chịu án phí đối với yêu cầu chia khoản nợ
chung là 36.300.000 đồng. H1 lại số tiền tạm ứng án phí N đã nộp 7.500.000
đồng theo biên lai thu số 0009383 ngày 15/3/2023 số tiền 12.200.000 đồng theo
biên lai thu số 0000806 ngày 07/7/2023 của Chi cục thi hành án Dân squận C,
thành phố. Đà Nẵng.
5. Về án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm: Phạm Thị N không phải
chịu. Hoàn trcho bà Phạm Thị N tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên
lai số 0001827 ngày 21 tháng 8 năm 2024 của Chi cục thi hành án Dân sự quận C,
thành phố Đà Nẵng.
6. Các phần quyết định của Bản án sơ thẩm các quyết định về: Án phí
n nhân gia đình thẩm (trừ án phí đối với yêu cầu chia khoản nợ chung) tại
mục 5 chi phí tố tụng tại mục 6 được thực hiện theo quyết định tại Bản án hôn
nhân gia đình sơ thẩm số: 42/2024/HNGĐ-ST ngày 02/8/2024 của Tòa án nhân dân
quận C, thành phố Đà Nẵng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu Phạm
Thị N không thực hiện nghĩa vtrả tiền thì Phạm Thị N còn phải chịu khoản
tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất
quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
Dân sự thì người được thi hành án Dân sự, người phải thi hành án Dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
Dân sự.
Nơi nhận
- Viện kiểm sát nhân dân TP. Đà Nẵng;
- Chi Cục thi hành án Dân sự quận C;
- Tòa án nhân dân quận C;
- Các đương sự;
- Lưu HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
16
Đỗ Thị Thúy Năng
17
Nơi nhận
- Viện kiểm sát nhân dân TP. Đà
Nẵng;
- Chi Cục thi hành án Dân sự quận C;
- Tòa án nhân dân quận C;
- Các đương sự;
- Lưu HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC
THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA
PHIÊN TÒA
Đỗ Thị Thúy Năng
Tải về
Bản án số 31/2024/HNGĐ-PT Bản án số 31/2024/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 31/2024/HNGĐ-PT Bản án số 31/2024/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất