Bản án số 286/2024/HC-ST ngày 21/11/2024 của TAND tỉnh Thanh Hóa

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 286/2024/HC-ST

Tên Bản án: Bản án số 286/2024/HC-ST ngày 21/11/2024 của TAND tỉnh Thanh Hóa
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thanh Hóa
Số hiệu: 286/2024/HC-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/11/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: UBND TP T ban hành QĐ thu hồi đất của hộ ông Nguyễn Bá T, xác định diện tích đất thu hồi là đất trồng cây lâu năm khác thửa đất ở. Ông T khiếu kiện, đề nghị Tòa án xác định diện tích đất thu hồi là đất ở, hủy các QĐ hành chính của UBND TP T.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH THANH HÓA Độc lp - T do - Hnh phúc
Bn án s: 286/2024/HC-ST
Ngày: 21-11-2024
V/v khiếu kiện: “Quyết định
hành chính về quản lý đất đai”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNGA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
- Thành phn Hi đồng xét x sơ thm gm có:
Thm phán - Ch ta phiên tòa: Ông Mai Nam Tiến
Các Hi thm nhân dân: Bà Mai Thị Viện
Ông Lê Công Quyền
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tài - Thư Tòa án nhân dân tnh
Thanh Hóa.
- Đại din Vin kim sát nhân dân tnh Thanh Hoá tham gia phiên tòa:
Hoàng Phương Lý - Kim sát viên.
Ngày 21 tháng 11 năm 2024 ti tr s Toà án nhân n tỉnh Thanh Hóa xét x
sơ thm công khai v án hành chính th lý s 39/2023/TLST-HC ngày 18 tháng 5
năm 2023 v việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai”, theo Quyết
định đưa v án ra xét x s 196/2024/QĐXXST-HC ngày 07 tháng 10 năm 2024 gia
c đương s:
1. Người khởi kiện: Ông Nguyễn Bá T, sinh năm 1957;
Địa chỉ: Số nhà xxx L, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Bà Trần Thị Thanh H, sinh
năm 1999; địa chỉ: Tầng 3, số 81 T, phường N, quận H, Thành phố Hà Nội; có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Luật Đức
T1 Luật Mai Xuân H1 - Văn phòng Luật L Đ, thuộc Đoàn Luật sư thành
phố Hà Nội; ông H1 có mặt, ông T1 vắng mặt.
2. Người bị kiện:
2.1. Chủ tịch UBND thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.
2.2. Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.
Địa chỉ: đường N, phường Đ1, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Anh C - Chủ tịch UBND thành phố
T.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Nguyễn Văn H2 - Phó
Chủ tịch UBND thành phố T; vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Lê Thanh H3 -
2
Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố T; mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; địa chỉ: Số 05
N, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Văn T2 - Chủ tịch UBND phường Đ.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đình T3 - Phó Chủ tịch UBND
phường Đ; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
3.2. Nguyễn Thị P; sinh năm 1960; địa chỉ: Số nhà xxx L, phường Đ, thành
phố T, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà P: Ông Nguyễn Bá T, sinh năm 1959; địa
chỉ: Số nhà xxx L, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; có mặt.
NỘI DUNG V ÁN:
* Theo đơn khi kin đề ngày 06 tháng 4 năm 2023, được bổ sung ngày
25/4/2023 trong quá trình giải quyết vụ án ti Tòa án, người khi kin ông
Nguyễn Bá T trình bày:
Dự án nâng cấp đường L, đoạn tngã T đến đầu khu công nghiệp B thành
phố T, gia đình ông bị thu hồi 79,6m
2
đất áp dụng giá đền bù đất 2 lúa, gia đình
ông đã có đơn khiếu nại lên Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố T. Ngày 20/3/2023,
UBND thành phố T ra quyết định số 2500/QĐ-UBND về giải quyết khiếu nại nội
dung: “yêu cầu 79,6m
2
đất khi thu hồi thực hiện dự án Cải tạo, nâng cấp đường L
không sở”. Ông không đồng ý quan điểm trong quyết định giải quyết khiếu
nại cũng như các quyết định về việc áp dụng giá.
Về nguồn gốc diện tích hiện tại gia đình ông đang chủ sử dụng đất ở. Toàn
bộ thửa đất hiện nay ông đang sử dụng là đất thổ cư do cha mẹ ông là ông Nguyễn Bá
D (chết năm 1990) và bà Trần Thị T4 (chết năm 2009) để lại, sử dụng ổn định từ năm
1963, 1964, sử dụng ổn định trong khu dân cư, không lấn chiếm, không tranh chấp t
trước đến nay.
Theo bản đồ phê duyệt năm 1984 (theo Chỉ thị 299), tại thửa 149, tờ bản đồ số
03, diện tích 722m
2
đất màu. Tuy nhiên, do thời điểm đó gia đình chưa điều
kiện xây nhà to chỉ dựng được căn nhà nhỏ trồng xung quanh các loại cây ăn
quả, chứ thực chất là gia đình đã sử dụng vào mục đích để ở ngay từ đầu.
Năm 1983, ông về địa phương lập gia đình, do gia đình đông anh em, nên cha
mẹ cho thửa đất hiện nay đang diện tích bị thu hồi để xây dựng nhà ở. Từ khi s
dụng để đến nay, trên phần đất đang khiếu nại, gia đình ông đã xây dựng các công
trình để phục vụ đời sống. Từ trước đến nay ông vẫn đóng thuế đất hằng năm đối với
toàn bộ thửa đất ông sinh sống trong đó cả phần diện tích đất hiện nay đang
quyết định thu hồi.
Theo bản đồ năm 1987, tại thửa đất số 149, t bản đồ số 03, diện tích của gia
đình ông là 722m
2
. Sau đó, bản đồ phê duyệt năm 1994, tại thửa 440, tờ bản đồ số 03,
3
diện tích đo đạc của gia đình ông còn 630m
2
, bị thiếu 92m
2
. Tiếp đến, bản đồ đo đạc
mới nhất vào năm 2011, tại thửa 72, tờ số 50 thì diện tích của gia đình ông lại bị thụt
giảm xuống còn 547,9m
2
. Như vậy, cứ sau mỗi lần đo đạc tdiện tích của gia đình
ông cứ bị giảm đi trong khi đó gia đình ông vẫn sử dụng ổn định, không chuyển
nhượng cho bất kỳ ai. Như vậy, số diện tích gia đình ông đang bị thụt giảm đi qua các
thời kỳ là đất ở mặc dù gia đình ông chưa từng chuyển nhượng bất kỳ diện tích nào.
Theo Quyết định giải quyết khiếu nại số 2500/QĐ-UBND ngày 20/3/2023 của
UBND thành phố T cho rằng, diện tích đang quyết định thu hồi nằm ngoài diện
tích được cấp giấy chứng nhận nằm ở một thửa khác để áp dụng giá đất trồng cây
lâu năm khác đất không căn cứ. Đồng thời, theo bản đồ năm 2011, không thể
hiện diện tích đất đang thu hồi thuộc thửa nào. Còn lại, trong trường hợp đối chiếu
với các bản đồ năm 1987 bản đồ năm 1994 thì gia đình ông bị cấp thiếu diện tích
đất ở theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ).
Ông yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa giải quyết những vấn đề sau:
- Hủy toàn bộ Quyết định số 12558/QĐ-UBND ngày 06/12/2022 của UBND
thành phố T.
- Hủy toàn bộ Quyết định số 12559/QĐ-UBND ngày 06/12/2022 của UBND
thành phố T.
- Hủy toàn bộ Quyết định số 2500/QĐ-UBND ngày 20/3/2023 của Chủ tịch
UBND thành phố T.
Tại đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ngày 10/9/2024, người khởi kiện yêu
cầu bổ sung: Buộc UBND thành phố T phê duyệt bồi thường 79,6m
2
đất thu hồi
đất ở và bố trí tái định cư theo quy định của pháp luật.
* Quan điểm của UBND thành phố T trình bày tại bản tự khai ngày 08/6/2023:
Hộ ông Nguyễn T đang sdụng 02 thửa đất tại phố B, phường Đ, thành
phố T:
- Khu đất của ông T đang sử dụng để xây dựng n(không bị ảnh hưởng bởi
dự án cải tạo, nâng cấp đường L), nguồn gốc đất thổ do cha mẹ đẻ ông
Nguyễn D (chết năm 1990), Trần Thị T4 (chết năm 2009) để lại, sử dụng ổn
định trong khu dân cư, không lấn chiếm, không tranh chấp từ trước năm 1980. Thể
hiện trên bản đồ địa chính phường Đ các thời kỳ như sau:
+ Bản đồ phê duyệt năm 1984 (theo Chỉ thị 299) tại thửa đất 149, tờ số 03, diện
tích 722m
2
, sổ mục kê ghi Nguyễn Văn D, loại đất ĐM (đất màu).
+ Bản đphê duyệt năm 1994 (theo Chỉ thị 364) tại thửa 440, ts03, diện
tích 630m
2
, loại đất T, sổ mục kê ghi Nguyễn Bá M.
+ Bản đồ đo đạc năm 2011, tại thửa 72, tờ số 50, diện tích 547,9m
2
, loại đất
ODT, sổ mục kê ghi Nguyễn Bá T.
4
Ngày 25/6/1991, hộ ông Nguyễn D được UBND tỉnh cấp GCNQSDĐ số
seri A 022535, diện tích 548m
2
đất kinh tế phụ tại thửa 862 (sai số thửa), tờ số
03.
Ngày 20/7/2000, hộ Trần Thị T4 (vợ ông D) đã chuyển nhượng 85,5m
2
đất
ở cho ông Nguyễn Thế L.
Ngày 10/9/2009, những người thừa kế theo pháp luật của hộ ông D, bà T4 đã
thống nhất cho ông T được hưởng toàn bộ di sản quyền sử dụng đất đã được
UBND tỉnh cấp GCNQSDĐ số A 022535 ngày 25/6/1991 do ông D, T4 để lại,
được Văn phòng công chứng H công chứng.
- Diện tích 79,6m
2
đất bị ảnh hưởng dự án Cải tạo, nâng cấp đường L, hộ ông T
đang khiếu nại yêu cầu bồi thường đất , không giấy tờ về quyền sử dụng đất,
chưa được cấp GCNQSDĐ. Thể hiện trên bản đồ địa chính phường Đ các thời kỳ như
sau:
+ Bản đồ phê duyệt năm 1984 thể hiện một phần thửa 147, tờ số 03, diện
tích đo bao 2.560m
2
, loại đất 2L (5%), sổ mục kê HTX.
+ Bản đồ đo đạc năm 2011, không thể hiện số thửa, diện tích.
Hiện trạng sử dụng trồng cây lâu năm bán bình mái tôn, được UBND
phường Đ xác định thời điểm sử dụng sau năm 1993, trước năm 2004.
Căn cứ việc sdụng thửa đất đang khiếu nại trên thực tế, hồ địa chính các
thời kthời gian sử dụng đất được UBND phường Đ xác định, việc UBND thành
phố bồi thường 79,6m
2
đất trồng cây lâu năm khác thửa đất cho hộ ông Nguyễn
T khi thu hồi đất thực hiện dự án Cải tạo, nâng cấp đường L là đúng quy định.
Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xem xét, giải quyết theo quy định.
* Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố T không có ý kiến, quan điểm gì.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị P ủy quyền cho ông
Nguyễn Bá Tn không có ý kiến, quan điểm gì.
Tại phiên tòa, người khởi kiện gi nguyên yêu cầu khởi kiện, người bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của người bị kiện giữ nguyên quan điểm như bản tự khai
ngày 08/6/2023.
Kiểm sát viên VKSND tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm
giải quyết v án:
- V t tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét x (HĐXX), Thư ký Tòa án đã tuân th
đầy đủ, thực hiện đúng quy định của Luật t tụng hành chính; người khởi kiện, người
bị kiện, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đầy đủ, đảm bảo đúng
các quyền, nghĩa v t tụng theo quy định của Luật t tụng hành chính.
- V nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng
hành chính, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Bá T (có bài phát biểu kèm
theo) vviệc: Hủy Quyết định số 12558/QĐ-UBND Quyết định số 12559/QĐ-
UBND ngày 06/12/2022 của UBND thành phố T; hủy Quyết định số 2500/QĐ-
5
UBND ngày 20/3/2023 của Chủ tịch UBND thành phố T; buộc UBND thành phố T
phê duyệt bồi thường 79,6m
2
đất thu hồi đất bố trí tái định theo quy định
của pháp luật.
- Về án phí: Do yêu cầu của người khởi kiện được chấp nhận nên người bị kiện
phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn c vào tài liệu, chứng c đã được xem xét tại phiên tòa, kết qu tranh tụng
tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, các quy định của pháp luật, HĐXX
nhận thấy:
[1] Về tố tụng:
Tại phiên tòa sơ thẩm, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn
Thị P vắng mặt nhưng đã ủy quyền cho ông Nguyễn Bá T, đại diện UBND thành phố
T vắng mặt lần thứ hai, đại diện UBND phường Đ đã văn bản đề nghị Tòa án xét
xử vắng mặt, nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 157, Điều 158 Luật tố tụng hành
chính, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt đối với những người này.
[2] Về quyền khởi kiện, đối tượng khởi kiện:
Quyết định số 12558/QĐ-UBND ngày 06/12/2022 của UBND thành phố T về
việc thu hồi đất của ông Nguyễn Bá T; Quyết định số 12559/QĐ-UBND ngày
06/12/2022 của UBND thành phố T về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ
GPMB; Quyết định số 2500/QĐ-UBND ngày 20/3/2023 của Chủ tịch UBND thành
phố T về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn T ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi ích hợp pháp của hộ gia đình ông Nguyễn T nên ông T quyền
khởi kiện.
[3] Về thời hiệu khởi kiện, thẩm quyền giải quyết vụ án:
Ngày 06/12/2022 UBND thành phố T ban hành Quyết định số 12558/-
UBND về việc thu hồi đất và Quyết định s12559/QĐ-UBND về việc pduyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB đối với ông Nguyễn T địa chỉ tại xxx L,
phường Đ đthực hiện dự án: Cải tạo, nâng cấp đường L, thành phố T (đoạn từ ngã
đường T đến khu công nghiệp B). Ngày 20/3/2023, UBND thành phố T ban hành
Quyết định số 2500/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn T. Ngày
06/4/2023, ông Nguyễn Bá T gửi đơn khởi kiện đến Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
khởi kiện vụ án hành chính nên Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa thụ lý vụ án là đúng
thẩm quyền trong thời hiệu (theo khoản 3, 4 Điều 32; điểm a khoản 3 Điều 116
Luật tố tụng hành chính).
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Bá T:
[4.1] Về trình tự, thẩm quyền ban hành Quyết định số 2500/QĐ-UBND ngày
20/3/2023 của Chủ tịch UBND thành phố T:
Ông Nguyễn Quang H4 (người được ông Nguyễn T ủy quyền), khiếu nại
với nội dung: Hộ ông T đang sử dụng 612,9m² đất tại địa chỉ xxx L, phường Đ. Đất
6
nguồn gốc do cha mẹ để lại. UBND thành phố T thu hồi 79,6m² đất đthực hiện
dự án Cải tạo, nâng cấp đường L bồi thường 79,6m² đất trồng cây lâu năm khác
thửa đất cho gia đình ông không đúng. Ông Nguyễn T khiếu nại yêu cầu bồi
thường 79,6m² là đất ở.
Sau khi nhận được đơn khiếu nại của ông Nguyễn Bá T, UBND thành phố T đã
thụ giải quyết khiếu nại tham mưu cho Chủ tịch UBND thành phố T ban hành
quyết định giải quyết khiếu nại theo đúng quy định của Điều 17, 18 Luật khiếu nại
2011.
Ngày 20/3/2023 Chủ tịch UBND thành phố T ban hành Quyết định số
2500/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn T. Tại Điều 1,
Quyết định giải quyết khiếu nại lần 1 đối với ông Nguyễn T nội dung: ông
Nguyễn Bá T khiếu nại yêu cầu 79,6m² đất ở khi thu hồi đất thực hiện dự án Cải tạo,
nâng cấp đưng L là không có cơ sở.
Không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND thành
phố T, ông Nguyễn T khởi kiện vụ án hành chính. Yêu cầu a án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa hủy các quyết định hành chính của UBND thành phố T Chủ tịch
UBND thành phố T ban hành.
[4.2] Xét yêu cầu hủy Quyết định số 12558/QĐ-UBND Quyết định số
12559/QĐ-UBND ngày 06/12/2022 của UBND thành phố T; hủy Quyết định số
2500/QĐ-UBND ngày 20/3/2023 của Chủ tịch UBND thành phố T:
* Hồ kiểm kê, thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng dự án Cải tạo,
nâng cấp đường L:
Ngày 20/6/2022, UBND thành phố ban hành Thông báo số 268/TB-UBND về
việc thu hồi đất thực hiện dự án Cải tạo, nâng cấp đường L (đoạn từ ngã đường T
đến khu công nghiệp B).
Ngày 29/6/2022, Hội đồng bồi thường, htrợ tái định lập biên bản kiểm
tài sản vật kiến trúc, hoa màu trên đất của hộ ông T bị ảnh hưởng dự án Cải tạo,
nâng cấp đường L.
Trích đo hiện trạng khu đất Chi nhánh VPĐKĐĐ thành phố lập ngày
29/4/2022, thể hiện tổng diện tích ông T đang sdụng 612,9m
2
, bị ảnh hưởng bởi dự
án 79,6m
2
, phần còn lại không ảnh hưởng dự án.
Tại Quyết định số 5867/QĐ-UBND ngày 30/6/2022, UBND thành phố T đã
hủy bỏ thu hồi đất, hủy bỏ phê duyệt dtoán bồi thường GPMB cho hộ ông T tại dự
án Khu đô thị mới Đ đã được phê duyệt các Quyết định số 1551/QĐ-UBND ngày
05/3/2012; Quyết định số 7682/QĐ-UBND ngày 04/10/2013 Quyết định số
3883/QĐ-UBND ngày 06/8/2012. Lý do: diện tích đất của hộ ông T bảnh hưởng dự
án Cải tạo, nâng cấp đường L.
Biên bản xác định nguồn gốc và thời gian sử dụng đất do UBND phường Đ lập
ngày 29/7/2022, xác định: Hộ ông T đang sử dụng 612,9m
2
, đã được cấp GCNQSDĐ
7
đối với 548m
2
, diện tích đã được cấp GCNQSDĐ được xác định sử dụng để trước
năm 1980, sử dụng ổn định, không tranh chấp.
Diện tích phải thu hồi thực hiện dự án Cải tạo, nâng cấp đường L 79,6m
2
,
nằm ngoài diện tích đã được cấp GCNQSDĐ, sử dụng sau ngày 15/10/1993, trước
ngày 01/7/2004. Đnghị bồi thường, hỗ trợ 79,6m
2
đất trồng cây lâu năm khác thửa
đất ở.
Ngày 18/8/2022, phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố phối hợp với Ban
quản lý dự án Đầu tư xây dựng thành phố và UBND phường Đ lập Biên bản xác định
loại đất, diện tích được bồi thường của hộ ông T 79,6m
2
đất trồng cây lâu năm
khác thửa đất ở.
Ngày 06/12/2022, UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 12558/QĐ-
UBND, thu hồi 79,6m
2
đất trồng cây lâu năm khác thửa đất của hộ ông T tại thửa
439, tờ số 03, bản đồ địa chính phường Đ phê duyệt năm 1994 Quyết định số
12559/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án dự toán bồi thường GPMB thực hiện
dự án, ông T được bồi thường, hỗ trợ 48.995.000 đồng, gồm: bồi thường về đất
2.786.000 đồng; tài sản, vật kiến trúc 49.090.000 đồng; cây cối hoa màu 1.119.000
đồng.
* Kết quả kiểm tra hiện trạng của Ban GPMB:
Phần diện tích 79,6m
2
bị thu hồi thực hiện dự án, hộ ông T sử dụng ổn định,
không tranh chấp. Trên đất 2 bán bình mái lợp n, kèo sắt, cột sắt, nền láng xi
măng; nhà vệ sinh bằng xí xổm và 2 cây lâu năm là Xoài D, Vú sữa D (có đường kính
0,4m). Vị trí đất được thể hiện, cụ thể như sau:
- Phía Đông giáp đường L hiện trạng.
- Phía Tây giáp đường L (là phần đất đã thu hồi, bồi thường GPMB dự án Khu
đô thị mới Đ).
- Phía Nam giáp đất của hộ ông Hoàng Tiến A.
- Phía Bắc giáp đất còn lại của hộ ông Nguyễn Bá T.
* Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nhận thấy:
Hộ ông Nguyễn D Trần Thị T4 (bố mẹ đẻ của ông Nguyễn T) tạo
dựng được thửa đất thổ tại địa bàn phường Đ từ những năm 1963, sử dụng vào
mục đích để và trồng cây ăn quả. Theo biên bản xác định nguồn gốc đất ngày
29/7/2022 của UBND phường Đ xác định thửa đất thổ của gia đình ông Nguyễn
Bá T sử dụng vào mục đích để ở trước ngày 18/12/1980. Tổng diện tích hiện trạng sử
dụng 612,9m
2
(diện tích được cấp GCNQSDĐ ngày 25/6/1991 548m
2
loại đất
và kinh tế ph) tại thửa 862 (sai số thửa), tờ số 3 Bản đồ 299 mang tên Nguyễn Bá D.
Thửa đất thể hiện trên bản đồ địa chính phường Đ các thời kỳ như sau:
+ Bản đồ phê duyệt năm 1984 (Theo chỉ thị 299) tại thửa đất 149, tờ số 03,
diện tích 722m², sổ mục kê ghi Nguyễn Văn D, loại đất ĐM (đất màu).
8
+ Bản đồ phê duyệt năm 1994 (theo chỉ thị 364) tại thửa 440, tờ số 03, diện
tích 630m², loại đất T, sổ mục kê ghi Nguyễn Bá M.
+ Bản đồ đo đạc năm 2011, tại thửa 72, tsố 50, diện tích 547,9m², loại đất
ODT, sổ mục kê ghi Nguyễn Bá T.
Phần đất 79,6m
2
bị thu hồi để thực hiện dự án: cải tạo, nâng cấp đường L hiện
trạng trên đất có 02 bán bình mái lợp tôn, vì kèo sắt, cột sắt, nền láng xi măng; nhà vệ
sinh bằng xổm và 02 cây lâu năm là Xoài D, sữa D (có đường kính gốc 0,4m).
Ông Nguyễn T trình bày: các công trình trên đất gia đình ông xây dựng từ năm
1983, 02 cây trồng thì được gia đình trồng trước năm 1980. Thời điểm gia đình ông
trồng cây xây dựng công trình trên đất không bị xphạt hành chính hay bị chính
quyền sở ngăn cản. Trên hồ địa chính Bản đồ 299 xác định diện tích đất gia
đình ông quản sử dụng 722m
2
, tuy nhiên hiện trạng sử dụng đất gia đình ông
được đo đạc thể hiện trên bản đồ địa chính qua các thời kỳ số liệu không trùng
khớp, sai số nhiều, khi cấp GCNQSDĐ lại không được cấp hết diện tích đất của gia
đình sử dụng thực tế. Từ khi sử dụng thửa đất này, gia đình ông sử dụng đất để
trồng cây ăn quả. Cụ thể:
+ Năm 2002 UBND thành phố T đã thu hồi 216,7m
2
đất của gia đình ông để
thực hiện Dự án Khu đô thị mới Đ. Loại đất bồi thường đất nông nghiệp (Trần
Thị T4 mẹ đẻ của ông T nhận tiền bồi thường, ông không biết cụ thể số tiền được bồi
thường). Thửa đất nông nghiệp này nằm cách biệt với thửa đất thổ của gia đình
ông, diện tích đất thu hồi năm 2002 không phải diện tích đất nằm trong thửa đất
thổ cư mà ông đang khởi kiện.
+ Diện tích được cấp GCNQSDĐ ngày 25/6/1991 548m
2
loại đất kinh
tế phụ tại thửa 862 (sai số thửa), tờ số 3 Bản đồ 299 mang tên Nguyễn D (bố đẻ
ông Nguyễn T). Ngày 20/7/2000 mẹ đẻ của ông T Trần Thị T4 chuyển
nhượng 85,5m
2
đất ở cho hộ ông Nguyễn Thế L.
+ Diện tích hiện trạng khi kiểm kê, thu hồi đất là 612,9m
2
.
Căn cứ hồ địa chính, gia đình ông Nguyễn T chỉ sdụng duy nhất 01
thửa đất thổ cư này vào mục đích để từ năm 1963 đến nay, sử dụng ổn định, không
tranh chấp, không lấn chiếm.
Quan điểm của UBND thành phố T xác định 79,6m
2
đất của gia đình ông
Nguyễn T thu hồi đất trồng cây lâu năm khác thửa đất thuộc thửa đất số 147,
tờ bản đồ số 03 Bản đồ 299 đo đạc năm 1984 là không có căn cứ. Lý do, gia đình ông
Nguyễn T chỉ sdụng 01 thửa đất thổ cư, không được nhà nước giao thêm thửa
đất 5% nào để trồng lúa, trên hồ địa chính các thời kỳ gia đình ông chỉ thể hiện sử
dụng 01 thửa đất thổ nguồn gốc sử dụng trước ngày 18/12/1980, gia đình ông
đã xây dựng c công trình trên đất (theo biên bản kiểm GPMB) sử dụng ổn định,
không bị x phạt hành chính đối với hành vi xây dựng công trình trên đất nông
nghiệp, kể từ khi xây dựng công trình vật kiến trúc trên đất gia đình ông không bị
chính quyền ngăn cản hay yêu cầu giữ nguyên hiện trạng loại đất.
9
Do đó, gia đình ông Nguyễn T phải được bồi thường theo hiện trạng sử
dụng đất, phù hợp với khoản 2 Điều 12 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ điểm a khoản 1 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ.
Điều 12. Bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với trường hợp
diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất:
“Trường hợp thu hồi đất mà diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên
giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất
đai Điều 18 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (sau đây gọi
Nghị định s 43/2014/NĐ-CP) thì được bồi thường theo quy định sau đây:
1. ......
2. Nếu diện tích đo đạc thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử
dụng đất do việc đo đạc trước đây thiếu chính xác hoặc do khi khai đăng trước
đây người sử dụng đất không khai hết diện tích nhưng toàn bộ ranh giới thửa đất
đã được xác định là không thay đổi, không tranh chấp với những người sử dụng
đất liền kề, không do lấn, chiếm thì bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế.
Đối với phần diện tích đất chưa được cấp GCNQSDĐ của hộ ông Nguyễn Bá T
đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ theo điểm a Khoản 1 Điều 20 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.
Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy
định: cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác
gắn liền với đất cho hộ gia đình, nhân đang sử dụng đất không giấy tờ về
quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp luật đất đai:
“Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất (công nhận quyền sử dụng đất) cho hộ gia đình, nhân đang
sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 không một trong các
loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai, Điều 18 của Nghị định này
không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 101 của Luật Đất đai, Điều 23
của Nghị định này được thực hiện theo quy định như sau:
1. Hộ gia đình, nhân sử dụng đất nhà ở, công trình xây dựng khác từ
trước ngày 15 tháng 10 m 1993; nay được Ủy ban nhân dân cấp nơi đất xác
nhận không tranh chấp sử dụng đất; việc sử dụng đất tại thời điểm nộp hồ đề
nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác
gắn liền với đất phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng
đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân nông thôn hoặc quy hoạch xây dựng
nông thôn mới đã được quan nnước thẩm quyền phê duyệt (sau đây gọi
chung quy hoạch) hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đã sử dụng đất từ
trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa quy hoạch thì
được công nhận quyền sử dụng đất như sau:
10
a. Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức
công nhận đất ở quy định tại Khoản 4, Điều 103 của Luật đất đai (sau đây gọi là hạn
mức công nhận đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở.
Trường hợp thửa đất nhà mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công
nhận đất thì diện tích đất được công nhận bằng hạn mức công nhận đất ở;
Trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn
hạn mức công nhận đất thì công nhận diện tích đất theo diện tích thực tế đã xây
dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó”.
Tất cả các công trình của gia đình ông Nguyễn T xây dựng trên đất không
hồ quản hành chính thể hiện hành vi vi phạm chính sách về quản đất
đai.
Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn T s chấp nhận, buộc
UBND thành phố T thu hồi diện tích 79,6m
2
đất để thực hiện dự án Cải tạo, nâng cấp
đường L là đất ở (đất ở trong hạn mức của gia đình ông Nguyễn Bá T).
Từ những phân tích trên, căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Nguyễn T về việc hủy Quyết định số 12558/QĐ-UBND và Quyết định số
12559/QĐ-UBND ngày 06/12/2022 của UBND thành phố T về việc thu hồi phê
duyệt phương án bồi thường khi GPMB đối với hộ ông Nguyễn T; hủy Quyết
định số 2500/QĐ-UBND ngày 20/3/2023 của Chủ tịch UBND thành phố T; buộc
UBND thành phố T phê duyệt lại phương án bồi thường khi GPMB, thu hồi 79,6m
2
đất của gia đình ông Nguyễn Bá T là loại đất ở và bố trí tái định cư theo quy định của
pháp luật.
[5] Về án phí: ông Nguyễn T không phải chịu án phí hành chính thẩm;
Chủ tịch UBND thành phố T và UBND thành phố T phải chịu án phí hành chính
thẩm theo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 4 Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 116; điểm b khoản 2 Điều
193; Điều 204; khoản 1 Điều 206 Luật tố tụng hành chính; khoản 2 Điều 12 Nghị
định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014; điểm a khoản 1 Điều 20 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Bá T:
- Hủy Quyết định số 12558/QĐ-UBND ngày 06/12/2022 của UBND thành phố
T về việc thu hồi đất của ông Nguyễn Bá T.
- Hủy Quyết định số 12559/QĐ-UBND ngày 06/12/2022 của UBND thành phố
T về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, GPMB cho 01 hộ gia đình đang sử
11
dụng đất tại phố B, phường Đ để thực hiện dán: Cải tạo, nâng cấp đường L, thành
phố T (đoạn từ ngã tư đường T đến khu công nghiệp B).
- Hủy Quyết định số 2500/QĐ-UBND ngày 20/3/2023 của Chủ tịch UBND
thành phố T về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn T, địa chỉ xxx L,
phường Đ, thành phố T.
- Buộc UBND thành phố T phê duyệt bồi thường 79,6m
2
đất thu hồi là đất ở và
bố trí tái định cư theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí: UBND thành phố T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng),
Chủ tịch UBND thành phố T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành
chính sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Bá T, Nguyễn Thị P có quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày ktừ ngày tuyên án; Chủ tịch UBND thành phố T,
UBND thành phố T, UBND phường Đ quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp
luật./.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Thanh Hóa;
- Cục THADS tỉnh Thanh Hóa;
- UBND tỉnh Thanh Hóa;
- Lưu: HS vụ án, Tòa HC.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Mai Nam Tiến
12
Tải về
Bản án số 286/2024/HC-ST Bản án số 286/2024/HC-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 286/2024/HC-ST Bản án số 286/2024/HC-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất