Bản án số 25/2022/HS-PT ngày 23/02/2022 của TAND tỉnh Cà Mau về về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 25/2022/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 25/2022/HS-PT ngày 23/02/2022 của TAND tỉnh Cà Mau về về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Tội danh: 145.Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 25/2022/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/02/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Trần Nhựt Đ tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 25/2022/HS-PT
Ngày: 23-02-2022
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Thế Phương
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Hiền
Ông Ninh Quang Thế
- Thư phiên toà: Nguyễn Hạnh Nguyên Thư Tán nhân dân
tỉnh Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên tòa: Ông
Phạm Thanh Mộng - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Mau xét xử
kín (tuyên án công khai) vụ án hình sự phúc thẩm thụ số: 05/2022/TLPT-HS
ngày 05 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Trần Nhựt Đ do có kháng cáo của bị cáo
người đại diện hợp pháp của bị hại đối với Bản án số: 37/2021/HS-ST ngày 26
tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ tên: Trần Nhựt Đ, sinh ngày 24/7/1996; tại xã Q; Nơi cư trú: Ấp K, xã Q,
huyện Đ, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: Lớp 01/12; Dân
tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần
Văn L Nguyễn Kim L; Vợ: Nguyễn Phê L; con: 01 người; tiền sự; tiền án:
Không. Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24/4/2021, bị cáo tại ngoại (có mặt).
- Bị hại: Nguyễn Thị Thùy D, sinh ngày 15/02/2008; Nơi trú: Khóm 3,
thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Anh Nguyễn Chí V, sinh năm 1986
(có kháng cáo) chị Trần Thị Đ, sinh năm 1992 người giám hộ của bị hại;
Nơi cư trú: Khóm 3, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Tăng Tấn L; nơi làm việc: Văn phòng
Luật Trịnh Thanh L; Địa chỉ: S9, đường H, khóm 3, phường 7, thành phố C,
tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Kim L, sinh năm
1976; Nơi cư trú: Phường T, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Ngày 27/02/2021, Nguyễn Thị Thùy D lén người thân, bỏ nhà đi làm thuê
tại quán phê Ngọc T” thuộc khóm 1 thị trấn Đ. Do quen biết nhau từ trước,
nên vào khoảng 17 giờ ngày 27/02/2021, Nguyễn Thị Thùy D nhờ Trần Nhựt Đ
chở về gia đình ở xã K để lấy quần áo, nhưng do có người nên Nguyễn Thị Thùy D
không vào nhà mà cùng với Trần Nhựt Đ quay về thị trấn Đ đến khu vực bờ
uống cà phê. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Nguyễn Thị Thùy D tiếp tục nhờ Trần
Nhựt Đ chở đi dự tiệc T, huyện Đ. Gần đến nơi Nguyễn Thị Thùy D hay tin
tiệc đã xong nên cả hai quay về. Đến khoảng 22 giờ ng ngày về đến nơi Nguyễn
Thị Thùy Dm thuê quán phê “Ngọc T”. Nhưng do quán đóng cửa nên Trần
Nhựt Đ rủ Nguyễn Thị Thùy D đến Nhà nghỉ “51” đthuê phòng ngủ Nguyễn
Thị Thùy D đồng ý. Tại đây, Trần Nhựt Đ đã thực hiện hành vi giao cấu với
Nguyễn Thị Thùy D. Sáng ngày 28/02/2021, Trần Nhựt Đ chở Nguyễn Thị Thùy D
về quán “Ngọc T” n bị cáo đến quán phê “Anh Tgần đó để nghỉ. Đến ngày
06/3/2021, ông Trần Minh T (là ông ngoại của Nguyễn Thị Thùy D) đã tìm gặp
đưa Nguyễn Thị Thùy D về nhà. Qua tìm hiểu Nguyễn Thị Thùy D thừa nhận đã
quan hệ tình dục với Trần Nhựt Đ, ông Trần Minh T đến Công an huyện Đ trình
báo.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 37/2021/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2021
của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Cà Mau quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự,
xphạt bị cáo Trần Nhựt Đ 02 (hai) năm về tội “Giao cấu với người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi”. Thời gian chấp hành hình phạt được tính tngày bcáo
chấp hành án.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 592 của Bộ luật dân sự,
buộc bị cáo Trần Nhựt Đ phải nghĩa vụ bồi thường cho Nguyễn Thị Thùy D số
tiền là 11.900.000 đồng (Mười một triệu chín trăm ngàn đồng).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo pháp luật
quy định.
Ngày 31/11/2021, Nguyễn Chí V người đại diện hợp pháp của bị hại
đơn kháng cáo yêu cầu tăng mức hình phạt tù và tăng mức bồi thường thiệt hại.
Ngày 16/12/2021, bị cáo kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa đề nghị
Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
Luật bào chữa cho bcáo: Yêu cầu giảm nhẹ hình phạt vì trường hợp của
bị cáo nhiều tình tiết giảm nhẹ như cấp thẩm đã nhận định; bị cáo thân
nhân người công với cách mạng. Ngoài ra, sau khi xét x thẩm bị o đã
nộp đủ số tiền bồi thường theo bản án sơ thẩm.
3
Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo thống nhất toàn bộ ý kiến của Luật
sư bào chữa.
Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại: Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo,
yêu cầu tăng mức hình phạt tù và tăng mức bồi thường thiệt hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên snội dung ván, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại được thực
hiện trong hạn luật định; kháng o quá hạn của bị cáo được chấp nhận, nên việc
kháng cáo được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Nhựt Đ thừa nhận toàn bộ hành vi
phạm tội đúng như Bản án hình sự thẩm số: 37/2021/HS-ST ngày 26 tháng 11
năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Cà Mau. Bị cáo Trần Nhựt Đ thừa
nhận đã thực hiện hành vi giao cấu với Nguyễn Thị Thùy D trong khi Nguyễn Thị
Thùy D n trong độ tuổi trẻ em (chỉ mới 13 tuổi 12 ngày). Tòa án cấp sơ thẩm xử
phạt bị cáo về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1
Điều 145 của Bộ Luật Hình sự đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp
luật. Bị cáo Trần Nhựt Đ kháng cáo chỉ yêu cầu giảm nhhình phạt, còn đại
diện hợp pháp của người bị hại kháng cáo yêu cầu tăng mức hình phạt đối với Trần
Nhựt Đ.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bcáo đại diện của người bị hại cho thấy,
hành vi phạm tội của bị cáo Trần Nhựt Đ nguy hiểm cho hội, xâm hại tình
dục đối với người còn trong độ tuổi trẻ em, m phạm đến tình trạng sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của người bị hại. Người bị hại còn trong độ tuổi trẻ em (13
tuổi 12 ngày) chưa có sự nhận thức đầy đủ, chưa phát triển toàn diện về tâm sinh lý
nên không thể cho rằng người bị hại sự đồng thuận trong việc giao cấu cùng bị
cáo. Trong khi bị o người trưởng thành, đã gia đình ổn định (có vợ
con) nhưng bị cáo vẫn có ý định lợi dụng mối quan hệ về tình cảm của người bị hại
để thực hiện hành vi phạm tội. Từ đó, đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị hại. Tòa án cấp thẩm đã sự xem xét
đến các tình tình giảm nhẹ đối với bị cáo và đã xử phạt bị cáo 02 năm tù, mức hình
phạt này nhẹ, chưa tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Lẽ ra,
cần chấp nhận kháng cáo của đại diện người bị hại để tăng mức hình phạt đối với
bị cáo. Việc bồi thường khắc phục hậu quả mà bị cáo đã nộp bồi thường cho bị hại
được cấp thẩm xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, nhưng chỉ
được xem xét mức cân xứng với phần thiệt hại bị cáo nộp khắc phục. Tuy
nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã thấy được lầm lỗi của mình, đã thực sự ăn
năn hối cải, đã tích cực khắc phục hậu quả bằng việc nộp toàn bộ số tiền phải bồi
thường còn lại cho người bị hại theo quyết định của Tòa án cấp thẩm
11.900.000 đồng. Đồng thời, bị cáo cung cấp tài liệu chứng minh ông Trần Văn L
và bà Lê Thị Ngh là ông bà nội của bị cáo, là người có công với cách mạng. Đây là
những tình tiết giảm nhẹ được cung cấp sau khi xét xthẩm cần được chấp
nhận để xem xét cho bcáo. Tuy nhiên, những tình tiết giảm nhẹ này chưa đủ để
4
làm giảm đi tính chất nguy hiểm của tội phạm nên không chấp nhận yêu cầu kháng
cáo của bị cáo về việc giảm mức hình phạt cũng không chấp nhận kháng cáo
của đại diện hợp pp cho người bị hại về việc tăng hình phạt, giữ nguyên phần
hình phạt đối với bị cáo Trần Nhựt Đ tại Bản án hình sự thẩm số: 37/2021/HS-
ST ngày 26 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ.
Xét về nội dung kháng cáo của anh Nguyễn Chí V là người đại diện hợp pháp
cho bị hại vviệc tăng mức bồi thường cho thấy: Tại Bản án hình sự thẩm số:
37/2021/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ đã xác
định sau khi bị giao cấu Nguyễn Thị Thùy D không việc điều trị về sức
khỏe tại sở y tế, không thiệt hại cụ thể gì về chi phí khám chữa bệnh nên đã
áp dụng quy định tại Điều 592 của Bộ luật dân sự xác định mức bồi thường tổn
thất về mặt tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm căn cứ
đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ngoài tổn thất về mặt tinh thần do danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm thì đối với bị hại là người còn trong độ tuổi trẻ
em (chỉ mới 13 tuổi 12 ngày) nhưng bị cáo đã thực hiện hành vi giao cấu với người
bị hại. Tuy không phát sinh việc điều trị về sức khỏe sau khi bị giao cấu nhưng từ
hành vi phạm tội của bị cáo đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cho
người bị hại, tổn hại không nhỏ về mặt tinh thần cho người bị hại do hành vi phạm
tội của bị cáo gây ra. Tuy mức bồi thường thiệt hại người đại diện hợp pháp
của người bị hại yêu cầu là không sở đchấp nhận toàn bộ nhưng cũng cần
áp dụng quy định tại khoản 2 điều 590 của Bộ luật dân sự đchấp nhận một phần
kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho người bị hại, tăng mức bồi thường
thiệt hại để bù đắp tổn thất về mặt tinh thần cho người bị hại là có căn cứ.
[4] Từ nhận định trên, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; chấp nhận một
phần kháng cáo của của ông Nguyễn Chí V (là người đại diện hợp pháp của bị
hại), sửa một phần Bản án hình sự thẩm số: 37/2021/HS-ST ngày 26 tháng 11
năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Cà Mau về trách nhiệm dân sự.
[5] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phù hợp với nhận
định của Hội đồng xét xử về trách nhiệm hình sự nên được chấp nhận. Riêng đối
với trách nhiệm dân sự cần điều chỉnh cho phù hợp.
[6] Về trách nhiệm dân sự, tuy không phát sinh việc điều trị về sức khỏe sau
khi bị giao cấu nhưng từ hành vi phạm tội của bị cáo đã làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe cho người bị hại, tổn hại không nhỏ về mặt tinh thần cho người
bị hại do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Do vậy, nên áp dụng Điều 590, 592
buộc bị cáo Trần Nhựt Đ bồi thường tổn thất về tinh thần cho người bị hại bằng số
tiền 29.800.000 đồng (tương đương 20 lần mức lương sở do Nhà nước quy
định). Bị cáo đã nộp khắc phục được số tiền 14.900.000 đồng (đã bồi thường
3.000.000 đồng trước khi xét xử sơ thẩm nộp khắc phục sau khi xét xử thẩm
11.900.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0002623 ngày 14/02/2022 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Đ, số tiền còn phải tiếp tục nộp bồi thường 14.900.000
đồng. Giao số tiền 11.900.000 đồng do bị cáo đã nộp khắc phục lại cho người bị
hại Nguyễn Thị Thùy D do anh Nguyễn CV chị Trần Thị Đ người đại
diện hợp pháp cho Nguyễn Thị Thùy D.
5
[6] Án phí hình sự sơ thẩmán phí hình sự phúc thẩm bị cáo phải chịu theo
quy định pháp luật.
[7] Các quyết định khác của án thẩm không kháng cáo, kháng nghị,
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ các điểm a, b khoản 1 Điều 355, điểm b khoản 2 Điều 357 của Bộ
luật tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt kháng
cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại về yêu cầu tăng nặng mức phạt. Chấp
nhận một phấn kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại, sửa một phần
Bản án hình sự thẩm số: 37/2021/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2021 của Tòa
án nhân dân huyện Đ, về trách nhiệm bồi thường dân sự.
2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ
luật hình sự; Các Điều 590, 592 của Bộ luật dân sự Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Xử phạt bị o Trần Nhựt Đ 02 (hai) năm về tội Giao cấu với người từ
đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Thời gian chấp hành hình phạt được tính từ ngày bị
cáo chấp hành án.
- Buộc bị cáo Trần Nhựt Đ bồi thường thiệt hại tổn thất về mặt tinh thần cho
Nguyễn Thị Thùy D số tiền 29.800.000 đồng (Hai mươi chín triệu tám trăm
ngàn đồng), được đối trừ số tiền đã bồi thường xong 14.900.000 đồng, còn phải
tiếp tục bồi thường 14.900.000 đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của stiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Giao số tiền 11.900.000 đồng do bị cáo Trần Nhựt Đ đã nộp bồi thường tại
biên lai thu tiền số 0002623 ngày 14/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Đ cho người bị hại là Nguyễn Thị Thùy D do anh Nguyễn Chí V và chị Trần
Thị Đ là đại diện hợp pháp cho Nguyễn Thị Thùy D.
- Bị cáo Trần Nhựt Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, 200.000
đồng án phí hình sự phúc thẩm 745.000 đồng án phí dân sự thẩm giá
ngạch.
3. Các quyết định khác của án thẩm không kháng cáo, kháng nghị,
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải chịu thi hành án
dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
6
hành án hoặc bị cưỡng chế thi nh theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b, 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Công an tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Đ;
- Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ;
- Công an huyện Đ;
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ;
- Bị cáo, người tham gia tố tụng khác;
- Lưu: Hồ vụ án, Tòa HS, án văn;
- Lưu: VT (TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thế Phương
Tải về
Bản án 25/2022/HS-PT Cà Mau Bản án 25/2022/HS-PT Cà Mau

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án 25/2022/HS-PT Cà Mau Bản án 25/2022/HS-PT Cà Mau

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất