Bản án số 30/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 30/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 30/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 30/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 30/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Kinh Môn (TAND tỉnh Hải Dương) |
Số hiệu: | 30/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp đòi lại di sản thừa kế là quyền sử dụng đất nông nghiệp |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THỊ XÃ KINH MÔN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 30/2024/DS-ST
Ngày: 30-9-2024
"V/v kiện đòi lại di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất và yêu cầu tuyên
bố hợp đồng chuyển quyền sử dụng
đất vô hiệu"
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - H phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lê Thị Thu Hằng.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Phạm Văn Biên.
2. Ông Hoàng Văn Ngọc.
- Thư ký phiên toà: Bà Đào Thị Thu Hoài - Thư ký Toà án nhân dân thị
xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Hương - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 25 và ngày 30 tháng 9 năm 2024 tại hội trường xét xử tòa án
nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự
sơ thẩm thụ lý số 21/2024/TLST - DS ngày 15 tháng 4 năm 2024 về việc“V/v tranh
chấp đòi lại di sản thừa kế là quyền sử dụng đất, yêu cầu tuyên bố hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất vô hiệu” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
45/2024/QĐXX-ST ngày 10 tháng 9 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lưu Thị H, sinh năm 1964.
Địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải
Dương (có mặt).
- Bị đơn: Anh Trần Đăng T, sinh năm 1972.
Địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải
Dương (có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Mạc Văn Phương, sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã
Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương (có mặt tại phiên tòa ngày 25-
9-2024, vắng mặt tại phiên tòa ngày 30-9-2024).
+ Ông Mạc Văn Chương, sinh năm 1955; địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã
Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
+ Chị Nguyễn Thị Hải Yến, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã
2
Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
Người được ủy quyền của chị Yến: Anh Mạc Văn Phương, sinh năm 1982; địa
chỉ: Thôn Đồng Quan, xã Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
+ Bà Trần Thị The, sinh năm 1950; địa chỉ: Thôn Lâu Động, xã Quang
Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
+ Bà Lưu Thị Thắm, sinh năm 1950; địa chỉ: Thôn Kim Đậu, xã Lạc
Long, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
Người được ủy quyền của bà The, bà Thắm: Bà Lưu Thị H, sinh năm 1964; địa
chỉ: Thôn Đồng Quan, xã Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
+ Bà Lưu Thị Thía, sinh năm 1957; địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã Quang
Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương (có mặt tại phiên tòa ngày 25-9-2024,
vắng mặt tại phiên tòa ngày 30-9-2024).
+ Ông Lưu Hữu Ngoại, sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã
Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương (có mặt).
+ Chị Trần Thị Lập, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã Quang
Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
+ Cụ Lưu Thị Riếp, sinh năm 1931; địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã Quang
Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
+ Bà Trần Thị Loan, sinh năm 1955; địa chỉ: Thôn Tống Thượng, xã
Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
+ Bà Trần Thị Huệ, sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã Quang
Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
+ Bà Trần Thị Tranh, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn Kênh Phố, xã Cao
Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
+ Bà Trần Thị Cảnh, sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã Quang
Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
+ Bà Trần Thị Liên, sinh năm 1968; địa chỉ: Thôn Tống Thượng, xã
Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
Người được ủy quyền của cụ Riếp, bà Loan, bà Huệ, bà Tranh, bà Cảnh,
bà Liên, chị Lập: Anh Trần Đăng T, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn Đồng Quan,
xã Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Quan điểm khởi kiện của nguyên đơn là bà Lưu Thị H trình bày: Bố mẹ đẻ
bà là cụ Lưu Hữu Đảng và cụ Nguyễn Thị Tho. Hai cụ có 06 người con chung
gồm Trần Thị The, Lưu Thị Thắm, Lưu Thị Thía, Lưu Văn Viên (liệt sỹ đã chết
không có vợ, không con), Lưu Hữu Ngoại và Lưu Thị H. Năm 1987 cụ Đảng và
cụ Tho được UBND xã cấp 02 suất ruộng canh tác và 60m
2
đất thờ cúng liệt sỹ
tại 02 thửa đất ở xứ đồng Bãi Sau và xứ đồng Cầu Gỗ tổng diện tích 1.068m
2
.
Từ khi được cấp ruộng do già yếu nên hai cụ không trực tiếp canh tác mà giao
3
cho bà Thía (con gái) mượn cấy đổi thóc cho hai cụ. Năm 1995 cụ Đảng chết, bà
Thía vẫn cấy lúa đổi thóc cho cụ Tho. Năm 2010 cụ Tho đã bán thửa đất ở xứ
đồng Bãi Sau cho bà lấy tiền đưa hài cốt của ông Viên về quê an táng. Năm
2005 ông Chương (chồng bà Thía) tự ý lấy thửa đất ở xứ đồng Cầu Gỗ đổi cho
ông Bé để làm ao, diện tích cụ thể bao nhiêu bà không biết, cụ Tho, bà Thía
không trao đổi với anh em bà. Từ khi đổi đất anh Phương (con trai bà Thía) là
người đem thóc cho cụ Tho ăn. Năm 2011 cụ Tho viết giấy giao diện tích đất
ruộng tại xứ đồng Cầu Gỗ là 554m
2
cho bà, bà The, bà Thía, bà Thắm và giao
diện tích đất thổ cư, việc thờ cúng cho ông Ngoại. Giấy có điểm chỉ của bà Tho
và xác nhận của ông Hải phó trưởng thôn. Năm 2012 nhà nước thu hồi một phần
diện tích ở xứ đồng Cầu Gỗ để làm đường, bà có đến UBND xã nhận tiền đền bù
về đưa cho cụ Tho chi tiêu. Năm 2017 cụ Tho mất, anh Phương không mang
thóc nữa. Năm 2022 bà và anh chị em đến đòi ruộng đất cấy mới biết có việc cụ
Tho viết giấy tặng cho anh Phương diện tích đất ruộng ở Cầu Gỗ từ năm 2008.
Bà có biết việc từ khi bà Thía tự ý đổi đất anh T (con ông Bé) là người trực tiếp
sử dụng diện tích đất đất ruộng của cụ Tho đến bây giờ. Vợ chồng anh T cấy lúa
và trồng hành trên thửa đất này. Ngoài diện tích đất ruộng này hai cụ còn 02
diện tích đất thổ cư nhưng gia đình đã tự thỏa thuận phân chia xong nên không
yêu cầu Tòa án giải quyết. Chi phí mai táng, xây dựng mồ mả cho hai cụ và các
nghĩa vụ khác của hai cụ, gia đình đã thanh toán xong, không yêu cầu giải quyết.
Đối với thửa ruộng tại xứ đồng Bãi Sau cụ Tho đã bán cho bà và số tiền đền bù
do bị thu hồi một phần đất ở thửa Cầu Gỗ gia đình không tranh chấp do đó bà
không yêu cầu giải quyết.
Bà có đơn khởi kiện yêu cầu anh Mạc Văn Phương phải trả lại di sản là
quyền sử dụng đất ruộng diện tích 304m
2
theo hiện trạng đo vẽ của Tòa án cho
anh chị em bà, bà không đề nghị phân chia thừa kế. Tuy nhiên hiện nay anh Trần
Đăng T đang trực tiếp quản lý, sử dụng thửa đất nên bà thay đổi yêu cầu khởi
kiện buộc anh Trần Đăng T phải trả lại quyền sử dụng diện tích đất ruộng theo
hiện trạng là 304m
2
tại thửa số 88, xứ đồng Cầu Gỗ ở thôn Đồng Quan, xã
Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Về lợi ích hoa màu, nông sản
trên đất từ trước đến nay bà không yêu cầu trả lại.
Đối với đơn đề nghị ngày 04-6-2011 của cụ Tho bà đề nghị Tòa án xem
xét tính hợp pháp của đơn đề nghị này. Đối với giấy cho tặng quyền sử dụng đất
03 ngày 20-12-2008 của cụ Tho, giấy giao kèo đổi đất năm 2005 bà đề nghị Tòa
án tuyên vô hiệu.
Quan điểm của bị đơn là anh Trần Đăng T trình bày: Năm 2005 ông
Chương (là chồng bà Thía) và ông Bé (bố đẻ anh) thỏa thuận nội dung đổi đất
ruộng giữa hai nhà để anh Phương đào ao. Tại nhà anh hai bên viết biên bản
giao kèo trao đổi ruộng đất, ông Bé ông Chương ký. Nội dung thỏa thuận cụ thể,
ông Bé đổi thửa đất ruộng diện tích 503m
2
đổi để lấy ruộng của ông Chương.
Do thửa ruộng ở khu đồng Cầu Gỗ chỉ có 12 thước nên ông Chương thỏa thuận
diện tích còn thiếu ông sẽ lấy thửa khác để bù lại cho đủ. Sau khi hai bên đổi
ruộng, anh Phương đã tiến hành đào ao còn gia đình anh trực tiếp sử dụng thửa
ruộng đã đổi ở khu đồng Cầu Gỗ. Đến khoảng năm 2014 ông Bé già yếu nên
giao cho anh đã trực tiếp canh tác sử dụng thửa đất. Thửa đất một bên giáp nhà
4
ông Lưu Hữu Thành, hai bên giáp đường nội đồng, một bên giáp đường làng.
Thời điểm này anh và anh Phương đã viết lại Giấy đổi ruộng cho nhau, nội dung
thỏa thuận tương tự như biên bản giao kèo trước đó. Sau đó anh trực tiếp mang
Giấy đổi ruộng này nộp cho bà Phương (xóm trưởng) để bà theo dõi và quản lý
việc sử dụng ruộng tại địa phương. Từ đó hai bên sử dụng ổn định, không có
thay đổi về diện tích, kích thước thửa ruộng. Vợ chồng anh trồng lúa, trồng hành
trên thửa đất này. Bố đẻ của anh là ông Trần Văn Bé chết năm 2022, bố mẹ đẻ
của ông Bé cũng đã chết trước ông Bé. Mẹ đẻ của anh là bà Lưu Thị Riếp hiện
sinh sống cùng với anh. Bố mẹ anh có tất cả 06 người con gồm Trần Thị Huệ,
Trần Thị Tranh, Trần Thị Cảnh, Trần Thị Liên và anh. Ngoài ra bố mẹ anh
không có người con nào khác, kể cả con nuôi và con riêng. Nay với yêu cầu
khởi kiện của bà H yêu cầu anh trả lại 304m
2
đất ruộng tại thửa đất số 68, tờ bản
đồ số 13, thuộc xứ đồng Cầu Gỗ ở thôn Đồng Quan, xã Quang Thành, thị xã
Kinh Môn, tỉnh Hải Dương là di sản của cụ Đảng, cụ Tho và không yêu cầu về
lợi tức, hoa màu từ trước đến nay, anh nhất trí. Đối với hậu quả của việc trả lại
ruộng anh và anh Phương sẽ tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Còn đối với yêu cầu của bà H về việc hủy giấy giao kèo đổi ruộng giữa ông
Chương và ông Bé, giấy cho tặng ruộng của bà Tho cho anh Phương, anh đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Quan điểm của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Anh Mạc Văn Phương trnh bày: Anh là con trai của bà Thía, là cháu
ngoại của cụ Đảng và cụ Tho. Mẹ anh đã cấy đổi thóc cho ông bà ngoại của anh
ở xứ đồng Cầu Gỗ đã lâu. Năm 2005 có chính sách chuyển đổi bà Thía đã mượn
một phần ruộng của cụ Tho là 12 thước tương đương 288m² để đổi đất cho anh
làm ao. Giấy đổi ruộng do ông Chương và ông Bé ký với nhau xác định đổi vĩnh
viễn. Năm 2008 cụ Tho bảo anh viết giấy cụ tặng cho anh toàn bộ diện tích đất
của cụ là 674m² tại xứ đồng Cầu Gỗ. Do không biết chữ nên cụ Tho đọc để anh
trực tiếp viết giấy cho tặng quyền sử dụng đất ruộng 03. Sau khi viết xong vài
ngày sau anh chở cụ đến nhà ông Trần Bầu là xóm trưởng xin xác nhận. Tại nhà
ông Bầu cụ Tho đã điểm chỉ vào giấy. Tiếp tục anh chở cụ ra gặp ông Mạnh
trưởng thôn. Ông Mạnh bảo phải có thêm người nhà xác nhận nên sau đó anh
gặp bà The (chị gái bà Thía) tại nhà của cụ Tho. Tại đây anh đã trao đổi với bà
The về sự việc trên, bà The đồng ý và ký vào giấy này. Bà Thía cũng ký tên vào
đó. Sau khi có đầy đủ chữ ký anh đã mang giấy ra đưa cho ông Phạm Văn Mạnh
là trưởng thôn ký xác nhận. Do nhận thức pháp luật còn hạn chế anh nghĩ như
vậy là đầy đủ và không mang giấy lên UBND xã xin xác nhận. Sau khi đổi đất
làm ao, bà Thía vẫn tiếp tục cấy phần đất ruộng còn lại của cụ Tho cho đến năm
2012 Nhà nước tiến hành thu hồi 01 sào và có đền bù cho cụ Tho. Số tiền đền bù
cụ thể anh không biết, anh chỉ biết bà H là người đi lĩnh tiền. Từ năm 2008 đến
khi cụ Tho chết anh vẫn trả thóc cho cụ ăn. Sau khi cụ Tho chết khoảng cuối
năm 2022 bà H có đến gặp gia đình anh đòi ruộng để chia cho các anh chị em,
anh không đồng ý. Quan điểm của anh không đồng ý, cụ Tho đã tặng cho anh
nên anh có quyền sử dụng. Hiện nay thửa đất đang tranh chấp do vợ chồng anh
T là người trực tiếp quản lý, canh tác.
Đối với yêu cầu hủy giấy giao kèo đổi ruộng giữa ông Chương và ông
5
Bé, giấy cho tặng ruộng của bà Tho cho anh, bà H đề nghị hủy bỏ, anh không
đồng ý vì thực tế bà Tho tặng cho anh là ý chí tự nguyện được địa phương xác
nhận hợp pháp. Anh sử dụng nhiều năm bà Tho cũng như các bá dì không ai có
ý kiến phản đối. Nếu Tòa án tuyên hủy các giấy trên anh không yêu cầu giải
quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Đối với giấy năm 2011 cụ Tho cho 04 bà
diện tích đất ruộng đã cho anh từ năm 2008, anh đề nghị hủy bỏ.
- Bà Lưu Thị Thía trnh bày: Ngay từ khi được chia đất ruộng do sức khỏe
già yếu nên cụ Đảng, cụ Tho không trực tiếp canh tác thửa đất ở xứ đồng Cầu
Gỗ mà để vợ chồng bà cấy đổi thóc cho các cụ. Sau khi cụ Đảng chết bà vẫn tiếp
tục cấy. Năm 2005 có chính sách chuyển đổi làm ao bà đã mượn một phần
ruộng của cụ Tho là 12 thước, tương đương 288m
2
ở xứ đồng Cầu Gỗ để đổi đất
cho anh Phương làm ao. Ông Chương và ông Bé viết giấy đổi ruộng cho nhau
thỏa thuận đổi vĩnh viễn, có ghi vào giấy đổi ruộng. Tại thời điểm đổi đất bà đã
trao đổi với cụ Tho và cụ nhất trí. Năm 2008 cụ Tho cho anh Phương toàn bộ
diện tích đất 674m
2
ở xứ đồng Cầu Gỗ và từ đó anh Phương đổi thóc cho cụ. Bà
là người trực tiếp chứng kiến việc cụ Tho đọc cho anh Phương viết giấy tặng
cho đất ruộng. Hôm sau bà The xuống chơi, anh Phương có trao đổi về việc cụ
Tho đã cho anh Phương đất, sau đó bà và bà The cùng ký vào giấy. Sau đó các
anh chị em của bà đều biết việc này và không ai có ý kiến. Sau khi đổi đất làm
ao bà vẫn tiếp tục cấy phần đất ruộng còn lại của cụ Tho cho đến năm 2014 nhà
nước tiến hành thu hồi 01 sào và có đền bù. Nay với yêu cầu khởi kiện của bà H,
bà không đồng ý. Cụ Tho đã tặng cho anh Phương quyền sử dụng thửa đất nên
thửa đất này thuộc quyền sử dụng của anh Phương. Việc gia đình bà đổi đất cho
anh T là tự nguyện. Đối với yêu cầu hủy giấy giao kèo đổi ruộng giữa ông
Chương và ông Bé, giấy cho tặng ruộng của bà Tho cho anh Phương, bà H đề
nghị hủy bỏ, bà không đồng ý vì thực tế bà Tho tặng cho anh Phương từ khi còn
sống được địa phương xác nhận hợp pháp. Anh Phương sử dụng nhiều năm
không ai có ý kiến phản đối. Đối với giấy đề nghị của cụ Tho năm 2011 bà đề
nghị tuyên vô hiệu. Nếu Tòa án tuyên hủy các giấy trên bà không yêu cầu giải
quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
- Bà Trần Thị The trnh bày: Lý lịch gia đình bà như bà H trình bày trên là
đúng. Bà lập gia đình và không còn sống chung với bố mẹ đẻ từ năm 1970 nên
bà không biết cụ Đảng, cụ Tho được cấp ruộng đất năm nào. Hai cụ sống bằng
tiền trợ cấp của con trai là liệt sỹ, còn lấy thóc gạo để ăn từ bà H và bà Thía cấy
đổ thóc. Do hai cụ sức khỏe yếu, không thể trực tiếp canh tác được nên bà Thía
là người cấy lấy thóc ăn cho hai cụ. Cách đây chục năm anh Phương bảo nhờ bà
ký giấy bảo là để anh cấy ruộng đất chứ không phải ký vào Giấy tặng cho ruộng.
Khi bà ký, chưa có chữ ký của bà Thía cũng như chữ ký của xóm trưởng và
trưởng thôn, bà chủ quan cũng không đọc. Còn điểm chỉ của cụ Tho bà không
biết. Đối với giấy đề nghị cụ Tho cho ruộng 04 chị em bà vào năm 2011 bà xác
nhận đúng ý chí của cụ Tho. Nay bà đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà H và
đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Bà Lưu Thị Thắm trnh bày: Năm 1972 bà kết hôn và không còn chung
sống cùng bố mẹ đẻ. Cụ thể năm được cấp và diện tích đất ruộng mà bố mẹ đẻ
của bà được cấp bà không biết. Lý lịch gia đình như bà H trình bày là đúng. Sau
6
này việc bà Thía cho cháu Phương cấy ruộng và cháu Phương đổi đất với anh
Thành bà không biết. Đến năm 2023 khi hòa giải tại UBND xã bà mới biết giấy
tờ mà cụ Tho tặng cho cháu Phương. Đối với giấy đề nghị cụ Tho cho ruộng 04
chị em bà vào năm 2011 bà xác nhận đúng ý chí của cụ Tho. Nay bà đồng ý với
yêu cầu khởi kiện của bà H và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp
luật
- Ông Lưu Hữu Ngoại trnh bày: Lý lịch gia đình như bà H trình bày là
đúng. Năm 1979 ông lập gia đình và sinh sống cạnh nhà bố mẹ đẻ. Sự việc được
cấp ruộng đất và bà Thía cấy ruộng như bà H đã trình bày. Năm 2005 ông được
biết sự việc cháu Phương đổi ruộng của cụ Tho để lấy ruộng làm ao còn anh T
lấy ruộng ở Cầu Gỗ để cấy lúa. Lúc này cụ Tho vẫn còn sống vì vậy khi biết sự
việc anh Phương đổi đất ông không can thiệp. Việc cụ Tho để lại Giấy tặng cho
quyền sử dụng đất 03 cho anh Phương đến khi hòa giải tại UBND xã ông mới
được biết. Trong suốt thời gian cụ Tho còn sống, cụ Tho không nói với ông việc
tặng cho ruộng đất anh Phương. Nay với yêu cầu khởi kiện của bà H ông đồng ý
và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ông cũng nhất trí với
nội dung thay đổi yêu cầu khởi kiện của bà H.
- Ông Mạc Văn Chương trnh bày: Ông là chồng của bà Thía và là bố đẻ của
anh Phương. Khoảng năm 1992-1993 vợ chồng ông được bố mẹ bà Thía là cụ
Đảng và cụ Tho cho cấy thửa ruộng diện tích 01 sào 12 thước tương đương với
674m
2
ở xứ đồng Cầu Gỗ. Do sức khỏe của hai cụ già yếu nên vợ chồng ông đã
cấy đổi thóc cho hai cụ. Trong quá trình vợ chồng ông canh tác, sử dụng thửa
ruộng cụ Tho có giấy tặng cho anh Phương thửa ruộng tại xứ đồng Cầu Gỗ. Tuy
nhiên năm cụ thể ông không nhớ rõ. Do vậy ông và ông Trần Đăng Bé đã thỏa
thuận đổi ruộng cho nhau để phù hợp với mục đích sử dụng. Việc đổi ruộng vẫn
đảm bảo đủ thóc cho hai cụ ăn. Ngày 13-11-2005 ông và ông Bé đã ký biên bản
giao kèo trao đổi ruộng đất và mỗi người giữ một bản gốc. Sau khi đổi ruộng,
nhà ông Bé sử dụng đất để cấy lúa còn gia đình ông đào ao. Nay với yêu cầu
khởi kiện của bà H ông không đồng ý. Vì cụ Tho đã tặng cho anh Phương quyền
sử dụng thửa đất nên thửa đất này thuộc quyền sử dụng của anh Phương. Việc
đổi ruộng cũng là sự tự nguyện của hai gia đình bà H đề nghị hủy giấy giao kèo
đổi ruộng ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Chị Trần Thị Lập trnh bày: Chị và anh Trần Đăng T kết hôn từ năm 2012
và sử dụng thửa ruộng ở xứ đồng Cầu Gỗ để trống trọt. Chị có biết sự việc đổi
đất giữa ông Chương và ông Bé. Từ khi sử dụng thửa ruộng, vợ chồng chị vẫn
đóng thuế nông nghiệp đầy đủ. Nay với yêu cầu khởi kiện của bà H đề nghị Tòa
án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Chị Nguyễn Thị Hải Yến trnh bày: Chị kết hôn với anh Phương vào năm
2005. Sau khi về chung sống với anh Phương chị thấy bố mẹ chồng là ông
Chương và bà Thía sử dụng cấy ruộng tại xứ đồng Cầu Gỗ diện tích khoảng
674m
2
. Năm 2005 UBND xã có chính sách chuyển đổi ruộng thành ao để chăn
nuôi, ông Chương đổi ruộng đất cho ông Bé. Sau khi đổi xong ruộng đất, vợ
chồng chị trực tiếp sử dụng, chăn nuôi ở ao đã đổi với ông Bé. Năm 2008 cụ
Tho viết Giấy cho tặng quyền sử dụng thửa ruộng tại xứ đồng Cầu Gỗ cho anh
Phương. Sau khi được tặng cho, vợ chồng chị vẫn đổi thóc cho cụ Tho cho đến
7
khi cụ chết. Nay bà H có yêu cầu khởi kiện, quan điểm của chị là không đồng ý.
Đất ruộng 03 này cụ Tho đã có giấy tặng cho quyền sử dụng đất cho anh
Phương hợp pháp.
- Bà Trần Thị Tranh, bà Trần Thị Loan, bà Trần Thị Huệ, bà Trần Thị
Cảnh, bà Trần Thị Liên trnh bày: Các bà đều là con gái của cụ Trần Đăng Bé
và cụ Lưu Thị Riếp. Lý lịch gia đình như anh T trình bày trên là đúng. Bố mẹ bà
được cấp ruộng để cấy, tuy nhiên ruộng đất nằm ở nhiều mảnh, ở nhiều xứ đồng
khác nhau với diện tích các bà không biết. Năm 2005 nhà nước có chính sách
dồn ô đổi thửa. Diện tích đất của gia đình bà được dồn thành 06 mảnh nằm ở hai
xứ đồng khác nhau. Việc cụ Bé đổi ruộng với ông Chương cụ thể nội dung trao
đổi giữa hai bên bà không biêt. Trước đây khi còn khỏe cụ Bé và cụ Riếp trực
tiếp cấy ruộng. Sau khi già yếu giao cho anh T (em trai của bà) để sử dụng do
vậy anh T có toàn quyền quyết định mọi việc liên quan đến thửa ruộng này. Nay
với yêu cầu khởi kiện của bà H, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật.
- Cụ Lưu Thị Riếp trnh bày: Cụ và cụ Bé kết hôn và chung sống với nhau
từ năm 1950. Sau đó vợ chồng cụ được UBND chia ruộn ở nhiều xứ đồng khác
nhau. Sau nhiều năm dồn ô đổi thửa thành những mảnh ruộng to. Do nhu cầu sử
dụng nên ông Chương đã đổi ruộng với vợ chồng cụ để anh Phương làm ao. Cụ
có biết và đồng ý với sự việc trên. Sau khi đổi ruộng vợ chồng cụ cấy lúa trên
thửa ruộng đang tranh chấp còn nhà ông Chương đào ao nuôi cá ở thửa ruộng
ngoài đê. Năm 2012 vợ chồng cụ già yếu nên đã giao lại cho con trai là anh T
tiếp tục quản lý sử dụng cấy thóc cho cụ. Năm 2022 cụ Bé chết, cụ tiếp tục
chung sống với anh T. Nay do tuổi cao cụ ủy quyền toàn bộ cho anh T toàn
quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Quan điểm của những người làm chứng:
- Ông Trần Văn Bầu trnh bày: Ông là xóm trưởng xóm 7 thôn Đồng
Quan từ năm 2009 đến năm 2010. Đầu năm 2009 anh Mạc Văn Phương và bà
Nguyễn Thị Tho có mang 01 Giấy tặng cho quyền sử dụng đất 03 đến và đề nghị
ông xác nhận. Sau khi xem xong nội dung giấy này, ông thấy đã có điểm chỉ của
cụ Tho, chữ ký bà The, bà Thía. Sau khi xem bản đồ và sổ sách quản lý theo dõi
giao ruộng ông đã xác nhận nội dung bà Nguyễn Thị Tho là xã viên xóm 7 Đồng
Quan có thửa ruộng 674m
2
khu Cầu Gỗ, thửa số 88, tờ bản đồ 02 là đúng sự
thật. Tại thời điểm này thửa đất trên chưa bị thu hồi và đổi ruộng. Nội dung anh
Phạm Văn Mạnh trưởng thôn xác nhận sau này ông không biết.
- Ông Phạm Văn Mạnh trnh bày: Ông là trưởng thôn từ năm 2009 đến
năm 2010. Ngày 10-01-2009 anh Mạc Văn Phương mang 01 Giấy cho tặng
quyền sử dụng đất 03 có điểm chỉ của bà Tho và đề nghị ông xác nhận. Sau khi
xem nội dung giấy này, ông thấy đã có chữ ký của bà The, bà Thía và đã có xác
nhận của trưởng xóm. Vì vậy ông đã ký xác nhận kính chuyển UBND xã để xem
xét giải quyết. Còn cụ thể nội dung cho tặng ông không biết.
- Ông Vũ Xuân Hải trnh bày: Ông là phó trưởng thôn Đồng Quan từ năm
2011 đến năm 2013. Tháng 06-2011 bà Lưu Thị H mang đến cho ông 01 đơn đề
nghị đánh máy có điểm chỉ của cụ Nguyễn Thị Tho. Ông đã gọi điện thoại cho
8
trưởng thôn là ông Lưu Văn Chuyền báo cáo sự việc. Do đang đi công tác nên
ông Chuyền đã ủy quyền cho ông xác nhận vào đơn đề nghị. Trong đơn ông có
xác nhận nội dung đơn là đúng sự thật nhưng thực tế ông không biết điểm chỉ
trong đơn có đúng là của cụ Tho và nội dung trong đơn có đúng ý nguyện của cụ
Tho không. Ông nhận thức việc ông xác nhận là không đúng thẩm quyền. Ông
xác nhận để công dân chuyển cơ quan có thẩm quyền.
Biên bản xác minh tại UBND xã Quang Thành: Năm 1993 cụ Đảng và cụ
Tho được chia ruộng đất, hồ sơ chia đất vào thời điểm đó hiện tại địa phương
không còn lưu trữ. Năm 2003 thực hiện chủ trương dồn ô đổi thửa, hộ gia đình
ông Đảng và bà Tho được chia với tổng diện tích 1.068m
2
tại thửa số 42, tờ bản
đồ số 02, diện tích 394m
2
tại xứ đồng Bãi sau thôn Đồng Quan và thửa ruộng số
88, tờ bản đồ số 02, diện tích 674m
2
tại xứ đồng Cầu Gỗ, thôn Đồng Quan. Theo
tiêu chuẩn là 02 suất, tổng diện tích là 1.068m
2
và 60m
2
(2,5 thước) là đất 03
thuộc diện giao đất để thờ cúng liệt sỹ. Năm 2005 đo đạc lại bản đồ hiện trạng
sử dụng đất thửa số 42, tờ bản đồ 02 thành thửa đất số 132, tờ bản đồ 14, diện
tích 482m
2
. Thửa đất số 88, tờ bản đồ số 02 thành thửa đất số 68, tờ bản đồ số
13, diện tích 686m
2
. Tổng diện tích 02 thửa đất tăng lên là do trong quá trình sử
dụng các hộ lấn bờ. Năm 2013 UBND xã thu hồi một phần diện tích đất tại thửa
số 68, tờ bản đồ số 13 để thực hiện dự án khu giãn dân theo Quyết định số
498/QĐ-UBND ngày 28-12-2012 của UBND huyện Kinh Môn về việc phê
duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng khu giãn dân xã Quang Thành, huyện Kinh
Môn, tỉnh Hải Dương. Theo đó hộ gia đình bà Tho bị thu hồi với diện tích là
370m
2
, tổng số tiền bồi thường hỗ trợ là 71.540.000đồng. Đối với thửa đất số
132, tờ bản đồ số 14 diện tích đất này đã được vợ chồng ông Định, bà H quản lý
và sử dụng để cấy lúa. Sau khi cụ Tho chết theo thông tin địa phương cung cấp
thửa đất trên hiện do anh Trần Đăng T trực tiếp sử dụng. Nay với yêu cầu khởi
kiện của bà H, quan điểm của địa phương là thời điểm chia ruộng từ năm 1993
đến năm 2003 UBND xã không phân tách cụ thể từng thửa cho từng cá nhân
trong hộ gia đình. Do vậy UBND xã xác định phần diện tích ruộng được chia là
tài sản chung theo phần của cụ Đảng và cụ Tho.
Tại phiên tòa:
Bà H trình bày: Bà giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện. Bà xác định diện
tích 304m
2
tại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 13, thuộc xứ đồng Cầu Gỗ là di sản
của cụ Đảng và cụ Tho hiện do anh T quản lý và sử dụng. Bà đề nghị được trả
lại cho các hàng thừa kế thứ nhất gồm bà, ông Ngoại, bà The, bà Thía, bà Thắm,
bà không yêu cầu chia thừa kế. Đối với giấy đổi ruộng ngày 13-11-2005, giấy
cho tặng quyền sử dụng đất 03 ngày 20-12-2008, đơn đề nghị ngày 04-6-2011
bà đề nghị hủy vì không hợp pháp.
Ông Ngoại trnh bày: Ông đề nghị anh T phải trả lại diện tích 304m
2
tại
thửa đất số 68, tờ bản đồ số 13, thuộc xứ đồng Cầu Gỗ cho ông, bà The, bà Thía,
bà Thắm, bà H, không yêu cầu chia thừa kế. Đối với giấy giao kèo đổi ruộng
năm 2005, giấy tặng cho năm 2008, đơn đề nghị năm 2011 ông đề nghị hủy bỏ
vì không hợp pháp.
Bà The trình bày: Khi ký vào giấy cụ Tho tặng cho đất anh Phương bà
không biết việc tặng cho, sau này cũng không ai nói chuyện này kể cả cụ Tho.
9
Năm 2011 cụ Tho tự nguyện phân chia đất đai có bàn bạc với các con. Nay bà
cũng yêu cầu anh T phải trả lại 304m
2
đất tại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 13,
thuộc xứ đồng Cầu Gỗ cho bà, bà H, ông Ngoại, bà Thắm, bà Thía.
Bà cũng đề nghị hủy toàn bộ các giấy tờ trên.
Anh Phương trnh bày: Bà The trình bày việc ký vào giấy cụ Tho tặng cho
anh đất năm 2008 mà không đọc, không biết nội dung tặng cho là không đúng.
Anh xác định bà H, bà The, bà Thắm, ông Ngoại đều biết nội dung cụ Tho tự
nguyện tặng cho anh đất. Vì thực tế từ khi tặng cho cụ Tho khỏe mạnh, minh
mẫn và sau khi đổi ruộng anh và anh T đã sử dụng ổn định từ năm 2005 các ông
bà không ai có ý kiến gì. Việc tặng cho được lập thành văn bản có xác nhận của
địa phương nên xác nhận việc tặng cho hợp pháp do vậy anh không đồng ý với
yêu cầu trả lại ruộng đất, yêu cầu hủy biên bản giao kèo năm 2005, biên bản
tặng cho đất năm 2008 của bà H. Đối với đơn đề nghị năm 2011 anh không biết
giấy này do vậy đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bà Thía trình bày: Năm 2008 bà có chứng kiến việc cụ Tho tặng cho đất anh
Phương. Cụ Tho còn tuyên bố việc này với tất cả anh chị em trong gia đình. Do
vậy việc bà H, bà The, ông Ngoại nói không biết là không đúng. Đối với giấy đề
nghị của cụ Tho điểm chỉ năm 2011 bà không biết không được ký vào văn bản,
cụ Tho cũng như bà H, bà The, bà Thắm không trao đổi nội dung này với bà.
Nay quan điểm của bà, việc cụ Tho tặng cho anh Phương là tự nguyện, việc
điểm chỉ có người chứng kiến nên hợp pháp. Đối với yêu cầu hủy đơn đề nghị
năm 2011 bà nhất trí.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét
xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau: Căn cứ Điều 689,
Điều 691, Điều 694, Điều 722, Điều 723 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều
611, Điều 612, Điều 613, Điều 649, Điều 650, Điều 651, khoản 2 Điều 357,
Điều 468 Bộ luật dân sự 2015; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 167
Luật đất đai; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Toà án xử:
Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất 03 giữa cụ Nguyễn Thị
Tho và anh Mạc Văn Phương ngày 20-12-2008 có hiệu lực pháp luật một phần.
Tuyên bố hợp đồng tặng cho của cụ Tho ngày 04-6-2011 vô hiệu.
Tuyên bố hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa ông Mạc Văn
Chương với ông Trần Đăng Bé ngày 13-11-2005 vô hiệu.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lưu Thị H. Buộc anh Trần
Đăng T phải trả lại cho các hàng thừa kế thứ nhất của cụ Đảng, cụ Tho gồm bà
Trần Thị The, bà Lưu Thị Thắm, bà Lưu Thị Thía, ông Lưu Hữu Ngoại, bà Lưu
Thị H diện tích 152m
2
tại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 13, thuộc xứ đồng Cầu Gỗ
có địa chỉ ở thôn Đồng Quan, xã Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải
Dương .
10
Về giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu: Các đương sự không yêu cầu
giải quyết hậu quả nên không xét.
Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Bà Lưu Thị H tự
nguyện chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là
5.000.000đ.
Về án phí: Anh Trần Đăng T phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
- Quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án tranh
chấp di sản thừa kế là quyến sử dụng đất, tài sản tranh chấp và bị đơn cư trú tại
thôn Đồng Quan, xã Quang Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Do vậy
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải
Dương theo quy định tại khoản 5, khoản 9 Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật
tố tụng dân sự.
- Sự tham gia tố tụng của các đương sự: Ông Mạc Văn Chương, chị
Nguyễn Thị Hải Yến, bà Trần Thị The, bà Lưu Thị Thắm, chị Trần Thị Lập, cụ
Lưu Thị Riếp, bà Trần Thị Loan, bà Trần Thị Huệ, bà Trần Thị Tranh, bà Trần
Thị Cảnh, bà Trần Thị Liên vắng mặt tại phiên toà nhưng đã có uỷ quyền hợp lệ
cho người đại diện thay mặt tham gia tố tụng, anh Trần Đăng T có đơn xin vắng
mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 khoản 2 Điều 228 Bộ
luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt những người có tên trên.
[2] Về nội dung:
2.1 Xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc đòi lại di sản
thừa kế là quyền sử dụng đất thấy rằng: Cụ Lưu Hữu Đảng chết năm 1995 và
cụ Nguyễn Thị Tho chết năm 2017. Bố mẹ đẻ của hai cụ đều chết trước các cụ.
Khi chết hai cụ không để lại di chúc. Cụ Đảng có người vợ duy nhất là cụ Tho.
Hai cụ có 06 người con chung là bà Trần Thị The, bà Lưu Thị Thắm, bà Lưu Thị
Thía, ông Lưu Văn Viên (liệt sĩ không có vợ, con), ông Lưu Hữu Ngoại, bà Lưu
Thị H. Ngoài ra cụ Đảng, cụ Tho không có người con riêng, con nuôi nào khác.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự xác định hàng thừa
kế thứ nhất của cụ Đảng, cụ Tho gồm: bà Trần Thị The, bà Lưu Thị Thắm, bà
Lưu Thị Thía, ông Lưu Hữu Ngoại, bà Lưu Thị H. Các trường hợp trên không
thuộc trường hợp không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản
hoặc từ chối nhận di sản do vậy đều được thừa kế phần di sản của cụ Đảng, cụ
Tho.
Xác định nguồn gốc di sản: Căn cứ vào các tài liệu do UBND xã Quang
Thành cung cấp và tài liệu do tòa án thu thập thể hiện cụ Lưu Hữu Đảng và cụ
Nguyễn Thị Tho được chia ruộng đất từ năm 1993 theo tiêu chuẩn là 02 suất với
tổng diện tích 1.068m
2
tại thửa số 42, tờ bản đồ số 02, diện tích 394m
2
tại xứ
đồng Bãi sau thôn Đồng Quan và thửa ruộng số 88, tờ bản đồ số 02, diện tích
674m
2
tại xứ đồng Cầu Gỗ, thôn Đồng Quan. Năm 2005 đo đạc lại thành thửa
11
đất số 132, tờ bản đồ 14, diện tích 482m
2
và thửa đất số 68, tờ bản đồ số 13, diện
tích 686m
2
tổng diện tích 02 thửa đất có sự tăng lên
do lấn bờ. Năm 2013 UBND
xã thu hồi 370m
2
tại xứ đồng Cầu Gỗ còn lại là 304m
2
hiện do anh T sử dụng.
Còn đối với thửa đất số 132, tờ bản đồ số 14 vợ chồng ông Định, bà H quản lý
sử dụng. Vậy xác định di sản của cụ Đảng và cụ Tho gồm 02 thửa đất nêu trên.
Đối với thửa 132, tờ bản đồ 14, diện tích 482m
2
cụ Tho đã chuyển nhượng cho
bà H, các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Đối với số tiền
được đền bù do Nhà nước thu hồi một phần đất tại thửa đất số 68, tờ bản đồ số
13 các đương sự cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Các
đương sự đề nghị giải quyết đối với phần diện tích 304m
2
tại thửa đất số 68, tờ
bản đồ số 13 hiện do anh T đang quản lý sử dụng. Như vậy căn cứ vào thực tế
việc quản lý, sử dụng đất và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có cơ sở để xác
định diện tích 304m
2
tại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 13 tại thôn Đồng Quan, xã
Quang Thành là di sản của cụ Đảng và cụ Tho. Do các cụ chết không để lại di
chúc, các cụ lại có di sản do vậy sẽ được chia theo pháp luật.
2.2. Xét hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất 03 giữa cụ Nguyễn Thị
Tho và anh Mạc Văn Phương ngày 20-12-2008.
Trong quá trình giải quyết anh Mạc Văn Phương xuất trình cho Tòa án
giấy cho tặng quyền sử dụng ruộng đất 03 ngày 20-12-2008 có điểm chỉ của cụ
Tho, xác nhận của trưởng xóm, trưởng thôn thể hiện nội dung cụ Tho tặng cho
anh Mạc Văn Phương thửa ruộng diện tích 674m
2
tại khu Lò Ngói (khu đồng
Cầu Gỗ). Anh Phương xác nhận tại thời điểm cho tặng cụ Tho minh mẫn khỏe
mạnh, cụ đọc nội dung giấy tặng cho đất để anh viết lại theo ý cụ. Điều đó thể
hiện ý chí cụ cho tặng anh hoàn toàn tự nguyện. Trong suốt thời gian cụ còn
sống anh vẫn sử dụng ruộng lấy thóc cho cụ, không ai có ý kiến gì. Bà H, bà
Thắm, ông Ngoại đều trình bày không biết việc cụ Tho cho anh Phương diện
tích đất ruộng, cũng không thấy cụ thông tin với các bà. Các ông bà đều biết
việc ông Chương đổi đất cho ông Bé, anh T sử dụng thửa đất của cụ Tho từ năm
2008. Do vậy không có căn cứ xác định các ông bà không biết việc tặng cho
giữa cụ Tho và anh Phương. Bà The trình bày khi ký xác nhận vào giấy tặng cho
không đọc, bà nghĩ là giấy mượn ruộng của anh Phương. Tại thời điểm ký xác
nhận bà đủ năng lực hành vi dân sự nên không có căn cứ bà không biết việc cụ
Tho cho tặng anh Phượng thửa đất trên. UBND xã Quang Thành xác nhận thửa
đất đang tranh chấp trong sổ địa chính vẫn mang tên cụ Tho. Ông Bầu xác nhận
cụ Tho cùng với anh Phương mang giấy tặng cho đến yêu cầu ông xác nhận thể
hiện ý chí tặng cho của cụ là tự nguyện.
Xét hợp đồng tặng cho được lập thành văn bản nhưng không được chứng
thực tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là vi phạm về mặt hình thức. Xét về
nội dung dung thể hiện ý chí cụ Tho tự nguyện tặng cho anh Phương có sự
chứng kiến của ông Bầu. Tuy nhiên xác định thửa đất trên thuộc sở hữu của cụ
Tho và cụ Đảng, vì vậy cụ Tho chỉ có quyền được định đoạt đối với ½ diện tích
thửa đất nêu trên. Việc cụ Tho tự ý tặng cho anh Phương được coi cụ tặng cho
phần của cụ. Còn phần của cụ Đảng vẫn thuộc di sản thừa kế.
Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở xác định ý chí tự nguyện của cụ
Tho trong việc tặng cho đất anh Phương. Mặc dù việc tặng cho chưa được làm
12
thủ tục qua chính quyền địa phương nhưng thực tế anh Phương sử dụng từ năm
2008 nên cần chấp nhận sự tự nguyện tặng cho đất này của cụ Tho theo nội dung
trong giấy tặng cho. Vì cụ Đảng đã chết nên chỉ chấp nhận phần định đoạt của
cụ Tho là cho ½ diện tích thửa đất tương đương 152m
2
theo hiện trạng đo vẽ, ½
diện tích còn lại là di sản sẽ được chia theo pháp luật cho các hàng thừa kế thứ
nhất của cụ Đảng và cụ Tho.
2.3. Xét hợp đồng tặng cho của cụ Tho ngày 04-6-2011 thì thấy:
Đơn được đánh máy theo nội dung cụ Tho trình bày, số liệu về diện tích
thửa đất do bà H cung cấp. Nội dung đơn thể hiện việc phân chia đất thổ cư và
giao quyền thờ cúng cho ông Ngoại, đất ruộng cho 04 cô con gái. Xét về hình
thức đơn đề nghị không có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là vi
phạm hình thức. Xét về mặt nội dung đơn đề nghị có điểm chỉ của cụ Tho, chữ
ký của bà H, bà The, bà Thắm còn ông Ngoại và bà Thía không biết nội dung
này. Ông Mạnh xác nhận vào đơn do bà H đem đến nên không biết điểm chỉ
trong đơn có phải của cụ Tho không. Bà H, bà The, bà Thắm không có tài liệu
chứng minh điểm chỉ của cụ Tho trong đơn là đúng. Do vậy không có căn cứ
xác định sự tự nguyện của cụ Tho khi lập văn bản tặng cho ruộng đất cho 04 con
gái gồm bà H, bà The, bà Thía, bà Thắm. Mặt khác thửa đất này đã được cụ viết
giấy tặng cho anh Phương từ năm 2008 do vậy xác định hợp đồng tặng cho
không có giá trị pháp lý. Do vậy xét về nội dung và hình thức đều không phù
hợp với quy định của pháp luật nên vô hiệu.
2.4. Xét hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa ông Mạc Văn
Chương với ông Trần Đăng Bé ngày 13-11-2005 thì thấy:
Nội dung hợp đồng thể hiện ông Bé đổi thửa đất ruộng diện tích 503m
2
đổi để lấy ruộng của ông Chương. Do thửa ruộng ở khu đồng Cầu Gỗ chỉ có 12
thước nên ông Chương thỏa thuận diện tích còn thiếu ông sẽ lấy thửa khác để bù
lại cho đủ, thỏa thuận đổi vĩnh viễn. Văn bản viết tay có chữ kỹ của hai ông. Sau
khi đổi diện tích đất ruộng ông Bé cấy, ông Chương đào ao. Sau này ông Bé
chết giao lại cho anh T quản lý sử dụng, còn ông Chương giao cho anh Phương
quản lý, sử dụng.
Xét về hình thức hợp đồng chuyển đổi lập văn bản không có chứng nhận
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền do vậy vi phạm về hình thức. Xét về nội
dung tại thời điểm chuyển đổi thửa thửa đất số 68, tờ bản đồ số 13 do cụ Tho
được UBND xã cấp theo tiêu chuẩn. Ông Chương không có quyền sở hữu, sử
dụng tự ý đổi với ông Bé không được sự dồng ý của cụ Tho do vậy vi phạm về
nội dung. Từ các căn cứ trên xác định hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
giữa ông Mạc Văn Chương với ông Trần Đăng Bé ngày 13-11-2005 không có
giá trị pháp lý nên vô hiệu. Do vậy anh T phải trả lại ½ diện tích ruộng cho các
hàng thừa kế của cụ Tho là có căn cứ.
2.5. Về giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu: Các đương sự không yêu
cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Trong quá trình quản lý di
sản anh T có công sức trong việc tôn tạo quản lý di sản nhưng anh T không yêu
cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét về trích công sức.
13
[3] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Bà Lưu
Thị H tự nguyện nộp cả chi phí tố tụng và không yêu cầu Tòa án giải quyết
do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận một
phần nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí sơ thẩm theo quy định theo quy định tại Điều
147 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm
2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 689, Điều 691, Điều 694, Điều 722, Điều 723 của Bộ luật
dân sự năm 2005; Điều 611, Điều 612, Điều 613, Điều 649, Điều 650, Điều 651,
khoản 2 Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 26, điểm a
khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, khoản 2 Điều
228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 167 Luật đất đai; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà
án xử:
Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất 03 giữa cụ Nguyễn Thị
Tho và anh Mạc Văn Phương ngày 20-12-2008 có hiệu lực pháp luật một phần.
Tuyên bố hợp đồng tặng cho của cụ Tho ngày 04-6-2011 vô hiệu.
Tuyên bố hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa ông Mạc Văn
Chương với ông Trần Đăng Bé ngày 13-11-2005 vô hiệu.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lưu Thị H. Buộc anh Trần
Đăng T phải trả lại cho các hàng thừa kế thứ nhất của cụ Lưu Hữu Đảng, cụ
Nguyễn Thị Tho gồm bà Trần Thị The, bà Lưu Thị Thắm, bà Lưu Thị Thía, ông
Lưu Hữu Ngoại, bà Lưu Thị H diện tích 152m
2
đất tại thửa đất số 68, tờ bản đồ
số 13, thuộc xứ đồng Cầu Gỗ có địa chỉ ở thôn Đồng Quan, xã Quang Thành, thị
xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương được giới hạn theo các điểm A2, A3, A4, B1, B2
(có sơ đồ kèm theo).
Các đương sự có trách nhiệm làm thủ tục đăng ký biến động đất đai và tài sản
gắn liền với đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Về giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu: Các đương sự không yêu cầu
giải quyết hậu quả nên không xét.
Về án phí: Anh Trần Đăng T phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại
cho bà Lưu Thị H 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002347 ngày
05-4-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Kinh Môn.
Về quyền kháng cáo: Bà Lưu Thị H, ông Lưu Hữu Ngoại có mặt có
mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Anh Trần Đăng T, anh Mạc Văn Phương, bà Lưu Thị Thía vắng mặt khi
tuyên án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc khi bản án được niêm yết.
14
Nơi nhận:
- VKSND thị xã Kinh Môn;
- Chi cục THADS TX Kinh Môn;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thu Hằng
SƠ ĐỒ PHÂN CHIA THỬA ĐẤT
15
Kèm theo Bản án sơ thẩm số 30/2024/DS - ST ngày 30-9-2024 của Tòa án
nhân dân thị xã Kinh Môn.
Ghi chú:
-
Tổng diện tích thửa đất thửa đất số 68, tờ bản đồ số 13= 304m
2.
- Phần diện tích giao cho bà H, bà Thía, ông Ngoại, bà The, bà Thắm S1 = 152m
2
được
giới hạn bởi các điểm: A2, A3, A4, B1, B2.
- Phận diện tích giao cho anh T S2 =152m
2
được giới hạn bởi các điểm: B2, B1, A5, A1.
Tải về
Bản án số 30/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 30/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm