Bản án số 04/2025/DS-ST ngày 11/06/2025 của TAND huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 04/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 04/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 04/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 04/2025/DS-ST ngày 11/06/2025 của TAND huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Mộ Đức (TAND tỉnh Quảng Ngãi) |
Số hiệu: | 04/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ông Nguyễn Công Bằng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Quang Thạch và bà Phan Thị Kim Anh di dời, dỡ dọn cây cối, vật kiến trúc trên diện tích đất 14,8m2 của thửa đất 1762, tờ bản đồ số 11 xã Đức Chánh; có các giới cận |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN MỘ ĐỨC
TỈNH QUẢNG NGÃI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 04/2025/DS-ST
Ngày: 11-03-2025
V/v:“Tranh chấp đất đai theo quy
định của pháp luật về đất đai”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘ ĐỨC, TỈNH QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Thanh Sang
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Đăng Văn Minh
2. Ông Huỳnh Kim Tuấn
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Dung, là Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi tham
gia phiên toà: Bà Trần Thị Thu Nguyệt - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 03 năm 2025, tại Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức, tỉnh
Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 63/2023/TLST-DS, ngày
06 tháng 12 năm 2023, về việc “Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật
về đất đai” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2024/QĐXXST-DS ngày
07 tháng 11 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 20/2024/QĐST-DS, ngày
26 tháng 12 năm 2024; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 01/2025, ngày 20
tháng 01 năm 2025 và thông báo thời gian xét xử số 16/TB-TA, ngày 17 tháng 02
năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Công B, sinh năm 1958; địa chỉ: thôn F, xã Đ,
huyện M, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Công B có anh Nguyễn Lê Q,
sinh năm 1992; địa chỉ: thôn F, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Là người đại
diện theo ủy quyền. (Văn bản ủy quyền các ngày 27/03/2023 và ngày 19/12/2024)
2. Bị đơn: Ông Trần Quang T, sinh năm 1966; địa chỉ: thôn F, xã Đ, huyện
M, Quảng Ngãi.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân xã Đ
Địa chỉ trụ sở: thôn F, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi,
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quang C, chức vụ: Chủ tịch
UBND xã. Vắng mặt
- Bà Phan Thị Kim A, sinh năm 1968; địa chỉ: thôn F, xã Đ, huyện M,
Quảng Ngãi.;
2
- Bà Trần Thị T1 (Trần Thị Huyền T1), sinh năm 1959; địa chỉ: thôn F, xã
Đ, huyện M, Quảng Ngãi.
Người đại diện hợp pháp của bà Trần Thị T1 có anh Nguyễn Lê Q, sinh năm
1992; địa chỉ: thôn F, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Là người đại diện theo ủy
quyền. (Văn bản ủy quyền các ngày 27/03/2023 và ngày 19/12/2024)
- Anh Đào Minh V1, sinh năm 1985 và chị Nguyễn Thụy V, sinh năm 1986.
Vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Cùng địa chỉ: thôn F, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi
- Anh Trần Quang T2;
- Anh Trần Quang L;
Cùng địa chỉ: thôn F, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng mặt có đơn đề
nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 14/6/2023, đơn khởi kiện bổ sung ngày
24/11/2023; các văn bản trình bày khác trong quá trình giải quyết vụ án của
nguyên đơn ông Nguyễn Công B và tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn trình bày:
Ông Nguyễn Công B và bà Trần Thị T1 là chủ sử dụng thửa đất số 1762, tờ
bản đồ số 11 diện tích 386m
2
thuộc bộ địa chính xã Đ. Nguồn gốc thửa đất được
tách từ thửa đất thửa đất số 144, tờ bản đồ số 11 (bản đồ năm 2004), diện tích
502m
2
được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AD 114409, số vào sổ H.10072, cấp ngày 18/10/2005. Năm 2019 ông Nguyễn
Công B và bà Trần Thị T1 làm thủ tục tách thửa đất 144, tờ bản đồ số 11 thành 02
thửa, cụ thể: Thửa 1762, diện tích 386m
2
và thửa 1763, diện tích 119m
2
, đều thuộc
tờ bản đồ số 11 và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho ông Nguyễn
Công B và bà Trần Thị T1 vào ngày 16/7/2019. Năm 2019, ông Nguyễn Công B
và bà Trần Thị T1 lập Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 1763, diện tích
119m
2
, tờ bản đồ số 11 xã Đ cho con gái và con rể là Nguyễn Thụy V và Đào
Minh V1 được UBND xã Đ chứng thực ngày 30/7/2019. Quá trình sử dụng đất
liền kề, ông Trần Quang T tự ý lấn chiếm, sử dụng trái pháp luật diện tích 18,2m
2
của thửa đất số 1762, tờ bản đồ số 11 của cha mẹ anh.Vị trí đất lấn chiếm có các
giới cận: Đông giáp thửa đất 1763 của Đào Minh V1, Nguyễn Thụy V; phía Tây
giáp phần đất của ông B; phía Nam giáp đất của ông B và phía Bắc giáp đất của
ông Trần Quang T. Bên cạnh đó ông T còn trồng cây câu trên phần đất bị lấn
chiếm mà còn thách thức gia đình anh. Trước đây, cha ông là ông Nguyễn Công B
yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Quang T chặt bỏ cây cối để trả lại phần
diện tích lấn chiếm 18,2m
2
tại thửa đất số 1762, tờ bản đồ số 11 xã Đ. Nay ông
Nguyễn Công B thay đổi yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu ông T di dời các cây câu
trả lại diện tích 14,7m
2
. Chi phí tố tụng yêu cầu bị đơn phải chịu.
Tại bản tự khai ngày 20/12/2023, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa
sơ thẩm, bị đơn ông Trần Quang T trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 101, tờ bản
3
đồ số 11 (bản đồ năm 2004) xã Đ, vợ chồng ông là Trần Quang T và bà Phan Thị
Kim A đang quản lý, sử dụng là do ông bà lưu hạ.Trước đây khi ông đến ở phía
Nam của mảnh vườn (thửa đất số 101 tờ bản đồ số 11) đã có hàng rào bằng cây
sống gồm cây bòng tây, cây cau. Tiếp giáp với hàng rào bằng cây sống của vườn
nhà ông có 01 con mương nước của Hợp tác xã. Tiêp đến là thửa đất ruộng, đến
năm nào ông không nhớ rõ thì Nhà nước cấp thửa đất ruộng này cho ông B, khi
ông B đến đổ đất và làm nhà trên thửa đất được nhà nước cấp (thửa đất số 144, tờ
bản đồ số 11 như hiện nay) thì hàng rào bằng cây sống của mảnh vườn nhà ông
vẫn còn. Năm nào ông không nhớ ông B lấn mương đến sát hàng rào nhà ông.
Đến khoảng năm 2010 ông B xây dựng nhà lần thứ 2 thì khi thợ xây dựng tô vách
tường nhà ông B bị vướn hàng rào của nhà ông, ông B có nói với ông xin chặt
hàng rào để cho thợ tô tường, ông đồng ý chặt hàng rào cây sống cho ông B tô
vách tường. Đến khoảng năm 2012 thì giữa ông và ông B có nói chuyện và ông
đồng ý chặt bỏ hàng rào bằng cây sống cho ông B xây dựng tường rào bằng trụ bê
tông, chân móng gạch, trên kéo lưới B40. Năm 2019, con gái ông B (Nguyễn
Thụy V) xây dựng nhà thì có xin bắt đường ống nước để dẫn nước sạch từ nhà
ông B xuống để sử dụng thì ông có nói là: đường ống nước sử dụng lâu dài nên
bắt ở phía trước nhà không nên bắt ra phía sau kẹp theo vách tường lỡ khi ông làm
vườn có đốt rác thì xe bị ảnh hưởng đến đường ống nước. Việc hàng cau nhà ông
trồng thì có sát vách nhà ông B nên khi mưa bảo có làm bể ngói nhà ông B, ông
có qua nói ông là chặt mấy cây cau ông vẫn để cho ông B chặt cau (theo ônh nếu
không có các cây cau của nhà ông thì gió bão ngói nhà ông bằng vẫn bị bay ngói
rớt vỡ). Khi gia đình ông B có đơn gửi đến UBND xã Đ thì có cán bộ đến làm
việc, hòa giải nhưng không thành cán bộ địa phương có nói là ông không có cơ sở
lấn đất nhà ông B. Từ đó gia đình ông B không đồng ý tiếp tục có đơn gửi đến
UBND xã và có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức. Ông xác định
ông giữ nguyên ý kiến như tôi đã trình bày trước đây. Việc nguyên đơn khởi kiện
cho rằng ông lấn chiếm diện tích đất của nguyên đơn là không đúng. Vợ chồng
ông đã quản lý, sử dụng thửa đất ổn định không có tranh chấp và được UBND
huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chi vợ chồng ông; đến năm 2005
được cấp đổi Giấy chứng nhận QSDĐ tại thửa đất số 101 tờ bản đồ số 11, diện
tích là 1.125m
2
. Nay nguyên đơn yêu cầu vợ chồng ông phải dỡ dọn cây câu, trả
lại cho nguyên đơn diện tích đất lần chiếm là 14m
2
ông không đồng ý.
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Trần Thị T1 có anh Nguyễn Lê Q trình bày: Bà T1 thống nhất vơi yêu cầu của
nguyên đơn ông Nguyên Công B1, không bổ sung gì.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Kim A có anh trình
bày: Bà là vợ ông Trần Quang T, bà thống nhất về nguồn gốc, quá trình sử dụng
thửa đất 101, tờ bản đồ số 11 xã Đ như ý kiến của ông T, bà không bổ sung gì.
Tại văn bản trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
chị Nguyễn Thụy V và anh Đào Minh Đề đều trình bày: Năm 2019, anh, chị được
cha mẹ là ông Nguyễn Công B và bà Trần Thị T1 tặng cho quyền sử dụng tại thửa
đất số 1763, tờ bản đồ số 11, diện tích 119m
2
. Sau đó anh, chị tiến hành xây dựng
trên phần đất được tặng cho. Việc cha mẹ anh chị khởi kiện ông Trần Quang T về
4
việc lấn chiếm quyền sử dụng đất với diện tích 18,2m
2
của thửa đất 1762, tờ bản
đồ số 11, anh chị không có ý kiến gì.
Tại văn bản trình bày ý kiến đề ngày 18/9/2024 của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan anh Trần Quang L và anh Trần Quang T2 đều trình bày: Các
anh là con của ông Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A, các anh sống với cha mẹ
trên thửa đất số 101, tờ bản đồ số 11 xã Đ. Việc tranh chấp đất với ông Nguyễn
Công B thì cha mẹ các anh giải quyết không liên quan gì đến các anh vì đất đai
thuộc quyền sử dụng của cha mẹ các anh. Các anh có công việc bận rộn, nên
không thế đến Tòa án tham gia tố tụng, nên các anh đề nghị Tòa án giải quyết, xét
xử vắng mặt các anh.
Tại văn bản trình bày ý kiến số 154/UBND, ngày 04/9/2024, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân xã Đ trình bày: Theo hồ sơ thì
hiện nay phần diện tích thực tế ông Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A đang sử
dụng tăng so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phần diện tích tăng có
phần do UBND xã quản lý. Tuy nhiên qua kiểm tra thì phần diện tích đất tăng của
ông Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A nằm trong phạm vi đất giao thông
(đường đi). UBND xã Đ ý kiến để Tòa án có cơ sở giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật.
* Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộ Đức:
- Về tố tụng:
Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời
điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa
tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của
các đương sự đúng theo quy định tại Điều 70, 71, 72 và 73 của Bộ luật tố tụng dân
sự. Tuy nhiên, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là UBND xã Đ chấp hành
chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình quy định tại Điều 70, 73 Bộ luật
tố tụng dân sự, không có mặt tại phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải và tại
phiên tòa.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ Điều 26, 35, 39, 157, 158, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Điều 167, 188 Luật đất đai 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Buộc ông Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A chặt bỏ,dỡ dọn cây cối trên
phần diện tích 14,8m
2
của thửa đất số 1762, tờ bản đồ số 16 xã Đ, có các giới cận:
Đông giáp thửa đất 1763 của Đào Minh V1, Nguyễn Thụy V; phía Tây giáp phần
đât của ông B; phía Nam giáp đất của ông B và phía Bắc giáp đất của ông Trần
Quang T
- Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, chi phí xem xét thẩm định,
định giá tài sản tại chỗ theo quy định của pháp luật.
Ông Nguyễn Công B thuộc trường hợp miễn nộp tiền tạm ứng án phí và án
phí theo quy định của pháp luật. Ông Trần Quang T là người cao tuổi, đã có đơn
xin miễn án phí hợp lệ nên được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.
5
Bà Phan Thị Kim A phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí
dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem
xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp: Ông Nguyễn Công B khởi
kiện yêu cầu ông Trần Quang T chặt bỏ trên đất, trả lại diện tích đất lấn chiếm
17m
2
của thửa đất số 1762, tờ bản đồ số 11 xã Đ. Do đó, Tòa án xác định lại quan
hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp
luật về đất đai” theo quy định tại khoản 9 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015.
[1.2] Tại đơn khởi kiện Nguyễn Công B khởi kiện yêu cầu ông Trần Quang
T trả lại diện tích đất lấn chiếm 17m
2
của thửa đất số 1762, tờ bản đồ số 11 xã Đ.
Tại phiên tòa nguyên đơn thay đổi yêu cầu ông Trần Quang T trả lại diện tích
14,8m
2
của thửa đất số 1762, tờ bản đồ số 11 xã Đ. Xét yêu cầu của nguyên đơn
trả lại tại vị trí, giới cận như đơn khởi kiện ban đầu nhưng do số liệu thay đổi khi
đo đạc, xét yêu cầu này của nguyên đơn không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban
đầu
[1.3 Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
ông Nguyễn Công B khởi kiện ông Trần Quang T có nơi cư trú: thôn F, xã Đ,
huyện M, tỉnh Quảng Ngãi và đối tượng tranh chấp là bất động sản tại xã Đ,
huyện M. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức thụ lý, giải quyết vụ án là đúng
thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.3] Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Công B vắng mặt có người đại
diện tham gia phiên tòa; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban
nhân dân xã Đ, bà Phan Thị Kim A, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia
phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vắng mặt; ông Đào Minh V1, chị Nguyễn Thụy
V, anh Trần Quang T2, anh Trần Quang L vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt. Do đó, căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của
Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét nguồn gốc quá trình sử dụng đất thửa đất các thửa đất thửa đất số
144, tờ bản đồ số 11, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Xét nguồn gốc thửa đất số 144, tờ bản đồ số 11 (bản đồ năm 2004) xã Đ:
Theo bản đồ 299/TTg thì thửa đất thuộc thửa đất số 304, tờ bản đồ số 02, diện tích
700m
2
, loại đất T xã Đ.
6
Quá trình quản lý sử dụng ông Nguyễn Công B và bà Trần Thị T1 đăng ký
kê khai được được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số AD 114409, số vào sổ H.10072, cấp ngày 18/10/2005 thửa đất số 144, tờ
bản đồ số 11, diện tích 505m
2
đứng tên ông Nguyễn Công B và bà Trần Thị T1.
Năm 2019 ông Nguyễn Công B và bà Trần Thị T1 làm thủ tục tách thửa đất
144, tờ bản đồ số 11 thành 02 thửa, cụ thể: Thửa 1762, diện tích 386m
2
và thửa
1763, diện tích 119m
2
, đều thuộc tờ bản đồ số 11 và được Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Q cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản gắn liền với đất cho ông Nguyễn Công B và bà Trần Thị T1 vào ngày
16/7/2019. Năm 2019, ông Nguyễn Công B và bà Trần Thị T1 lập Hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất số 1763, diện tích 119m
2
, tờ bản đồ số 11 xã Đ cho con gái
và con rể là Nguyễn Thụy V và Đào Minh V1 được UBND xã Đ chứng thực ngày
30/7/2019.
[2.2] Xét nguồn gốc quá trình sử dụng đất thửa đất các thửa đất thửa đất số
101, tờ bản đồ số 11 xã Đ, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Nguồn gốc thửa đất số 101, tờ bản đồ số 11 (bản đồ năm 2004) xã Đ, vợ
chồng ông là Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A đang quản lý, sử dụng nguyên
trước đây là thửa đất số 305, tờ bản đồ số 02 (bản đồ 299/TTg) xã Đ diện tích
880m
2
.
Quá trình quản lý, sử dụng ông Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A đăng
ký kê khai và được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ H.10080, cấp ngày 18/10/2005, tại thửa đất số 101, tờ bản đồ
số 11 với diện tích 1.125m
2
đứng tên Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A.
[3] Như vậy diện tích thửa đất ông Nguyễn Công B được cấp giấy so với
bản đồ 229/TTg giảm 195m
2
; diện tích thửa đất của ông Trân Quang T3 được cấp
giấy so với tờ bản bản 299/TTg tăng 245m
2
. Tại phiên tòa ông Trần Quang T cho
rằng thửa đất của ông Nguyễn Công B trước đây là thửa đất ruộng và ông B lấn
chiếm con mương nước của Hợp tác xã, nhưng diện tích ông B lại giảm là không
có căn cứ.
[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Công B yêu cầu ông Trần
Quang T di dời, chặt bỏ cây cối, trả lại diện tích lấn chiếm 14,8m
2
tại thửa đất số
1762, tờ bản đồ số 11 xã Đ có các giới cạn: Đông giáp thửa đất 1763 của Đào
Minh V1, Nguyễn Thụy V; phía Tây giáp phần đát của ông B; phía nam giáp đất
của ông B và phía Bắc giáp đất của ông Trần Quang T, Hội đồng xét xử nhận định
như sau:
[5]Tại Công văn số 1322/UBND-KT, ngày 09/8/2024 của Uy5r ban N công
văn của Tòa án có nội dung: Thửa đất số 144, tờ bản đồ số 11 thành 02 thửa, cụ
thể: Thửa 1762, diện tích 386m
2
và thửa 1763, diện tích 119m
2
, đều thuộc tờ bản
đồ số 11 và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho ông Nguyễn Công
B và bà Trần Thị T1 vào ngày 16/7/2019. Từ khi tách thửa đế nay thửa đất chưa bị
thu hồi đất. Thửa đất số 101, tờ bản đồ số 11 (bản đồ năm 2004) xã Đ, vợ chồng
ông là Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A đang quản lý, sử dụng nguyên trước
7
đây là thửa đất số 305, tờ bản đồ số 02 (bản đồ 299/TTg) của xã Đ được Ủy ban
nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H.10080,
cấp ngày 18/10/2005, với diện tích 1.125m
2
. Qua đo đã thực tế thửa đất số 101, tờ
bản đồ số 11 (bản đồ đo vẽ năm 2004) có diện tích là 1.130,1m
2
, tăng 5,1m
2
so
với diện tích được cấp giấy chứng nhậ quyền sử dụng đất cấp ngày 18/10/2005.
Để xác định vị trí phầ đất tăng, đề nghị Tòa án nhân dân huyện thuê đơn vị tư vấn
có chức năng đo đã chồng ghép sơ đồ thực tế với bản đồ địa chính để xác định vị
trí diện tích đất tăng.
[6] Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chổ và đo đạc thực tế: Thửa đất số
1762, tờ bản đồ số 11 có các giới cận: Đông giáp thửa đất số 1763; Tây giáp thửa
đất số 143; Nam giáp đường nhựa; Bắc giáp phần đất tranh chấp với ông Trần
Quang T. Diện tích sử dụng thực tế của thửa đất số 1762 là 372m
2
, giảm diện tích
14m
2
so với giấy chứng nhận được cấp.
Thửa đất số 101, tờ bản đồ số 11 có các giới cận: Đông giáp thửa đất số
1505; Tây giáp thửa đất số 118; Nam giáp phần đất đang tranh chấp với ông
Nguyễn Công B; Bắc giáp đường bê tông. Diện tích sử dụng thực tế của thửa đất
số 101, tờ bản đồ số 11 là 1.116,3m
2
Phần diện tích đất tranh chấp có các giới cận: Phía Bắc giáp đất của ông T;
Phía Nam giáp đất nhà ông B; Phía Tây giáp đất nhà ông B; phía Đông giáp phần
đất ký hiệu A (theo bản vẽ)
Trên phần đất tranh chấp ông T có các cây câu như sau: 07 cây cau đang
cho quả; trong đó có 03 cây đang cho quả do ông Thạch T4, 01 cây nhãn nhỏ. Tại
biên bản ông T khai: trường hợp phần đất tranh chấp thuộc ông B thì ông chặt bỏ
cây cau, không có tranh chấp cây cối trên đất.
[7] Qua chồng ghép bản đồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
thửa đất số 101, tờ bản đồ số 11 (bản đồ năm 2004) của ông Trần Quang T; bà
Phan Thị Kim A xác định các vị trí tăng, giảm các thửa đất như sau:
- Cạnh phía Đông thửa đất số 101 diện tích thực tế bị giảm (ảnh hưởng của
thửa 1505) ký hiệu F6 =37,2m
2
- Cạnh phía Bắc thực tế sử dụng tăng so với diện tích cấp giấy ký hiệu F5
=13,7m
2
;
- Cạnh phía Tây thực tế sử dụng tăng so với so với giấy chứng nhận được
cấp lần lượt là F1(10,5m
2
)+ F2( 3,5m
2
)+ F3(1,5m
2
)+ F4(2,8m
2
)+ F5 (13,7m
2
) + =
32m
2
Tổng diện tích thửa đất số 101: diện tích đo đạc thực tế (1.116,3m
2
) + diện
tích tăng (32m
2
)= 1.148,3m
2
lớn hơn diện tích được cấp giấy chứng nhận
(1.125m
2
) là 23,3m
2
. Tuy nhiên cạnh phía Đông của thửa đất lại giảm 37,2m
2
là
do sự ảnh hưởng của thửa đất số 1505 liền kề, không ảnh hưởng đến diện tích
cạnh phía Nam của thửa đất
[8] Qua chồng ghép bản đồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
thửa đất số 101, tờ bản đồ số 11; các thửa đất số 1762, diện tích 386m
2
và thửa
8
1763, diện tích 119m
2
(thửa đất số 144, tờ bản đố số 11 (đo vẽ năm 2004) của ông
Nguyễn Công B, bà Trần Thị T1 đều thuộc tờ bản đồ số 11 xã Đ xác định:
Phần diện tích ông Trần Quang T sử dụng so với bản đồ cấp giấy chứng
nhận của thửa đất số 101 tờ bản đồ số 11 lấn qua thửa đất số 1762 của ông
Nguyễn Công B tại vị trí ký hiệu B có diện tích 18,2m
2
. Lấn qua thửa đất số 1763
của anh Đào Minh V1 và chị Nguyễn Thụy V ký hiệu A có diện tích 7,5m
2
.
[9] Như đã phân tích ở trên, khi chồng ghép bản đồ cấp giấy và bản đồ sử
dụng thực tế của các thửa đất tranh chấp có căn cứ xác định phần diện tích ông
Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A sử dụng chồng lấn sang thửa đất 1762 của
ông Nguyễn Công B có diện tích 18,2m
2
. Tuy nhiên, tại phiên tòa đại diện nguyên
đơn chỉ yêu cầu ông Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A di dời cây cối, vật kiến
trúc trên diện tích lấn chiếm 14,7m
2
nên được Hội đông xét xử chấp nhận.
[10] Theo kết quả định giá tài sản của Hội đồng định giá: Giá đất vườn
(trồng cây hàng năm khác) tại vị trí đất tranh chấp là 42.000 đồng/m
2
. Thành tiền
42.000 đồng/m
2
x (14m
2
) = 764.400 đồng (588.000 đồng). Cau đang cho quả
200.000 đồng/cây. Thành tiền 8c ây x 200.000 đồng/cây = 1.600.000 đồng. cau
chưa cho quả 100.000 đồng/cây. T2 tiền 5 cây x 100.000 đồng = 500.000 đồng.
Tổng cộng: 2.688.000 đồng.
[7] Anh Đào Minh V1 và chị Nguyễn Thụy V là người sử dụng hợp pháp
thửa đất số 1763 tờ bản đồ số 11 xã Đ không có ý kiến hay yêu cầu gì về diện tích
bị lấn chiếm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Tại phiên tòa, bị đơn ông Trần Quang T không có ý kiến hay yêu cầu gì
về diện tích khi chồng ghép bản đồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bản
đồ năm 2004) của thửa đất số 11, tờ bản đồ số 11 xã Đ và thực tế sử dụng bị ảnh
hưởng bởi thửa đất số 1505, tờ bản đồ số 11 xã Đ, nên Hội đồng xét xử không
xem xét.
[9] Về chi phí tố tụng: Tổng chi phí tố tụng là 13.000.000đồng, trong đó:
Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 5.000.000đồng; chi phí
đo đạc là 8.000.000đồng. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng toàn bộ chi phí tố tụng với
số tiền là 13.000.000 đồng và đã chi phí xong. Do yêu cầu của nguyên đơn được
Hội đồng xét xử chấp nhận, nên ông Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A phải
hoàn trả cho ông Nguyễn Công B chi phí tố tụng theo quy định tại các Điều 157,
165 Bộ luật tố tụng dân sự.
[10] Về án phí:
Ông Nguyễn Công B thuộc trường hợp miễn tiền tạm ứng án phí và án phí
theo quy định của pháp luật.
Bà Phan Thị Kim A phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí
dân sự sơ thẩm.
Ông Trần Quang T là người cao tuổi, đã có đơn xin miễn án phí hợp lệ nên
được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.
[11] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộ Đức tại phiên
tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
9
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều
39, các Điều 147, 157, 158, 165, 166, 218, 227, 228, 235, 266, 271 và 273 của Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều Điều 166, 188 Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều
23, 166, 202 và Điều 203 Luật đất đai năm 2013; căn cứ các Điều 12, 14, 15;
khoản 2 Điều 26, 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Công B về việc “Tranh
chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai”.
Buộc ông Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A di dời, dỡ dọn cây cối, vật
kiến trúc trên diện tích đất 14,8m
2
(ký hiệu Y) của thửa đất 1762, tờ bản đồ số 11
xã Đ; có các giới cận: Đông giáp thửa đất 1763 của Đào Minh V1, Nguyễn Thụy
V; phía Tây giáp phần đât của ông B; phía Nam giáp đất của ông B và phía Bắc
giáp đất của ông Trần Quang T
(Có sơ đồ địa chính thửa đất kèm theo là phần không tách rời của bàn án)
2. Về chi phí tố tụng: Tổng chi phí tố tụng là 13.000.000đồng, trong đó: Chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 5.000.000đồng; chi phí đo đạc
là 8.000.000đồng. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng toàn bộ chi phí tố tụng với số tiền
là 13.000.000 đồng và đã chi phí xong. Do yêu cầu của nguyên đơn được Hội
đồng xét xử chấp nhận, nên ông Trần Quang T và bà Phan Thị Kim A phải hoàn
trả cho ông Nguyễn Công B chi phí tố tụng theo quy định tại các Điều 157, 165
Bộ luật tố tụng dân sự.
3. Về án phí:
Ông Nguyễn Công B thuộc trường hợp miễn nộp tiền tạm ứng án phí và án
phí theo quy định của pháp luật.
Bà Phan Thị Kim A phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí
dân sự sơ thẩm.
Ông Trần Quang T là người cao tuổi, đã có đơn xin miễn án phí hợp lệ nên
được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.
4. Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có
quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết.
5. Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự
thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành
án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND huyện Mộ Đức;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
10
- Chi Cục THADS huyện Mộ Đức;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án.
Trần Thanh Sang
11
12
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 21/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 10/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm