Bản án số 29/DS-PT ngày 30/09/2025 của TAND tỉnh Sơn La về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 29/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 29/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 29/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 29/DS-PT ngày 30/09/2025 của TAND tỉnh Sơn La về tranh chấp đất đai |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sơn La |
| Số hiệu: | 29/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 30/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Nguyên đơn bà Nguyễn Thị K khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn H yêu cầu trả lại diện tích đất mà ông Nguyễn Văn H lấn sang nhà bà Nguyễn Thị K với 2,4m mặt đường, chiều sâu dọc nhà là 20m, tổng diện tích lấn chiếm là 48m2 . Địa chỉ thửa đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SƠN LA
Bản án số: 29/2025/DS-PT
Ngày 29 - 9 - 2025
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đỗ Tuấn Long.
Các Thẩm phán: Ông Phạm Tuấn Minh - Bà Lại Thị Hiếu.
- Thư ký phiên tòa: Ông Sòi Ngọc An Sơn - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Sơn La.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La tham gia phiên toà: Bà
Phạm Thị Minh Thu - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử
công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 42/2025/TLPT-DS ngày 03 tháng 9
năm 2025 về việc; Tranh chấp quyền sử dụng đất. Do Bản án dân sự sơ thẩm số:
01/2025/DS-ST ngày 23 tháng 7 năm 2025 của Toà án nhân dân khu vực 1, Sơn
La bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:
43/2025/QĐ-PT ngày 09 tháng 9 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa số:
48/2025/QĐ-PT ngày 23/9/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị K, sinh 1979; địa chỉ: Thôn ĐT, xã HH,
tỉnh Hưng Yên (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu M, sinh
năm 1941; địa chỉ: Tiểu khu 19/5 CN, xã Mai Sơn, tỉnh Sơn La (văn bản ủy
quyền ngày 16 tháng 12 năm 2024 và ngày 10 tháng 9 năm 2025) (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1973; địa chỉ: Tiểu khu 01, xã M
B, tỉnh Sơn La (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Hoàng Thị Ư, sinh năm 1941; địa chỉ: Số nhà 615, tổ 3, phường C S,
tỉnh Sơn La (có đơn xin xét xử vắng mặt).
+ Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1969; địa chỉ: Tiểu khu , xã MB, tỉnh Sơn
La (có đơn xin xét xử vắng mặt).
+ Ông Lò Văn C; địa chỉ: Bản HB, xã MB, tỉnh Sơn La (vắng mặt).
2
+ Ông Lò Văn P; địa chỉ: Bản HB, xã MB, tỉnh Sơn La (vắng mặt).
- Người kháng cáo:
+ Bị đơn - Ông Nguyễn Văn H.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Bà Hoàng Thị Ư, ông Nguyễn
Văn T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo nội dung đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị K và người đại diện
theo ủy quyền ông Nguyễn Hữu M trình bày yêu cầu khởi kiện như sau:
Bà Nguyễn Thị K được cấp đất tái định cư diện tích đất ở là 100m². Thửa
đất 18; tờ bản đồ số: 2; được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo
Quyết định số: 2030/QĐ-UBND ngày 31/12/2004 của Ủy ban nhân dân huyện
Mường La, tỉnh Sơn La (đất khu tái định cư bản giàn); địa chỉ thửa đất: Bản Gn
xã MB, huyện Mường La, tỉnh Sơn La nay là bản G, xã MB, tỉnh Sơn La. Đất có
tứ cạnh tiếp giáp: Phía nam giáp đường quốc lộ 279D rộng 5m, phía bắc giáp
khu quy hoạnh dân cư là 5m; phía đông giáp đất ông C dài 20m (nay là đất ông
Nguyễn Văn H); phía tây giáp đất bà Trần Thị T, ông Phạm Văn V dài 20m.
Đến năm 2007 bà phát hiện ra việc ông Nguyễn Văn H hộ liền kề thửa 19 lấn
sang đất nhà bà, gia đình bà đã yêu cầu các cấp chính quyền giải quyết nhưng
chưa giải quyết xong. Sau đó bà đi lao động ở nước ngoài, đến năm 2022 gia
đình bà tiếp tục yêu cầu gia đình ông Nguyễn Văn H trả lại diện tích đất lấn sang
nhà bà mặt đường là 2,4m chiều sâu dọc nhà là 20m, diện tích đất là 48m². Bà đã
đề nghị chính quyền địa phương can thiệp giải quyết nhiều lần, nhưng ông
Nguyễn Văn H không chấp hành. Nay bà Nguyễn Thị K yêu cầu Tòa án giải
quyết buộc ông Nguyễn Văn H phải tháo rỡ ngôi nhà tạm làm trái phép trả đúng,
đủ diện tích đất là 48m². chiều mặt đường là 2,4m chiều sâu dọc nhà là 20m.
Bà Nguyễn Thị K cung cấp chứng cứ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
theo Quyết định số: 2030/QĐ-UBND ngày 31/12/2004 của Ủy ban nhân dân
huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Sơ đồ đất khu tái định cư bản G.
* Bị đơn ông Nguyễn Văn H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan tham gia tố tụng với bị đơn bà Hoàng thị Ư (mẹ ông H), ông Nguyễn Văn
Th (anh ông H) đều từ chối trình bày. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ, ý kiến
cơ sở xác định:
Thửa đất của gia đình ông Nguyễn Văn H với diện tích 100m², mặt đường
dài 5m, sâu 20m ở bản G, xã MB, huyện Mường La, tỉnh Sơn La là do bố đẻ là
ông Nguyễn Văn T mua lại của hai ông Lò Văn C và ông Lò Văn Pg năm 2005.
Sau ông T mất để lại thửa đất cho ông Nguyễn Văn H, giấy chứng nhận quyền
sở dụng đất ông Nguyễn Văn H là người được hưởng và đang giữ.
Về yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K và ông Nguyễn Hữu M cho
rằng phần đất và nhà của ông lấn sang phần đất của bà K là 2,4m mặt đường và
3
sâu 20m. Trên đất có nhà xây tạm, phải tháo rỡ trả lại đất cho bà Nguyễn Thị K.
Theo lời nói trình bày của ông Nguyễn Văn H, bà Hoàng thị Ư (mẹ ông H), ông
Nguyễn Văn T (anh ông H) thì do hộ bên cạnh lấn sang phần đất gia đình ông bà,
nên ông bà mới lấn sang phần đất của bà K, nếu đã giải quyết thì phải giải quyết
hết. Ông Nguyễn Văn H không xuất trình Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
cho rằng không lấn chiếm đất của bà Nguyễn Thị K. Nên không nhất đồng ý trả
lại thửa đất 48m² đang tranh chấp cho bà Nguyễn Thị K.
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lò Văn C và ông Lò
Văn P trình bày:
Ông Lò Văn P được nhà nước cấp đất tái định cư ở bản Gi, xã MB, huyện
Mường La, tỉnh Sơn La (nay là xã Mường Bú, Sơn La) với diện tích 100m², mặt
đường QL279D dài 5m, sâu 20m. Năm 2005 ông có cho em vợ là ông Lò Văn C
Ông Lò Văn C trình bày là sau khi được anh vợ cho đất đến năm 2005 đã
bán, chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Văn T tiểu khu 1, xã MB, huyện
Mường La, tỉnh Sơn La với số tiền 70.000.000 đồng. Ông đã nhận đủ tiền và đã
giao đất và giấy chứng nhận quyền sở dụng đất cho ông Nguyễn Văn T. Hai ông
xác nhận việc gia đình ông T có sang tên bìa đỏ không hai ông không biết, hiện
thửa đất này có tranh chấp với hộ liền kề (bà K) hai ông không biết và không
liên quan. Thời điểm giao đất không có tranh chấp hay lấn chiếm.
* Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2025/DS - ST ngày 23 tháng 7 năm
2025 của Toà án nhân dân khu vực 1- Sơn La đã xét xử và Quyết định:
Căn cứ Điều 12, khoản 1 Điều 170 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 11,
khoản 1 Điều 31 của Luật Đất đai năm 2024; Điều 175, Điều 176 của Bộ luật
Dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 158;
điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều
26; điểm a khoản 2 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án:
1. Buộc ông Nguyễn Văn H phải tháo rỡ công trình nhà dạng khung sắt,
một bên tường 110mm, tiếp liền sau là công trình phụ xây tường gạch ba vanh,
lợp tôn trên đất để trả lại cho bà Nguyễn Thị Kn diện tích đất 48m² có vị trí, kích
thước:
Phía nam giáp đường quốc lộ 279D rộng 2,4m, phía bắc (phía sau) giáp
khu quy hoạnh dân cư là 2,4m; Phía đông giáp đất ông Nguyễn Văn H dài 20m;
phía tây giáp đất bà Nguyễn Thị K dài 20m.
Để đủ diện tích đất ở là 100m², Thửa đất 18; Tờ bản đồ số: 2; được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo Quyết định số: 2030/QĐ-UBND ngày
31/12/2004 của Ủy ban nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La (đất khu tái
định cư bản G); địa chỉ thửa đất: Bản G xã MB, huyện Mường La, tỉnh Sơn La
nay là bản G, xã MB, tỉnh Sơn La. (Có sơ đồ chi tiết kèm theo).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm, quyền kháng
cáo cho các đương sự theo quy định.
4
Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị K và người đại diện
theo ủy quyền ông Nguyễn Hữu M nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm,
không kháng cáo; Viện kiểm sát không kháng nghị.
Do không nhất trí bản án sơ thẩm, ngày 01/8/2025, bị đơn ông Nguyễn Văn
H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị Ư, ông Nguyễn Văn T
có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm và đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm sửa hoặc hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm trên theo hướng bác toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn ông Nguyễn Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị Ư, ông Nguyễn Văn
T có ý kiến thông qua đơn xin xét xử vắng mặt; Giữ nguyên nội dung kháng cáo
đề nghị chấp nhận toàn bộ kháng cáo, hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số:
01/2025/DS - ST ngày 23 tháng 7 năm 2025 của Toà án nhân dân khu vực 1-
tỉnh Sơn La.
Đại diện ủy quyền của nguyên đơn: Đề nghị không chấp nhận kháng cáo
của bị đơn ông Nguyễn Văn H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng
Thị Ư, ông Nguyễn Văn T.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa
và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý
cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về quan điểm quyết vụ án: Người kháng cáo bị đơn ông Nguyễn Văn H đã
được Tòa án niêm yết văn bản tố tụng hợp lệ và triệu tập hợp lệ lần thứ hai
nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng coi như từ bỏ việc kháng cáo. Căn
cứ khoản 3 Điều 296, khoản 5 Điều 308, khoản 2 Điều 312 Bộ luật Tố tụng đân
sự. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng
cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H.
Đơn kháng cáo của người có quyền lợi liên quan bà Hoàng Thị Ư, ông
Nguyễn Văn T trong hạn luật định đảm bảo về hình thức, không có căn cứ chấp
nhận về nội dung.
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị không chấp
nhận đơn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị Ư,
ông Nguyễn Văn T. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2025/DS-ST
ngày 23/7/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1 - Sơn La.
Về án phí phúc thẩm: Bị đơn ông Nguyễn Văn H, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T phải chịu án phí phúc thẩm do kháng cáo
không được chấp nhận.
Bà Hoàng Thị Ư là người cao tuổi đề nghị miễn án phí dân sự phúc thẩm.
5
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình bày của
các đương sự; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; quan điểm giải quyết
vụ án của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà
Nguyễn Thị K khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn H yêu cầu trả lại diện tích đất
mà ông Nguyễn Văn H lấn sang nhà bà Nguyễn Thị K với 2,4m mặt đường,
chiều sâu dọc nhà là 20m, tổng diện tích lấn chiếm là 48m
2
. Địa chỉ thửa đất:
Bản G xã MB, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Bị đơn ông Nguyễn Văn H có địa
chỉ tại tiểu khu 1, xã MB, tỉnh Sơn La. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ
pháp luật là “Tranh chấp quyền sử dụng đất” là có căn cứ, đúng quy định, đúng
thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a
khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn ông Nguyễn Văn H, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị Ư, ông Nguyễn Văn T không nhất trí với
nội dung của bản án sơ thẩm, có đơn kháng cáo và nộp tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm theo thông báo của Tòa án trong hạn luật định. Xét đơn kháng cáo của bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thời hạn luật định, thực hiện
đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người kháng cáo theo quy định tại Điều 271, Điều
272, Điều 273, Điều 276 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo của bị đơn,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được chấp nhận xem xét theo trình tự, thủ
tục phúc thẩm.
[1.3] Người kháng cáo bà Hoàng Thị Ư, ông Nguyễn Văn T là người có
quyền lợi liên quan, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, có đơn đề nghị
xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án
tiến hành phiên tòa xét xử vắng mặt.
Người kháng cáo bị đơn ông Nguyễn Văn H đã được Tòa án niêm yết văn
bản tố tụng hợp lệ và triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do
chính đáng coi như từ bỏ việc kháng cáo. Căn cứ khoản 3 Điều 296, khoản 5
Điều 308, khoản 2 Điều 312 Bộ luật Tố tụng đân sự. Hội đồng xét xử phúc thẩm,
đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H.
[2] Xét nội dung kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Hoàng Thị Ư, ông Nguyễn Văn T không đồng ý với toàn bộ Bản án dân sự sơ
thẩm cho rằng: Việc buộc gia đình phải tháo dỡ công trình nhà dạng khung sắt,
một bên tường 110mm, tiếp liền sau là công trình phụ xây tường gạch ba vanh,
lợp tôn trên đất để trả lại cho bà Nguyễn Thị K diện tích 48m
2
là xâm phạm
quyền sử dụng đất, quyền về chỗ ở của gia đình ông H. Quyền sử dụng đất của
ông Nguyễn Văn H còn lại là 2,75 m giáp đất đường quốc lộ không đủ diện tích
đất để tách thửa và không đủ diện tích đất đã cấp cho ông Nguyễn Văn H theo
6
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm
không xem xét, triệu tập những người có liên quan là hộ giáp ranh xung quanh
khu đất có tranh chấp tham gia phiên tòa là không giải quyết khách quan toàn
diện vụ án. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm trên theo
hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, để đảm bảo quyền lợi ích
hợp pháp.
[2.1] Về nguồn gốc đất tranh chấp:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị K được Nhà nước cấp đất tái định cư theo
Quyết định số 2030/QĐ-UBND ngày 31/12/2004 của UBND huyện Mường La,
tỉnh Sơn La. Bà K được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích
100m² tại Thửa số 18, Tờ bản đồ số 2, thuộc bản G, xã MB, tỉnh Sơn La. Việc
cấp đất, giao đất và xác lập quyền sử dụng đất của bà K là hợp pháp, đúng trình
tự, được thể hiện qua các tài liệu: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sơ đồ
khu tái định cư và các xác nhận của cơ quan chuyên môn địa phương.
Các thông tin đo đạc, mô tả ranh giới thửa đất trong hồ sơ địa chính thể
hiện rõ: Mặt phía nam giáp quốc lộ 279D dài 5m; phía đông giáp đất ông
Nguyễn Văn H dài 20m, phía bắc giáp khu quy hoạch khu dân cư, phía tây giáp
đất bà Trần Thị T, ông Phạm Văn V dài 20m.
Tại biên bản, kiểm tra xác minh diện tích đất ngoài thực địa tại diện tích
đất tranh chấp của phòng Tài nguyên và Môi trường Ủy ban nhân dân huyện
Mường La ngày 28/9/2022 thể hiện: Vị trí thửa số 17 của hộ bà Trần Thị T. Ông
Phạm Văn V xây dựng nhà kiên cố năm 2011, được cấp phép xây dựng đúng
quy định, diện tích xây dựng và sử dụng đất đúng đủ diện tích và khoảng cách là
5m, không lấn chiếm và sảy ra tranh chấp với các hộ giáp ranh. Tại thửa đất số
18 trên thực tế đo đạc còn 2,6m theo mặt đường QL279D thiếu 2,4m so với
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà Nguyễn Thị K.
Tại Văn bản số 3725/UBND-THMT ngày 04/8/2024 của UBND huyện
Mường La, tỉnh Sơn La xác định: Qua kiểm tra, xác minh thực địa, tại thửa số
18, tờ bản đồ số 02 bản G, xã MB, huyện Mường La, tỉnh Sơn La đã bị hộ gia
đình liền kề lấn chiếm đất.
Diện tích đất bà K được cấp quyền sử dụng đất đang thực tế sử dụng
phần đất mặt đường 2,6m, thiếu hụt 2,4m về phía giáp đất nhà ông Nguyễn Văn
H. Qua xác minh thực địa, đo đạc, biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và sơ đồ
hiện trạng kèm theo, Tòa án sơ thẩm đã xác định phần đất tranh chấp có diện
tích 48m² ông Nguyễn Văn H đang quản lý sử dụng nằm trong phần đất đã được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị K. Trong khi đó,
ông Nguyễn Văn H không cung cấp được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hợp pháp hoặc bất kỳ tài liệu nào chứng minh quyền sử dụng hợp pháp đối với
phần đất 48m² đang bị khiếu kiện. Việc ông cho rằng gia đình mình sử dụng đất
ổn định, không lấn chiếm là không có căn cứ, vì toàn bộ phần đất này nằm trong
7
thửa đất của bà K đã được cơ quan Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
[2.2] Về hành vi lấn chiếm đất:
Căn cứ vào Điều 12 và khoản 1 Điều 170 của Luật Đất đai năm 2013,
Điều 11, khoản 1 Điều 31 Luật đất đai năm 2024. Người sử dụng đất có nghĩa
vụ tôn trọng ranh giới thửa đất, không được xâm phạm quyền sử dụng đất hợp
pháp của người khác. Điều 175, Điều 176 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy
định rõ về xác lập và bảo vệ ranh giới quyền sử dụng đất liền kề. Bà K đã nhiều
lần yêu cầu ông H trả lại phần đất lấn chiếm, nhưng không được đáp ứng. Việc
ông Nguyễn Văn H xây dựng công trình nhà ở tạm (khung sắt, tường xây gạch)
trên phần đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà K là hành vi xâm phạm
quyền sử dụng đất của người khác, vi phạm pháp luật về đất đai và dân sự.
Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ cụ thể và kết quả
đo đạc thực tế để xác định rõ phần diện tích bị lấn chiếm và tuyên buộc ông
Nguyễn Văn H tháo dỡ công trình xây dựng, trả lại đất cho bà Nguyễn Thị K là
hoàn toàn có cơ sở, phù hợp quy định pháp luật.
[2.3] Đối với ý kiến cho rằng Bản án sơ thẩm xâm phạm quyền sở hữu,
chỗ ở của ông Nguyễn Văn H:
Quyền về chỗ ở chỉ được pháp luật bảo vệ khi việc cư trú hoặc xây dựng
nhà ở được thực hiện trên đất hợp pháp. Phần diện tích mà ông Học đang sử
dụng là đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà K, đã được Nhà nước công
nhận, do đó, ông H không thể viện dẫn quyền về chỗ ở để bảo vệ hành vi vi
phạm.
[2.4] Đối với ý kiến cho rằng Tòa án sơ thẩm chưa triệu tập đầy đủ người
liên quan:
Những người có liên quan đến nguồn gốc đất như ông Lò Văn C, ông Lò
Văn P đều đã có lời khai thể hiện rõ: Đất được mua bán, chuyển nhượng cho
ông Nguyễn Văn T (bố ông Hc) là hợp pháp, không có tranh chấp tại thời điểm
giao đất. Họ không còn quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến phần đất tranh chấp
hiện nay. Các hộ giáp ranh còn lại cũng không có khiếu nại hoặc tranh chấp và
không ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung giải quyết vụ án.
[3] Từ những phân tích, nhận định nêu trên, xét thấy không có căn cứ
chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị
Ư, ông Nguyễn Văn T, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2025/DS - ST
ngày 23 tháng 7 năm 2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1 - Sơn La và phù hợp
với quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La
tại phiên toà.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn
Văn H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T không
được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
8
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị Ư được miễn án phí
dân sự phúc thẩm do là người cao tuổi.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3, Điều 296, khoản 1, khoản 5 Điều 308, Điều 312, Điều
148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 12, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án:
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông
Nguyễn Văn H.
2. Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Hoàng Thị Ư, ông Nguyễn Văn T, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm
số: 01/2025/DS - ST ngày 23/7/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1 - Sơn La.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Bị đơn ông Nguyễn Văn H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo biên lai thu số 0000143 ngày 01/8/2025 của Thi hành án dân sự tỉnh Sơn
La.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ
vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000142 ngày 01/8/2025
của Thi hành án dân sự tỉnh Sơn La.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị Ư được miễn án
phí dân sự phúc thẩm.
4. Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
(ngày 29/9/2025).
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,
7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
9
Phạm Tuấn Minh Lại Thị Hiếu
Đỗ Tuấn Long
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Sơn La;
- TAND khu vực 1 – Sơn La;
- THADS tỉnh Sơn La;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Tuấn Long
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 11/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 24/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm