Bản án số 02/2025/DS-ST ngày 27/06/2025 của TAND tỉnh Lai Châu về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 02/2025/DS-ST ngày 27/06/2025 của TAND tỉnh Lai Châu về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lai Châu |
Số hiệu: | 02/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LAI CHÂU
Bản án số: 02/2025/DS-ST
Ngày: 27-6-2025
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Hà;
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Hà Thị Nở;
Bà Vũ Thị Huyền.
- Thư ký phiên tòa: Bà Trịnh Thị Huế- Thẩm tra viên Tòa án nhân dân tỉnh Lai
Châu;
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu tham gia phiên tòa: Bà
Hồ Mỹ Anh - Kiểm sát viên;
Ngày 27 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử
sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2024/TLST-DS ngày
08/11/2024 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2025/QĐXXST-DS ngày 06
tháng 5 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2025/QĐST-DS, ngày
06/6/2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức C, sinh năm 19xx; địa chỉ: phường Đ,
thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Trần Thị H1 – luật sư - Văn
phòng luật sư Trần H1- đoàn luật sư Tỉnh Lai Châu; địa chỉ: phường T, thành phố
Lai Châu, tỉnh Lai Châu (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Xuân Q, sinh năm 19xx; địa chỉ: phưởng Đ, thành
phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Đức C1, sinh năm 19xx; địa chỉ: phường Đ, thành phố Lai
Châu, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).
3.2. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 19xx; địa chỉ: phường Đ, thành phố Lai
Châu, tỉnh Lai Châu (có mặt).
3.3. Ủy ban nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu: Người đại diện
theo pháp luật: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Lai Châu. Đại diện theo ủy
quyền: ông Đỗ Văn X; chức vụ: Phó Chủ tịch; địa chỉ: phường Q, thành phố Lai
Châu, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân thành phố Lai
Châu, tỉnh Lai Châu: ông Đoàn Văn T; chức vụ: Phó trưởng phòng phòng Tài
nguyên và Môi trường thành phố Lai Châu (có mặt).
3.4. Văn phòng Đăng ký đất đai – Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai
Châu: Đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn H2; chức vụ: Giám đốc; địa chỉ:
phường T, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).
2
3.5. Ủy ban nhân dân phường Đoàn Kết: Đại diện theo pháp luật: ông Phạm
Tiến D; chức vụ: Chủ tịch; địa chỉ: phường Đ, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu
(vắng mặt).
Người làm chứng: ông Đặng Xuân C2, sinh năm 19xx; Địa chỉ: phường T,
thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/11/2023, đơn sửa đổi bổ dung đơn khởi kiện
ngày 04/11/2024, bản tự khai và các lời khai tiếp theo tại phiên tòa nguyên đơn,
đại diện của nguyên đơn trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 121 diện tích 260,6m
2
và thửa đất số 123 diện tích
113,4m
2
(thửa đất số 121 diện tích 260,6m
2
và thửa đất số 123 diện tích 113,4m
2
viết tắt thửa 121, 123) cùng tờ bản đồ số 05, tổ 11, phường Đoàn Kết, thành phố
Lai Châu, tỉnh Lai Châu, mục đích sử dụng: BHK đất bằng trồng cây hàng năm
khác (thửa 121, 123 mà nguyên đơn đề nghị xác định quyền sử dụng cho nguyên
đơn) là của ông Nguyễn Đức C1 và bà Nguyễn Thị H khai hoang sử dụng. Năm
2004, ông C1, bà H chuyển nhượng cho ông Đặng Xuân Chung, thửa đất tiếp tục
được chuyển nhượng cho nhiều chủ sử dụng khác. Các lần chuyển nhượng thửa
121, 123 được lập bằng văn bản viết tay nhưng không có công chứng, chứng thực
vì đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất chưa được kê khai
với cơ quan nhà nước.
Tháng 4 năm 2021, nguyên đơn nhận chuyển nhượng hai thửa đất trên: 01
thửa của ông Nguyễn Tiến M, 01 thửa của ông Nguyễn Văn T, việc chuyển nhượng
có giấy viết tay không công chứng, chứng thực. Sau khi nhận chuyển nhượng cũng
trong năm 2021, Ủy ban nhân dân (Ủy ban nhân dân viết tắt UBND) phường Đoàn
Kết triển khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất viết tắt GCNQSDĐ) đồng loạt theo đề án đo đạc cấp giấy chứng nhận cho
các hộ dân có nhu cầu.
Năm 2022, UBND phường Đoàn Kết tổ chức họp dân, quán triệt theo Luật
Đất đai trường hợp đất của nguyên đơn ông C phải quy về chủ cũ mới đủ điều kiện
cấp giấy chứng nhận. Để thuận tiện cho việc cấp giấy chứng nhận ông C gặp và
trao đổi với ông C1, bà H (chủ đất cũ) đứng tên trong GCNQSDĐ, sau đó chuyển
lại cho ông C, mọi chi phí cấp giấy chứng nhận ông có trách nhiệm chi trả, bồi
dưỡng và được ông C1, bà H đồng ý. Ông C1 nhận được GCNQSDĐ mang tên hộ
ông Nguyễn Đức C1, bà Nguyễn Thị H đã đưa cho ông C quản lý, cất giữ. Theo
thỏa thuận ông C và ông C1, bà H làm thủ tục chuyển nhượng để sang tên cho ông
C nhưng vì giấy chứng nhận cấp cho hộ gia đình nên có một thành viên trong gia
đình ông C1 là anh Nguyễn Xuân Q không ký thủ tục chuyển nhượng dẫn đến tranh
chấp. Ông C cho rằng anh Q biết rõ việc thửa 121, 123 đã chuyển nhượng mà
không phản đối gì, nhưng làm thủ tục chuyển nhượng lại thì không đồng ý ký. Vì
vậy, ông C đề nghị Tòa án xác định ông là người sử dụng thửa đất 121, 123. Tại
phiên tòa nguyên đơn thay đổi đề nghị công nhận quyền sử dụng thửa 121, 123 cho
nguyên đơn đồng thời đề nghị hủy hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho
hộ ông Nguyễn Đức C1 và bà Nguyễn Thị H vì đất cấp sai đối tượng.
Bị đơn có ý kiến trong hồ sơ: Hai thửa đất 121, 123 cùng tờ bản đồ số 05, tổ
11, phường Đoàn Kết, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu đã được ông C1, bà H
bán từ năm 2004. Năm 2022, hai thửa đất được cấp GCNQSDĐ mang tên bố, mẹ
anh là ông C1, bà H. Bố mẹ anh không chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông
C, anh không biết vì sao bố mẹ anh lại đứng tên trong GCNQSDĐ thửa 121, 123.
3
Anh và gia đình không tranh chấp gì với ông C nên không đồng ý yêu cầu khởi
kiện của ông C.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông C1 có lời trình bày trong hồ sơ:
Thửa 121, 123 có nguồn gốc là của gia đình ông khai hoang, sử dụng ổn định từ
năm 1987 đến năm 2004. Khoảng tháng 02 năm 2004, bà H chuyển nhượng cho
ông Đặng Xuân C2, chuyển nhượng bằng giấy viết tay, không công chứng, chứng
thực, đất chưa có GCNQSDĐ. Sau nay ông C2 chuyển nhượng cho nhưng ai ông
không biết. Năm 2022, ông C gặp ông, bà đặt vấn đề nhờ đứng tên làm thủ tục cấp
giấy chứng nhận thì ông mới biết ông C là người nhận chuyển nhượng cuối cùng và
là người đang trực tiếp quản lý, sử dụng. Vợ chồng ông và ông C có thỏa thuận
miệng với nhau về việc vợ chồng ông đứng tên làm GCNQSDĐ với cơ quan chính
quyền, sau đó chuyển nhượng lại cho ông C thì ông C sẽ bồi dưỡng công và chịu
mọi chi phí. Sau khi được cấp giấy chứng nhận ông trực tiếp đưa hai giấy chứng
nhận cho ông C tại Văn phòng đăng ký đất đai Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Lai
Châu. Tháng 01/2023 ông C và vợ chồng ông cùng làm thủ tục chuyển nhượng cho
ông C tại phòng công chứng thì mới biết phải có con trai ông là anh Q cùng ký hợp
đồng chuyển nhượng đất. Lúc này con trai ông, bà không nhất trí ký tên nên vợ
chồng ông, bà chưa chuyển nhượng quyền sử dụng đất trả lại cho ông C. Ông thừa
nhận thửa đất trên ông không tranh chấp, hiện ông C là người quản lý sử dụng.
Bà H có lời trình bày thống nhất lời trình bày của ông C1: Bà thừa nhận
thửa đất 121, 123 bà ký trong giấy chuyển nhượng cho ông C2 từ năm 2004, hiện
nay đất do ông C quản lý. Ông C nhờ vợ chồng ông, bà đứng tên nên ông, bà đứng
tên giúp. Hiện trạng trên đất cỏ mọc dại ông C chưa trồng trọt gì. Gia đình bà
không tranh chấp đất với ông C, việc ông C có lời nói xúc phạm gia đình bà nên
con trai bà là anh Q không đồng ý ký lại hợp đồng chuyển nhượng. Thửa 121, 123
nhà nước đã cấp giấy chứng nhận cho gia đình bà mà ông C không xin lỗi, không
hòa giải thì bà không đồng ý hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ủy ban nhân dân phường Đoàn Kết trình bày: Qua xác minh từ ý kiến trình
bày của ông Nguyễn Đức C1, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Đức C và một số hộ
dân sinh sống lâu đời tại khu vực, nguồn gốc thửa 121, 123 của ông C1, bà H khai
hoang từ năm 1987, sau đó chuyển nhượng cho các chủ sử dụng, người cuối cùng
là ông C
Thực hiện dự án đo đạc bổ sung, đo đạc chỉnh lý, lập hồ sơ địa chính, cấp
GCNQSDĐ ở, đất sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản tại một số khu vực
trên địa bàn xã, phường, thành phố Lai Châu, UBND phường Đoàn Kết đã thành
lập Hội đồng xét cấp GCNQSDĐ cho các hộ dân trên địa bàn trong đó có hồ sơ của
thửa 121, 123. Tại thời điểm xét cấp giấy chứng nhận gia đình ông C có trình bày
việc mua bán, chuyển nhượng qua các hộ trung gian, ông C cung cấp giấy chuyển
nhượng giữa ông Đặng Xuân C2 và bà Nguyễn Thị H năm 2004, nhưng giấy có nội
dung không đúng: Giấy viết ngày 18/02/2004, nhưng địa chỉ ghi tổ 11 phường
Đoàn Kết thị xã Lai Châu và tổ 3 phường Quyết Thắng, thị xã Lai Châu là không
hợp lý vì thời điểm tháng 02/2004 chưa có tổ 11 phường Đoàn Kết, lúc đó là khối
Phong Châu II, thị trấn Tam Đường thuộc huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu; ông
C nhận chuyển nhượng năm 2021, chuyển nhượng có hợp đồng nhưng không công
chứng, chứng thực nên không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận. Do, hai gia đình
ông C1, bà H và ông C đã thỏa thuận quy chủ sau đó làm hợp đồng chuyển nhượng
theo quy định nên Hội đồng xét cấp giấy chứng nhận của UBND phường Đoàn Kết
đã họp xét thông qua và xác nhận hồ sơ gửi cấp có thẩm quyền thẩm định. Vì vậy,
về quy trình, trình tự thủ tục cấp GCNQSDĐ đối với thửa 121, 123 cho hộ ông
Nguyễn Đức C1 và bà Nguyễn Thị H là đảm bảo theo quy định, nhưng về đối
tượng sử dụng đăng ký cấp giấy chứng nhận là chưa chính xác vì thực tế hai thửa

4
đất trên ông C1, bà H đã chuyển nhượng từ năm 2004, hiện tại ông Nguyễn Đức C
là người quản lý sử dụng từ năm 2021 đến nay. UBND phường Đoàn Kết đề nghị
thu hồi và hủy hai giấy chứng nhận đã cấp đối với thửa 121, 123 có số CX 453232
và số CX 453237 do UBND thành phố cấp ngày 30/12/2022 mang tên hộ ông
Nguyễn Đức C1 và bà Nguyễn Thị H theo quy định của pháp luật.
Văn phòng Đăng ký đất đai – Sở Tài nguyên và Môi trường có văn bản trình
bày: Thửa 121, 123 được cấp giấy chứng nhận theo dự án do UBND thành phố Lai
Châu là chủ đầu tư. Theo quy trình tự hồ sơ được lập tại UBND phường Đoàn Kết
sau đó chuyển lên Văn phòng Đăng ký đất đai kiểm tra hồ sơ, trình phòng Tài
nguyên và Môi trường thẩm định, trình UBND thành phố ký giấy chứng nhận. Về
trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông
Nguyễn Đức C1, bà Nguyễn Thị H là đảm bảo theo quy định của Luật Đất đai
2013. Quá trình giải quyết đã xác định thửa 121, 123 đã được ông Nguyễn Đức
C1, bà Nguyễn Thị H chuyển nhượng cho người khác và hiện ông C1, bà H không
quản lý sử dụng thì đối tượng cấp cấp giấy chứng nhận cho ông C1 và bà H là chưa
đảm bảo theo Điều 99 Luật Đất đai 2013.
Người đại diện theo ủy quyền và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu
trình bày:
Thẩm quyền cấp giấy chứng nhận: Thửa đất số 121 tờ bản đồ số 05 diện tích
260,6m
2
được cấp GCNQSDĐ số: CX 453237, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH
02248 và thửa 123 tờ bản đồ số 05 diện tích diện tích 113,4m
2
được cấp
GCNQSDĐ số CX 453232, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 02249 đều do
UBND thành phố Lai Châu cấp ngày 30/12/2022 cho hộ ông Nguyễn Đức C1 và bà
Nguyễn Thị H, có mục đích sử dụng đất bằng trồng cây hàng năm khác (loại đất
nông nghiệp), đất cấp cho hộ gia đình là đúng thẩm quyền theo quy định của Luật
đất đai 2013.
Quy trình cấp giấy chứng nhận đối với thửa đất 121, 123 được UBND
phường Đoàn Kết lập hồ sơ xem xét, Văn phòng đăng ký đất đai- Sở Tài nguyên và
Môi trường thẩm định, trình UBND thành phố Lai Châu ký ban hành cấp giấy
chứng nhận. Các bước trình tự được các cơ quan chuyên môn thực hiện đúng Điều
70 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013. Theo pháp luật đất đai, cá nhân sử
dụng đất phải chịu trách nhiệm thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục hành chính về đất
đai và các nghĩa vụ tài chính nên bộ hồ sơ sau khi được các cơ quan khác thẩm
định đầy đủ, đúng quy định, UBND thành phố Lai Châu không chịu trách nhiệm về
những nội dung cơ quan trước đã thẩm định.
Vì vậy, về trình tự thủ tục bộ hồ sơ là đảm bảo, tuy nhiên qua lời trình bày
của các bên đương sự và quá trình tiếp cận tài liệu chứng cứ khi tham gia phiên tòa
đã xác định được rõ nguồn gốc thửa đất 121, 123 ban đầu do ông C1, bà H khai
hoang, nhưng ông C1, bà H đã chuyển nhượng cho người khác trước khi ông C1,
bà H đề nghị cấp giấy chứng nhận thì giấy chứng nhận đối với hai thửa đất 121,
123 đã cấp cho hộ ông C1 và bà H là không đúng đối tượng đề nghị Tòa án hủy hai
GCNQSDĐ cấp cho hộ ông Nguyễn Đức C1, bà Nguyễn Thị H đối với thửa 121,
123.
Ông C nhận chuyển nhượng hai thửa đất 121, 123 vào năm 2021, chuyển
nhượng khi thửa đất chưa có giấy chứng nhận là hành vi bị nghiêm cấm theo Điều
12 Luật đất đai 2013; chuyển nhượng sau ngày 01/1/2008 nên ông C không đủ điều
kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như không có căn cứ để công
nhận quyền sử dụng thửa đất 121, 123 cho ông C.
5
Toà án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
để các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ; các đương sự đều nhất trí, không có ý
kiến gì về tài liệu chứng cứ các đương sự đã giao nộp và tài liệu chứng cứ do Tòa
án thu thập. Vụ án không hòa giải được vì các đương sự đề nghị không hòa giải nên
Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa bà H mong muốn hòa giải
nhưng nguyên đơn đề nghị giải quyết theo pháp luật.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn giữ nguyên nội dung yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án công
nhận nguyên đơn có quyền sử dụng hai thửa đất liền kề cùng tờ bản đồ số 05, tổ 11,
phường Đoàn Kết, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu gồm thửa số 121, diện tích
260,6m
2
và thửa 123, diện tích 113,4m
2
, đất BHK, có tứ cận phía trước là đường,
phái sau là đồi, một cạnh giáp đất của ông Phạm Hùng H2, một cạnh giáp đất của
ông Phạm Văn T1. Thửa đất 121, 123 có nguồn gốc khai hoang, sau đó đã được các
bên chuyển nhượng hoàn tất thủ tục nhận đất, chuyển tiền, chuyển nhượng chưa
đảm bảo về hình thức nhưng các bên không tranh chấp hợp đồng, thửa đất được sử
dụng ổn định, không có tranh chấp, đất không vi phạm quy hoạch của địa phương;
việc bà H cho rằng hiện tại đất để cỏ mọc dại không trồng trọt gì đó là ý kiến của
bà H, vì từ khi nhận chuyển nhượng ông C đã tiếp quản, thực hiện thủ tục cấp giấy
chứng nhận nhưng khi được cấp giấy chứng nhận thì phát sinh tranh chấp nên ông
C chưa thực hiện được kế hoạch sử dụng của mình; do đó theo Điều 100, 101 Luật
Đất đai 2013, Nghị định số 01/2027/NĐ-CP, ngày 06 tháng 01/2017 nguyên đơn đủ
điều kiện để được công nhận quyền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận.
Đồng thời đề nghị hủy GCNQSDĐ đối với thửa đất 121,123 cùng địa chỉ tổ 11,
phường Đoàn Kết, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu do Ủy ban nhân dân thành
phố Lai Châu cấp ngày 30/12/2022 cho hộ ông Nguyễn Đức C1 và bà Nguyễn Thị
H vì sai đối tượng sử đụng đất.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà H cho rằng nhà nước đã cấp giấy
chứng nhận cho gia đình bà nên bà không đồng ý hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho UBND thành phố Lai Châu giữ
nguyên ý kiến không có căn cứ công nhận quyền sử dụng đất cho ông C theo khoản
52 Điều 2 Nghị định số 01/2027/NĐ-CP, ngày 06 tháng 01/2017 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai vì đất chưa có
GCNQQSDĐ, ông C nhận chuyển nhượng sau ngày 01/01/2008 và đề nghị hủy hai
GCNQSDĐ đã cấp đối với thửa đất 121, 123.
Đại diện Viện kiểm sát nhân tỉnh Lai Châu phát biểu ý kiến:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử từ khi
thụ lý đến phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Luật tố tụng dân sự. Những
người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình theo pháp
luật, riêng bị đơn và ông C1 chấp hành chưa đúng quy định của pháp luật tố tụng
dân sự.
- Về nội dung: Căn cứ các Điều 26, Điều 37, Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân
sự 2015; Điều 30 Luật đất đai năm 1993, Điều 691, Điều 692 Bộ luật dân sự năm
1995; Điều 127 Điều 689 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 123, Điều 502 Bộ luật
dân sự năm 2015, Điều 106, Điều 127 Luật Đất đai năm 2003; Điều 95, Điều 98,
Điều 99, Điều 101, Điều 105 Luật đất đai năm 2013; Điều 146 Nghị định
181/2004/NĐ–CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai năm
2003; Điều 70, Điều 82 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP (được sửa đổi bổ sung tại
Nghị định số 01 ngày 06/02/2017 của Chính phủ); Điều 8 Thông tư số 24/2014/TT-
BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về Hồ sơ địa

6
chính; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Đức C đối với
đề nghị Tòa án hủy hai GCNQSDĐ đối với hai thửa đất 121, 123 do Ủy ban nhân
dân thành phố Lai Châu cấp ngày 30/12/2022 cho hộ ông Nguyễn Đức C1 và bà
Nguyễn Thị H.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Đức C
đối với đề nghị Tòa án công nhận ông Nguyễn Đức C là người có quyền sử dụng
đất đối với hai thửa đất số 121 và 123.
- Về án phí, chi phí tố tụng dân sự sơ thẩm: Đề nghị hội đồng xét xử căn cứ
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
xác định trách nhiệm chịu án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng cho các đương sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa
và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Theo đơn khởi kiện nguyên đơn ông Nguyễn Đức C đề nghị Tòa án giải
quyết: Xác định nguyên đơn có quyền sử dụng thửa đất số 121, tờ bản đồ số 5, diện
tích 260,6m
2
và thửa đất số 123, tờ bản đồ số 5, diện tích 113,4m
2
cùng địa chỉ tổ
11, phường Đoàn Kết, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, loại đất BHK. Tại phiên
tòa nguyên đơn thay đổi đề nghị Tòa án: Công nhận quyền sử dụng đất, thay đổi
này không vượt quá phạm vi khởi kiện, đúng bản chất vụ án được chấp nhận.
Yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất thuộc loại vụ, việc chung về quyền sử
dụng đất. Đơn của nguyên đã được gửi đến UBND phường Đoàn Kết để hòa giải
nhưng UBND phường Đoàn Kết hòa giải không thành (hòa giải tại UBND phường
Đoàn Kết tháng 11 năm 2023) thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Trước khi tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, nguyên đơn bổ sung yêu
cầu đề nghị Tòa án giải quyết: Hủy hai giấy chứng nhận quyền sử sụng đất có số
phát hành: CX 453237, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: CH
02248, đối với thửa số 121, tờ bản đồ số 05, diện tích 260,6m
2
và CX 453232, số
vào sổ cấp giấy chứng nhận quyến sử dụng đất CH 02249 thửa 123, tờ bản đồ số
05, diện tích 113,4m
2
, cùng địa chỉ tổ 11, phường Đoàn Kết, thành phố Lai Châu,
tỉnh Lai Châu, cùng do Ủy ban nhân dân thành phố Lai Châu cấp ngày 30/12/2022
cho hộ ông Nguyễn Đức C1 và bà Nguyễn Thị H.
Vì vậy, quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp quyền sử dụng đất và
yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu theo quy định tại khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều
37 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính và Điều
202, Điều 203 Luật Đất đai 2013.
[1.2]. Tại phiên tòa nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
(ông C1, UBND thành phố Lai Châu, UBND phường Đoàn Kết, Văn phòng đăng ký
đất đai- Sở Tài nguyên Môi trường) đều vắng mặt. Xét thấy, nguyên đơn có người đại
diện, bị đơn và ông C1 được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không
có lý do, UBND thành phố Lai Châu vắng có đơn xin xét xử vắng mặt đồng thời đã có
người người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình có mặt, UBND phường Đoàn
Kết và Văn phòng đăng ký đất đai- Sở Tài nguyên Môi trường vắng có đơn xin xét xử

7
vắng mặt. Các đương sự vắng mặt không thuộc trường hợp phải hoãn phiên tòa và
trong hồ sơ đã có đầy đủ lời khai của những người vắng nên Hội đồng xét xử tiến
hành xét xử theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Nội dung
Các đương sự đều thống nhất ví trí, diện tích, ranh giới hai thửa đất tranh
chấp trong vụ án đã rõ ràng, đúng sơ đồ hiện trạng như trong hồ sơ đề nghị cấp
GCNQSDĐ là hai thửa đất liền kề cùng tờ bản đồ số 05, tổ 11, phường Đoàn Kết,
thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu gồm thửa 121, diện tích 260,6m
2
và thửa 123,
diện tích 113,4m
2
, mục đích sử dụng hai thửa là đất bằng trồng cây hàng năm khác
(ký hiệu đất BHK) được UBND thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu cấp
GCNQSDĐ ngày 30/12/2022 cho hộ ông Nguyễn Đức C1 và bà Nguyễn Thị H;
thửa 121, phía trước là đường, phía sau là đồi, một cạnh giáp thửa 120 của hộ ông
Phạm Hùng H2, bà Lương Hải N, một cạnh giáp thửa 123; thửa 123 phía trước là
đường, phía sau là đồi, một cạnh giáp thửa 118 của ông Phạm Văn T, một cạnh
giáp thửa 121.
[2.1] Xét đề nghị công nhận cho nguyên đơn có quyền sử dụng thửa 121 và
thửa 121 cùng tờ bản đồ số 05, tổ 11, phường Đoàn Kết, thành phố Lai Châu, tỉnh
Lai Châu.
Nguồn gốc, quá trình sử dụng hai thửa đất 121, 123: Các đương sự đều xác
nhận ông Nguyễn Đức C1 và bà Nguyễn Thị H khai hoang sử dụng hai thửa đất
121, 123 từ năm 1987 đến năm 2004. Ngày 18/02/2004 ông C1 bà H chuyển
nhượng thửa 121, 123 cho ông Đặng Xuân C2; Tiếp đó ông C2 chuyển nhượng cho
người khác và hai thửa đất tiếp tục chuyển nhượng đến năm 2021 ông C nhận
chuyển nhượng của ông Nguyễn Tiến M thửa 123, nhận chuyển nhượng thửa 121
của ông Nguyễn Văn T. Các bên chuyển nhượng đều lập văn bản viết tay không
công chức, chứng thực.
Từ năm 2021 ông C là người sử dụng (lời khai: ông C bút lục số: 21,
47,48,49,50; các hộ giáp ranh bút lục: 160, 161; UBND phường bút lục 167, 212;
anh Q bút lục 21; ông C1 bút lục 67, bà H bút lục 62, ông Chung bút lục 158).
Trước năm 2022, thửa 121, 123 chưa ai kê khai quyền sử dụng đất với cơ quan nhà
nước phù hợp với lời khai của các đương sự và sổ mục kê, sổ địa chính của cơ quan
quản lý đất đai thể hiện năm 2022 thửa đất kê khai tên ông C1, bà H khớp với thời
điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bút lục 215 đến 219).
Như vậy, thửa đất 121, 123 các bên chuyển nhượng cho nhau đã hoàn tất
quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng nhưng các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất đều được thực hiện bằng giấy viết tay, không có công chứng, chứng thực là
chưa đảm bảo về hình thức theo điểm b, khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai năm 2003,
Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ–CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành
Luật đất đai năm 2003, Điều 691, Điều 692, Điều 707, Điều 708 Bộ luật dân sự
năm 1995, Điều 689 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 502 Bộ luật dân sự 2015, Điều
167 Luật Đất đai 2013. Tại thời điểm xác lập giao dịch, đất chưa được cấp
GCNQSDĐ là vi phạm điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định
tại Điều 30 Luật Đất đai 1993, khoản 1 Điều 693 Bộ luật Dân sự năm 1995, điểm a
khoản 1 Điều 106 Luật Đất đai năm 2003, điểm a khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai
2013 và vi phạm Điều 15 Luật Đất đai năm 2003, khoản 6 điều 12 Luật đất đai
2013 về những hành vi bị nghiêm cấm. Do vậy, dù các bên đã trả hết số tiền theo
hợp đồng và đã tiến hành giao nhận đất nhưng hợp đồng cũng không được công
nhận hiệu lực theo Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 vì hợp đồng có nội dung vi
phạm điều cấm của luật theo quy định tại Điều 123 Bộ luật dân sự năm 2015. Thửa
đất 121, 123 ông C nhận chuyển nhượng tháng 4 năm 2021 không thuộc trường
hợp được hướng dẫn theo quy định tại khoản 1 Điều 82 Nghị định 43/2014/NĐ-CP,
8
ngày 15/5/2014, sửa đổi bổ sung tại khoản 54 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP,
ngày 06/01/2017 nên ý kiến của nguyên đơn khẳng định đất sử dụng ổn định trước
ngày 01//01/2008 là phù hợp với Điều 100, 101 Luật Đất đai 2013 và nghị định
01/2017 NĐ-CP, ngày 06/01/2017 là chưa đúng quy định của luật.
Thực tế hiện trạng hai thửa đất 121, 123 do ông C quản lý sử dụng, bị đơn và
những người liên quan không tranh chấp, không ai yêu cầu xem xét về hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã giao dịch nên cần tôn trọng thực tế người
quản lý, sử dụng; hơn nữa trên đất không có tài sản, vật kiến trúc, cây lâu năm (phù
hợp với ý kiến bà H đất chưa trồng trọt gì và ý kiến nguyên đơn trình bày đất đang
tranh chấp nên chưa có kế hoạch sử dụng). Do đó, để công nhận quyền sử dụng đất
đối với hai thửa đất 121, 123 nêu trên cho nguyên đơn là chưa đủ căn cứ theo quy
định của pháp luật đất đai.
Do vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với đề nghị Tòa án công nhận
ông Nguyễn Đức C là người có quyền sử dụng đất đối với hai thửa đất số 121 và
123 cùng tờ bản đồ số 5, địa chỉ tổ tổ 11, phường Đoàn Kết, thành phố Lai Châu,
được UBND thành phố Lai Châu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CX453237 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX453232 ngày 30/12/2022
đều mang tên hộ gia đình ông Nguyễn Đức C1, bà Nguyễn Thị H không được chấp
nhận.
[2.2] Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: số CX 453237, số
vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH 02248, đối với thửa số 121, tờ
bản đồ số 05, diện tích 260,6m
2
và số CX 453232, số vào sổ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất CH 02249, thửa 123, tờ bản đồ số 05, diện tích 113,4m
2
, cùng
địa chỉ tổ 11, phường Đoàn Kết, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu do Ủy ban
nhân dân thành phố Lai Châu cấp ngày 30/12/2022 cho hộ ông Nguyễn Đức C1 và
bà Nguyễn Thị H.
Về thẩm quyền: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND thành phố
Lai Châu, tỉnh Lai Châu cấp cho ông Nguyễn Đức C1, bà Nguyễn Thị H là đúng
thẩm quyền quy định tại Điều 105 luật Đất đai 2013.
Về trình tự, thủ tục cấp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Kiểm tra về
thủ tục hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ, trong bộ hồ sơ có đơn xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất có xác nhận của UBND xã, biên bản xác định ranh giới,
thông báo nghĩa vụ tài chính, tình trạng tranh chấp đất đai đối với các thửa đất xin
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, không có khiếu nại, tranh chấp. Như vậy, thủ tục hồ sơ văn bản, giấy tờ
quy định về hồ sơ địa chính để cấp GCNQSDĐ của UBND thành phố Lai Châu,
tỉnh Lai Châu cho ông Nguyễn Đức C1 và bà Nguyễn Thị H đối với thửa 121, 123
là đúng theo quy định tại Điều 101 Luật Đất đai năm 2013, Điều 70 Nghị định
43/2014/NĐ-CP Điều 8 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT.
Tuy nhiên, xem xét nội dung bộ hồ sơ được lập có nội dung không chính
xác, mâu thuẫn: người làm đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận là ông Nguyễn Đức
C1, bà Nguyễn Thị H (thửa 121 bút lục 113, thửa 123 bút lục 96), nội dung xác
nhận của UBND phường xác nhận “hộ trực tiếp sản xuất nông nghiệp” thực tế ông
C sử dụng; phiếu lấy ý kiến ở khu dân cư về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất
(bút lục 94 thửa 123, bút lục 111 thửa 121) tổ chức ở tổ 4, tổ trưởng là Đặng Xuân
K, nhưng ký tổ trưởng là bà Nguyễn Thị L; thửa đất ở tổ 11; bản mô tả ranh giới,
mốc giới thửa đất chủ đất ông C1, bà H bị tẩy xóa nhưng ký là chủ đất là ông C
(bút lục 104 thửa 121 một cạnh giáp đất ông C, bút lục 87 thửa 123); Hồ sơ có đơn
đề nghị của ông C trình bày hai thửa đất số 121 và 123 trên thực địa do ông C quản
lý sử dụng nhưng ông C không đủ điều kiện để được cấp giấy CNQSDĐ lần đầu
nên ông C xin được quy chủ lại cho chủ cũ là ông C1 bà H để ông C1 bà H làm thủ

9
tục cấp GCNQSDĐ theo quy định (bút lục 88,105). Như vậy, tại thời điểm làm thủ
tục cấp GCNQSDĐ các cơ quan quản lý đất đai thực hiện thủ tục hành chính xem
xét cấp GCNQSDĐ đã biết được người sử dụng đất trên thực tế là ông C, nhưng
vẫn chấp nhận thỏa thuận giữa ông C và ông C1, bà H để cấp GCNQSDĐ cho ông
C1, bà H là chưa đúng đối tượng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 99 Luật
Đất đai 2013 “Người đang sử dụng đất…”. Ông C1, bà H cũng xác nhận đã bán đất
từ năm 2004, hiện tại ông, bà không phải là người sử dụng đất.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 98 luật đất đai 2013 quy định về nguyên tắc
cấp giấy chứng nhận đối với các trường hợp đồng sở hữu theo quy định tại luật đất
đai bắt buộc ghi tên tất cả các đồng sở hữu, trừ trường hợp duy nhất do các đồng sở
hữu là vợ chồng và có thỏa thuận. Ngoài ra, theo quy định khoản 3 Điều 5 thông tư
23/2014/TT-BTNMT cũng quy định rõ về việc ủy quyền đại diện đứng tên thì trên
GCNQSDĐ cũng bắt buộc phải có tên đồng sở hữu và sử dụng đất. Vì vậy, trong
bộ hồ sơ cấp đất của ông C1 có đơn đề nghị của ông C thỏa thuận để ông C1 đứng
tên trong giấy chứng nhận là vi phạm pháp luật về đất đai. Do đó, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa 121, 123 do UBND thành phố Lai Châu, tỉnh Lai
Châu cấp cho hộ ông Nguyễn Đức C1 và bà Nguyễn Thị H là sai đối tượng, không
đúng trình tự cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn hủy hai giấy chứng nhận nêu
trên.
[3]. Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự nguyên đơn ông C phải chịu án
phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu không được chấp nhận.
Quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 26, Điều 34, Điều 37, Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự
2015; khoản 4 Điều 32 luật Tố tụng Hành chính; Điều 30 Luật đất đai năm 1993;
Điều 5, khoản 4, 6, 9 Điều 12, Điều 95, Điều 98, Điều 99, Điều 101, Điều 105,
khoản 3 Điều 167, Điều 168 Luật đất đai năm 2013; Điều 146 Nghị định
181/2004/NĐ–CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai năm
2003; Điều 70, Điều 82 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP; Điều 2 Nghị định số
01/2027/NĐ-CP, ngày 06 tháng 01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai; Điều 8 Thông tư số 24/2014/TT-
BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về Hồ sơ địa
chính; Điều 127 Điều 689 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 123, 502, 503 Bộ luật
dân sự 2015; khoản 4 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Đức C đối với đề
nghị công nhận quyền sử dụng hai thửa đất liền kề cùng tờ bản đồ số 05, tổ 11,
phường Đoàn Kết, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu gồm thửa số 121, diện tích
260,6m
2
và thửa 123, diện tích 113,4m
2
được Ủy ban nhân dân thành phố Lai Châu
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ ông Nguyễn Đức C1 và bà
Nguyễn Thị H, ngày 30/12/2022 cho nguyên đơn.
2. Chấp nhận yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX
453237, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH 02248, đối với thửa
số 121, tờ bản đồ số 05, diện tích 260,6m
2
và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CX 453232, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyến sử dụng đất CH 02249, thửa
123, tờ bản đồ số 05, diện tích 113,4m
2
, cùng địa chỉ tổ 11, phường Đoàn Kết,
10
thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu do Ủy ban nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh
Lai Châu cấp ngày 30/12/2022 cho hộ ông Nguyễn Đức C1 và bà Nguyễn Thị H.
3. Buộc Ủy ban nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu thực hiện
nhiệm vụ, công vụ theo pháp luật đất đai.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, đối trừ số tiền
300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí nguyên đơn đã nộp theo
Biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0000158 ngày 26/01/2024 của Chi cục
thi hành án dân sự thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu,
Trả lại cho nguyên đơn 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án
phí nguyên đơn đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0001041
ngày 07/11/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu, tỉnh Lai
Châu.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án;
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15
ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lai Châu;
- Cục THADS tỉnh Lai Châu;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thu Hà
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 21/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 11/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm