Bản án số 229/2025/DS-PT ngày 15/09/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng hợp tác

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 229/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 229/2025/DS-PT ngày 15/09/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng hợp tác
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 229/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ND
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LD
Bản án số: 229/2025/DS-PT
Ngày: 15 - 9 - 2025
V/v tranh chấp về hợp đồng hợp
tác trồng cây cao su và tranh chấp
về bồi thường thiệt hại do tài sản
b
xâm ph
m
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LD
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Lương Thanh Chín.
Các Thẩm phán: bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh và ông Nguyễn Lê Phương.
- Thư phiên tòa: ông Chu Trần Quốc Huy - Thư Tán của Tòa án
nhân dân tỉnh LD.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh LD tham gia phiên tòa: ông Đinh
Văn Lai - Kiểm sát viên.
Trong ngày 15 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở a án nhân dân tỉnh LD xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 43/2021/TLPT-DS ngày 11 tháng
5 năm 2021 vviệc: Tranh chấp về hợp đồng hợp tác trồng cây cao su
“Tranh chấp về bồi thường thiệt hại tài sản ngoài hợp đồng”.
Do Bản án dân sự thẩm s16/2021/DS-ST ngày 17/3/2021 của Tòa án
nhân dân huyện TL, tỉnh B (nay Tòa án nhân dân khu vực 16 - LD) bị kháng
cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 223/2024/QĐ-PT ngày
18/10/2024; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 75/2024/QĐ-PT ngày
18/11/2024; Thông báo mlại phiên tòa số 29/TB-TA ngày 20/3/2025; Thông
báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 33/TB-TA ngày 26/3/2025; Quyết định
tạm ngừng phiên tòa số 26/2025/QĐ-PT ngày 26/4/2025; Thông báo mở lại
phiên tòa số 428/TB-TA ngày 21/7/2025; Quyết định hoãn phiên tòa số
226/2025/QĐ-PT ngày 20/8/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Hồ Thị Đ, sinh năm 1960;
Địa chỉ: Thôn 4, xã SK, tỉnh LD.
2
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
1. Luật QY Công ty Luật YVNLAW, thuộc Đoàn Luật tỉnh
Đồng Nai;
2. Luật sư Duy N– Công ty Luật YVNLAW, thuộc Đoàn Luật tỉnh
Đồng Nai;
3. Luật sư Võ Minh C– Công ty Luật YVNLAW, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh
Đồng Nai.
Cùng địa chỉ: Số 15A, đường Thị Sáu, phường Trấn Biên, tỉnh Đồng
Nai.
- Bị đơn: bà Hồ Thị T, sinh năm 1952;
Địa chỉ: ấp Suối Tre, phường Bình Lộc, tỉnh Đồng Nai.
- Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Trung N, sinh năm 1976;
Địa chỉ: ấp Thọ Phước, xã Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh B.
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng:
Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh LD.
2. Ủy ban nhân dân xã SK, huyện TL, tỉnh B.
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng:
Ủy ban nhân dân xã SK, tỉnh LD.
3. Bà Võ Thị Thu Huyền, sinh năm 1978;
4. Ông Võ Chí Công, sinh năm 1978;
Cùng địa chỉ: ấp Suối Tre, phường Bình Lộc, tỉnh Đồng Nai.
5. Bà Võ Thị Mỹ Hạnh, sinh năm 1980;
Địa chỉ: Số 573, đường Phạm Văn Bạch, Phường Tân Bình, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của Huyền, ông Công, Hạnh: Hồ
Thị T, sinh năm 1952; Địa chỉ: ấp Suối Tre, phường Bình Lộc, tỉnh Đồng Nai.
- Người làm chứng:
1. Ông Mang L, sinh năm 1983;
3
Địa chỉ: Thôn 2, xã SK, tỉnh LD.
2. Ông Cao Văn K, sinh năm 1969;
Địa chỉ: Thôn 4, xã SK, tỉnh LD.
3. Bà Lưu Thị P, sinh năm 1979;
Địa chỉ: Thôn 4, xã SK, tỉnh LD.
4. Bà Ngô Thị Bích L, sinh năm 1956;
Địa chỉ: Số 93/14, đường Nguyễn Tri P, Khu phố 3, phường LK, tỉnh DN.
5. Ông Ngô Văn H, sinh năm 1965;
Địa chỉ: Tổ 15, Ấp 3A, xã XH, tỉnh ĐN.
6. Ông Trương Ngọc A, sinh năm 1956;
Địa chỉ: Số 665, đường Trần Hưng Đạo, Khu phố 3, phường TT, tỉnh LD.
Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Hồ Thị Đ.
Các đương sự khác không kháng cáo.
Đương sự có mặt: bà Hồ Thị Đ, bà Hồ Thị T, ông Lê Trung N.
Đương svắng mặt: Bộ Chỉ huy quân stỉnh LD, Ủy ban nhân n xã
SK.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp mặt: Luật QY, Luật sư
Võ Minh C.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đề nghị xét xử vắng mặt: Luật
Vũ Duy N.
Người làm chứng mặt: Ông Cao Văn K, Lưu Thị P, ông Ngô Văn
H, ông Trương Ngọc A.
Người m chứng vắng mặt: Ông Mang L đơn đnghị xét xử vắng
mặt, Bà Ngô Thị Bích L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo hồ sơ vụ án sơ thẩm:
Trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Hồ Thị Đ
trình bày: bà Hồ Thị Đ yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng thỏa thuận vviệc
hợp c trồng cao su lập ngày 16/11/2012 giữa ông H với Hồ Thị Đ đã
được Ủy ban nhân dân xã SK chứng thực buộc Hồ Thị T phải chấm dứt
hành vi cản trở, gây kkhăn cho Đtrong việc quản lý, sử dụng, sở H số cây
4
cao su trên diện tích khoảng 23ha đã được ông H thỏa thuận phân chia theo hợp
đồng. Bởi vì:
Ban đầu, Hồ Thị Đ không quen biết ông H. Đến khoảng m
2000, Bà Ngô Thị Bích L giới thiệu cho bà Đ thuê mặt hồ ở Nông trường cao su
AL do ông H làm giám đốc thì lúc đó mới biết ông H. Trong quá trình chăn nuôi
vịt tại Nông trường cao su AL thì ông H mờiĐ với bà L chung vốn trồng cao
su ở xã SK, huyện TL. Ông H dẫn bà Đ với bà Lan đến gặp ông Trương Ngọc A
lúc đó Giám đốc Công ty HS thuộc Tỉnh đội B để hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất mà Ủy ban nhân dân tỉnh B giao cho Công ty HS, nhưng ông A nói chỉ
để một người đứng tên hợp đồng thuê đất với ng ty HS còn các bên hợp tác
trồng cao su thì tự làm hợp đồng phân chia sau. Từ đó ông H đứng ra đại diện ký
hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với công ty HS.
Năm 2001 Đ với ông H, Lan bỏ vốn ra trồng cao su trên diện tích
khoảng 50ha ông H đã hợp đồng với ng ty HS; đến năm 2004 Lan
rút vốn không làm nữa, chỉ còn bà Đvới ông H tiếp tục hợp tác để trồng cao su.
Hai bên bắt đầu trồng cao su trên đất từ năm 2001 được khoảng 10ha, sang năm
2002 trồng được 20ha và năm 2004 trồng được 20ha, đến khoảng năm 2005 mới
ổn định từ năm 2006 2007 trở đi mới thu mủ trên số diện ch trồng trước
được lựa ra đcạo mủ. Chi phí đầu mua giống cao su, phân bón, thuê công
chăm sóc…thì do Đ với ông H bỏ ra bằng nhau. Đến khi cao su bắt đầu cho
thu mủ thì giao cho Tỉnh đội B 5ha theo thỏa thuận đã với công ty HS; diện
ch còn lại Đ với ông H cùng nhau thu mủ, trừ chi phí ra còn bao nhiêu thì
chia đôi, cứ nửa tháng chia một lần.
Sau đó, Đ và ông H muốn chia diện tích cao su ra cho ràng đdễ
quản thu hoạch nên mới đến Tỉnh đội B hỏi ý kiến. Tỉnh đội B cho biết
nguyên tắc chỉ một mình ông H đứng tên ký hợp đồng liên kết với Tỉnh đội chứ
không được có người khác cùng tham gia, nếu có chia cây cao su trên đất thì về
địa phương lập hợp đồng n s thỏa thuận giữa hai bên. Do đó vào ngày
16/11/2012 Đ với ông H thống nhất cùng nhau đến Ủy ban nhân dân SK
lập hợp đồng hợp tác trồng cao su để chia tách diện tích; Đ ông H mỗi
người được quản lý, khai thác mủ cao su trên diện tích khoảng 25ha.
Theo hợp đồng này, Đ quản lý, thu mủ đến năm 2014 t Hồ Thị T
vợ của ông H gửi đơn tố cáo Đ đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh
B về hành vi chiếm đoạt tài sản của gia đình bà T. Cơ quan điều tra đã làm rõ và
Đ không hành vi chiếm đoạt tài sản của gia đình T nên Đ vẫn
người quản lý, thu mủ cao su trên diện tích đã thỏa thuận phân chia với ông H.
5
Đến năm 2018, bà Đ thấy cao su không lợi nhuận nên tiến hành bán cây cao
su trên đất để chuyển đổi trồng cây khác, thì bị bà T ngăn cản. Sự việc được Ủy
ban nhân dân SK giải quyết ban đầu, tạm giao cho hai bên phần cao su đang
quản lý để chờ cơ quan có thẩm quyền giải quyết cho đến nay.
Bị đơn Hồ Thị T đại diện theo y quyền của T ông Trung N
trình bày: bà Hồ Thị T không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bởi
thực tế Hồ Thị Đ không hợp tác trồng cao su với ông Võ H. Kết luận điều
tra của quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B năm 2015 đã thể hiện thời
điểm bấy giờ bà Đ không đủ khả năng tài chính để cùng với ông H trồng cao
su trên diện ch đất mà ông H đã hợp đồng với Công ty HS thuộc Tỉnh đội B.
Hợp đồng hợp tác trồng cao su được lập giữa Đ với ông H năm 2012
hiệu vì thời điểm này ông H đã mất năng lực hành vi dân sự. Ông H giám đốc
nông trường cao su An Lộc, người trình độ học vấn cao n bộ cấp
cao của cao su Đồng Nai, không thể không biết chmà phải điểm chỉ trong hợp
đồng hợp tác trồng cao su do Ủy ban nhân dân SK chứng thực. Nếu tại thời
điểm lập hợp đồng hợp tác trồng cao su với bà Đô, ông H không đủ sức khỏe
minh mẫn thì cần phải người giám hộ theo Bộ luật n sự nhưng trong hợp
đồng không thể hiện ai là người giám hộ cho ông H.
Bị đơn bà Hồ Thị T yêu cầu phản tố đối với bà Đô; yêu cầu tuyên bố hợp
đồng thỏa thuận hợp tác trồng cao su lập ngày 16/11/2012 giữa Đ với ông H
giao dịch dân svô hiệu; buộc Đ phải chấm dứt hành vi chiếm giữ, trả lại
diện tích khoảng 22,5ha cao su đang thu hoạch tại xã SK cho T và buộc bà Đ
phải trả lại số tiền hoa lợi từ việc thu mủ cao su trên diện tích đất này từ năm
2014 đến nay 6.000.000.000đồng. Đồng thời phải bồi thường thiệt hại về tài
sản trên đất cho T số tiền là 6.000.000.000đồng; dựa trên sliệu định mức
được giao của Công ty cao su B so với hiện trạng thực tế của cây cao su đang
tranh chấp hiện nay. Tuy nhiên, tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của T
cho rằng đây chỉ thiệt hại liên quan chứ không phải thiệt hại chính thức nên
xin rút yêu cầu đối với phần nội dung phản tố này.
Người quyền nghĩa vụ liên quan Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh B trình
bày: Công ty HS đơn vị kinh tế thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh B. Thực hiện
chủ trương của Ủy ban nhân dân tỉnh B vviệc cho Công ty HS thđất đ
trồng cao su tại SK, huyện TL thì vào ngày 20/02/2000, đại diện Công ty HS
hợp đồng kinh tế liên kết trồng cao su với ông H một số nhân,
đơn vị khác đối với diện ch đất Ủy ban nhân dân tỉnh B đã cho thuê, chủ
6
trương này đã được BChỉ huy quân sự tỉnh B đồng ý nên hợp đồng đã với
ông H là phù hợp và có hiệu lực pháp luật.
Sau khi kết hợp đồng, ông H trồng cao su đến thời gian thu hoạch
mủ, ông H đã thực hiện nghĩa vụ giao lại diện tích 5ha cho Tỉnh đội B theo đúng
nội dung hợp đồng đã kết giữa hai bên. Đến tháng 01/2009 Công ty HS giải
thể, Tỉnh đội tiếp tục thực hiện những nội dung trong hợp đồng mà Công ty HS
đã ký với ông H vào năm 2000, đồng thời giao trách nhiệm cho Trường Quân sự
tỉnh B trực tiếp theo dõi thực hiện hợp đồng với ông H. Riêng việc hợp tác
trồng cao su giữa ông H với bà Đ việc tranh chấp giữa Đ với bà T tranh
chấp dân sự đối với tài sản (cây cao su) trên đất, không liên quan đến việc
quản lý, sử dụng đối với toàn bộ diện tích y ban nhân dân tỉnh B đã giao
cho Công ty HS trước đây. Do đó trong việc tranh chấp này thì Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh B không có yêu cầu độc lập với các đương strong vụ án; chỉ đề nghị
bên đương sự nào được Tòa án xét xử giao quyền sở H tài sản trên đất thì phải
thực hiện đúng những nội dung đã cam kết trong hợp đồng đã lập giữa Công ty
HS với ông H trước đây, khi kết thúc hợp đồng phải trả lại đúng diện tích và
hiện trạng đất cho đơn vị.
Người có quyền nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân xã SK trình bày:
về hợp đồng hợp tác trồng cao su giữa ông Võ H với Hồ Thị Đ được Ủy ban
nhân n SK chứng thực vào ngày 16/11/2012 tnội dung được chứng thực
không phợp với Luật Đất đai thời điểm bấy giờ hai bên chỉ được thỏa
thuận phân chia tài sản trên đất chứ không được thỏa thuận phân chia quyền sử
dụng đất. Thời điểm này, theo Nghị định 79/2007/NĐ-CP thì việc chứng thực
thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp chỉ chứng thực về chữ ký chứ
không chứng thực nội dung hợp đồng. Hợp đồng này không lời chứng thực
kèm theo mà ghi thẳng vào hợp đồng không đúng, lúc này ông H không
được thì phải người giám hộ theo Bộ luật Dân sự năm 2005 chứ không thể
cho ông H điểm chỉ lăn tay trong hợp đồng. Do đó hợp đồng này chứng thực
không đúng quy trình. Ủy ban nhân dân SK đề nghị Tòa án xem xét giải
quyết theo đúng quy định và Ủy ban nhân dân xã không có ý kiến gì.
Người làm chứng ông Trương Ngọc A trình y tại phiên tòa phúc thẩm:
ông nguyên giám đốc Công ty HS, được giao điều hành các dự án cho thuê
đất trồng rừng cao su, các hợp đồng thuê đất này do ông ký, khi Công ty HS
giải thể thì mới chuyển giao quyền hợp đồng lại cho Bộ Chỉ huy Quân sự
tỉnh. Ban đầu, ông H người được Công ty HS lựa chọn để cho cho thuê 50ha
đất trồng cây cao su, nhưng do ông H không trồng cây cao su lại trồng mía
7
nên ông mời ông H đến làm việc, thông báo với ông H nếu như ông H tiếp tục
trồng mía thì sẽ thu hồi đất này lại. Ông H cho biết hiện đang thiếu vốn để trồng
nên sẽ huy động vốn, một thời gian sau ông thấy ông H dẫn theo Đ đến
giới thiệu người làm ăn chung với ông H trong việc trồng cây cao su. Sau đó,
người đến liên hệ, điều hành việc quản lý khu vực trồng cao su là bà Đô.
Người làm chứng ông Ngô Văn H trình bày tại phiên tòa phúc thẩm: năm
2001 ông được ông H bà Đ thtrồng cây cao su, việc trồng y cao su tiến
hành đến m 2004 thì kết thúc, với diện tích trồng khoảng 50ha. Trong quá
trình làm thì bà Đ là người trực tiếp trả tiền công cho ông.
Người làm chứng Lưu Thị P trình bày tại phiên tòa phúc thẩm: m
2009 người mua mủ cao su của ông H Đô, người quản đất cho
bà Đô, bà chỉ nghe ông Khi nói là ông H lên lúc ông Khi đang làm nhà, còn năm
2013 bà không gặp trực tiếp.
Người làm chứng Ông Cao Văn K trình bày tại phiên tòa phúc thẩm: Từ
năm 2005 cho đến nay ông làm công chăm sóc cao su cho bà Đ trên toàn bộ diện
ch khoảng 45ha đến năm 2012 mới chia ra làm hai cho ông H, bà Đô.
Vụ án được Tòa án nhân dân huyện TL tiến hành hòa giải nhưng không
thành. Tại Bản án dân sự thẩm số 16/2021/DS-ST ngày 27/3/2021, quyết
định:
Căn cứ vào:
- Khoản 3, khoản 6 Điều 26; khoản 1 Điều 35; điểm g, khoản 1 Điều 40;
các Điều 146, 147, 157, 165, 203, 227, 228 khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố
tụng Dân sự;
- Điểm a, khoản 1 Điều 122; các Điều 255, 256, 388; khoản 1 Điều 389
Điều 608 Bộ luật Dân sự 2005;
- Điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hồ Thị Đ, về việc yêu
cầu công nhận hợp đồng thỏa thuận v việc hợp tác trồng cao su lập ngày
16/11/2012 giữa HThị Đ với ông H buộc bị đơn phải chấm dứt nh
vi cản trở nguyên đơn trong việc quản lý, sử dụng, sở H tài sản nguyên đơn
được phân chia theo hợp đồng.
- Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Hồ Thị T.
8
Tuyên bố hợp đồng thỏa thuận hợp tác trồng cao su lập ngày 16/11/2012
giữa ông H với bà HThị Đ giao dịch n shiệu. Buộc bà HThị Đ
phải chấm dứt hành vi chiếm giữ, trả lại cho bà T quyền sở H, quản lý, thu
hoạch toàn bộ số cây cao su trên diện tích đất 225.729,6m
2
tại thôn 4, xã SK,
huyện TL, tỉnh B cho T (Theo Mảnh trích đo địa chính số 54-2020 do Văn
phòng Đăng đất đai - Chi nhánh Tánh Linh duyệt ngày 02/7/2020 kèm
theo bản án).
Buộc Hồ Thị Đ phải nghĩa vụ trả lại cho gia đình Hồ Thị T
2.240.000.000đồng tiền lợi tức thu được từ việc thu hoạch bán mủ cao su
trên diện tích đất 225.729,6m
2
trồng cao su tại thôn 4, SK, huyện TL, tỉnh B
từ năm 2014 đến năm 2020.
Đình chỉ yêu cầu phản tcủa HThị T, về việc buộc Hồ Thị Đ phải
bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cho Hồ Thị T số tiền
6.000.000.000đồng.
Ngoài ra bản án dân sự sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí ttụng, nghĩa
vụ thi hành án, quyền kháng cáo của các đương sự, quyền yêu cầu thi hành án và
thời hiệu thi hành án theo quy định của pháp luật.
Ngày 06/10/2020 nguyên đơn Hồ Thị Đ kháng cáo toàn bộ bản án
thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết:
- Công nhận hợp đồng thỏa thuận về việc hợp tác trồng cao su lập ngày
16/11/2012 được Ủy ban nhân dân SK chứng thực cùng ngày giữa i ông
Võ H;
- Buộc bị đơn Hồ Thị T phải chấm dứt hành vi cản trở, gây khó khăn
cho trong việc thực hiện quyền quản lý, sử dụng sở H toàn bộ số y cao
su trên diện tích khoảng 25 ha đã được thỏa thuận với ông H trong hợp
đồng lập ngày 16/11/2012.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh LD phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Thẩm phán Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng đúng quy
định; người tham gia tố tụng chấp hành pháp luật. Người quyền lợi, nghĩa vụ
9
liên quan vắng mặt nhưng được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nên đề nghị
tiến hành xét xử vắng mặt.
Về nội dung: kháng cáo của nguyên đơn không chứng cứ mới, không
căn cứ pháp luật về phần yêu cầu công nhận hợp đồng. Việc Tòa án cấp
thẩm buộc Đ phải trcho T tiền lợi tức 2.240.000.000đồng không
căn cứ pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xphúc thẩm căn cứ vào khoản 2 Điều
308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm theo hướng nêu trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu nội dung đơn kháng cáo của nguyên đơn; căn cứ các
tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh LD phát biểu
ý kiến.
[1] Về thủ tục tố tụng:
Tại phiên tòa phúc thẩm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt
nhưng được Tòa án triệu tập hợp llần thứ hai nên Tòa án tiến hành xét xử vụ
án quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết: nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu bị đơn công nhận hợp đồng hợp c trồng cây cao su. Bị đơn
phản tố yêu cầu tuyên bố hợp đồng hợp tác trồng cây cao su hiệu, nguyên
đơn giao trả diện tích trồng cây cao su tiền lợi tức tviệc quản lý, sử dụng
diện tích cao su và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Căn ckhoản 3, khoản 6 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 40 của
Bộ luật Tố tụng n sự, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án
“Tranh chấp về hợp đồng hợp tác trồng y cao su; tranh chấp về bồi thường
thiệt hại về tài sản ngoài hợp đồng” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân huyện TL, tỉnh B (nay là Tòa án khu vực 16 - Lâm Đồng).
[3] Về nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[3.1] Đối với yêu cầu công nhận hợp đồng thỏa thuận về việc hợp tác trồng
cao su lập ngày 16/11/2012 giữa nguyên đơn với ông Võ H và buộc bị đơn phải
chấm dứt hành vi cản trở nguyên đơn trong việc quản lý, sử dụng, sở H tài sản
mà nguyên đơn được phân chia theo hợp đồng.
Tại “Hợp đồng thỏa thuận về việc hợp tác trồng cao su” được lập giữa ông
H với Hồ Thị Đ tại Ủy ban nhân n SK, huyện TL ngày 16/11/2012
10
do Đ cung cấp, nội dung: “... Từ năm 2001 ông Võ H Hồ Thị Đ
liên kết trồng 50ha đất cao su tại xã SK huyện TL tỉnh B với hình thức liên kết là
mỗi bên được hưởng 50% trên tổng số diện tích đã trồng cao su. Nay hai bên
thống nhất chia số diện tích đất 50ha đã trồng cao su làm hai phần bằng nhau
chia đều cho hai người tức ông H nhận 25ha Hồ Thị Đ nhận 25ha
...”.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B
cung cấp cho Tòa án thì qtrình điều tra theo nội dung tố cáo của Hồ Thị T
đối với bà Hồ Thị Đ vào năm 2013; từ các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và
tại Bản kết luận số 26/PC44 ngày 10 tháng 11 năm 2015; Cơ quan Cảnh sát điều
tra Công an tỉnh B xác định việc khai hoang, trồng chăm sóc cây cao su tại
Suối Kiết đều do ông Võ H thực hiện, Hồ Thị Đ không có điều kiện cũng
không tham gia góp vốn với ông H. Mặt khác, ngoài lời khai của những người
làm chứng mà bà Đ cung cấp thìĐ cũng không cung cấp được tài liệu, chứng
cứ nào khác để chứng minh có góp vốn với ông H, số tiền góp vốn là bao nhiêu?
Góp theo hình thức nào? và nguồn tiền từ đâu mà có?
Phạm vi thỏa thuận giữa ông Võ H với bà Hồ Thị Đ trong hợp đồng hợp tác
trồng cao su là: “Nay hai bên thống nhất chia số diện tích đất 50ha đã trồng cao
su làm hai phần bằng nhau chia đều cho hai người tức ông H nhận 25ha
bà Hồ Thị Đ nhận 25ha. Theo nội dung này của hợp đồng thì ông H với
Đ thỏa thuận phân chia quyền sử dụng đất đã trồng cây cao su. Tuy nhiên, ti
thời điểm hai bên thỏa thuận xác lập hợp đồng thì Luật Đất đai năm 2003 đang
có hiệu lực thi hành; diện tích đất trồng cao su được Ủy ban nhân dân tỉnh B cho
Công ty HS thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh B thuê để thực hiện chủ trương trồng
cao su; sau đó Công ty HS chỉ kết hợp đồng kinh tế liên kết trồng cao su
không số ngày 20/02/2000 với ông H chứ không phải kết hợp đồng cho
thuê lại quyền sử dụng đất với ông H. Do đó, thời điểm này kể cả ông H và bà Đ
đều không phải là người được quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai
nên nội dung thỏa thuận phân chia quyền sử dụng đất của ông H với Đ trái
pháp luật theo khoản 1 Điều 389 Bộ luật Dân sự năm 2005.
[3.2] Về năng lực hành vi dân sự của ông Võ H tại thời điểm xác lập hợp
đồng hợp tác trồng cao su với bà Hồ Thị Đ ngày 16/11/2012.
Theo “Hợp đồng thỏa thuận về việc hợp tác trồng cao su” giữa ông H
với Hồ Thị Đ được y ban nhân dân SK chứng thực ngày 16/11/2012 thì
phần ghi họ tên của bên A (bên ông H) thể hiện ông H chỉ điểm chỉ
trong hợp đồng bằng ngón trtay trái chứ không phải chữ ký. Theo Đ thì
11
tại thời điểm xác lập hợp đồng thì ông H vẫn còn khỏe mạnh, minh mẫn, đi xe từ
Long Khánh đến SK được và tự đi lại chứ không cần ai giúp đỡ; việc ông H
không trong hợp đồng điểm chdo yêu cầu của ông H đối với công
chức tư pháp xã.
Theo tài liệu trong hồ ván thể hiện, thời điểm ký kết hợp đồng
ngày 16/11/2012 tông H đã bị bệnh. Năm 2007 ông H bắt đầu btai
biến mạch não, đến năm 2009 bị tái phát và bệnh nặng hơn, ông H bị giảm sút
nghiêm trọng vnhận thức, đi lại nói năng rất khó khăn, tay không cầm bút
được và đến cuối năm 2012 thì bị liệt hoàn toàn, nằm một chỗ và sống thực vật.
Tại Bản kết luận Pháp y tâm thần số 84 ngày 25/3/2014 của Viện Pháp y
Tâm thần Trung ương (phân viện phía nam) đã kết luận “Trước, trong sau
ngày 27/10/2010, ông H bị mất tnhớ trong bệnh mạch máu (FO1-ICD.10);
không có năng lực nhận thức điều khiển hành vi (mất năng lực hành vi dân
sự), cần người giám hộ”. Nội dung này cũng đã được thể hiện tại Quyết định
số 07/2014/DSST ngày 14/7/2014 của Tòa án nhân dân thị Long Khánh, về
việc tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự do Hồ Thị T cung cấp,
trong phần xét thấy của Quyết định có thể hiện:
“Ngày 25/6/2014 Viện giám định pháp y tâm thần TW Phân viện phía
nam đã có bản giám định pháp y tâm thần và kết luận:
Về y học: Tnăm 2007 trở vtrước: Đương sự mắc bệnh cao huyết áp,
co biến chứng tai biến mạch não (không thời điểm tai biến); từ ngày
15/10/2010 đến nay, đương sự bị mất trí nhớ trong bệnh mạch u (FO1-
ICD.10).
Về pháp luật: Từ ngày 19/12/2007 đến nay đương sự không năng lực
nhận thức và điều khiển hành vi (mất năng lực hành vi dân sự).
Đương sự không có khả năng phục hồi năng lực hành vi dân sự.”
Nội dung y cũng phợp với nội dung xác minh của Tòa án đối với
Ông Mang Lcông chức Tư pháp xã SK trực tiếp kiểm tra và tham mưu chứng
thực hợp đồng cho ông H với Đ “...qua tiếp xúc tôi nhận thấy ông H còn
khỏe mạnh, nhưng đi lại khó khăn phải có người dìu...”.
Như vậy, thời điểm bấy giờ chưa quyết định củaquan chức năng
thẩm quyền kết luận vviệc mất năng lực hành vi dân scủa ông H. Tuy nhiên,
qua kết luận giám định pháp y tâm thần ng như quyết định tuyên bố một
người mất năng lực hành vi dân sự năm 2014 của Tòa án nhân dân thị Long
12
Khánh thì có đủ căn cứ để xác định tại thời điểm xác lập hợp đồng hợp tác trồng
cao su với Đ thì ông H đã bị mất năng lực nh vi dân sự. Do đó giao dịch
dân sự về hợp tác trồng cao su được xác lập giữa ông H với Đ đã vi phạm
điều kiện hiệu lực của giao dịch theo điểm a, khoản 1 Điều 122 Bộ luật dân
sự năm 2005.
[3.3] Về hình thức chứng thực hợp đồng của Ủy ban nhân dân SK,
huyện TL:
Theo hợp đồng hợp tác trồng cao su giữa ông Võ H với bà Hồ Thị Đ được
Ủy ban nhân dân SK chứng thực ngày 16/11/2012 thì phần chứng thực của
Ủy ban nhân dân xã chỉ thể hiện “XÁC NHẬN CỦA UBNDSK” và chữ
của người có thẩm quyền. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 5
Điều 17 của Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ; về cấp
bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản gốc, chứng thực chữ ký thì Ủy ban
nhân dân cấp xã, phường thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực chữ
trong c giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt; người thực hiện chứng thực phải ghi
ngày, tháng, năm chứng thực; địa điểm chứng thực; số giấy tờ tuthân của
người yêu cầu chứng thực, ngày cấp, nơi cấp; chữ trong giấy tờ, văn bản
đúng chữ ký của người yêu cầu chứng thực; sau đó ghi họ, tên và
đóng dấu của quan thẩm quyền chứng thực. Như vậy, về thủ tục chứng
thực chữ ký trong hợp đồng hợp tác trồng cao su của Ủy ban nhân dân xã SK chỉ
chữ của người thẩm quyền chứ không ghi lời chứng thực hiện chưa
đúng trình tự quy định tại khoản 3 Điều 17 của Nghị định 79/2007/NĐ-CP, ngày
18/5/2007 của Chính phủ, đồng thời ông H chỉ lăn tay vào hợp đồng nhưng
không có người làm chứng.
Hội đồng xét xnhận thấy yêu cầu công nhận hợp đồng thỏa thuận về việc
hợp tác trồng cao su lập ngày 16/11/2012 giữa nguyên đơn với ông H
buộc bị đơn phải chấm dứt hành vi cản trở nguyên đơn trong việc quản lý, sử
dụng, sở H tài sản nguyên đơn được phân chia theo hợp đồng không
căn cứ pháp luật để chấp nhận.
[4] Về nội yêu cầu phản tố của bị đơn:
[4.1] Về yêu cầu tuyên bố hợp đồng thỏa thuận hợp tác trồng cao su lập
ngày 16/11/2012 giữa Hồ Thị Đ với ông Võ H là giao dịch dân sự hiệu
buộc Đ phải chấm dứt hành vi chiếm giữ, trả lại quyền sở H, quản thu
hoạch toàn bộ số cây cao su trên diện tích đất khoảng 22,5ha tại SK cho
Hồ Thị T.
13
Như phần nhận định đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì đủ
căn cứ pháp luật để chấp nhận yêu cầu tuyên bố hợp đồng thỏa thuận hợp tác
trồng cao su lập ngày 16/11/2012 giữa Đ với ông H giao dịch dân sự vô
hiệu. do: việc xác lập “Hợp đồng thỏa thuận vviệc hợp tác trồng cao su”
giữa ông H với Đ diễn ra trong thời điểm ông H bị bệnh liên quan đến việc
mất năng lực hành vi dân sự như Công văn số 967-2013/FVH-MED ngày
05/12/2013 Công văn s23-2014/FVH-MED ngày 06/01/2014 của Công ty
trách nhiệm H hạn y tế Viễn Đông Việt Nam (Bệnh viện FV) kèm toa thuốc,
chứng từ điều trị, vi phạm điều kiện hiệu lực của giao dịch dân sự theo
điểm a, khoản 1 Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005 nên giao dịch này bị vô hiệu
theo Điều 127 Bộ luật Dân sự m 2005. Do giao dịch n sự “Hợp đồng thỏa
thuận về việc hợp tác trồng cao su” giữa ông H với Đ bị hiệu nên việc
Đ chiếm giữ, quản lý, thu hoạch mủ cao su trên phần diện tích đất 225.729,6m
2
đất không có căn cứ theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của T, buộc Đ phải chấm
dứt hành vi chiếm giữ, trả lại cho bà T quyền sở H, quản lý và thu hoạch toàn bộ
số cây cao su trên diện tích đất 225.729,6m
2
tại Thôn 4, xã SK, huyện TL, tỉnh B
(nay SK, tỉnh LD) phù hợp với quy định tại các Điều 255, 256 Bộ luật
Dân sự năm 2005.
[4.2] Về yêu cầu bà Hồ Thị Đ phải trả lại cho gia đình bà Hồ Thị T số tiền
thu lợi nhuận từ việc bán mủ cao su từ năm 2014 đến năm 2020 với số tiền
6.000.000.000đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định việc bà Đ chiếm H, quản lý và thu hoạch mủ
cao su trên tổng diện tích đất 225.729,6m
2
trồng cao su không căn cứ pháp
nên T yêu cầu Đ phải hoàn trả lại lợi nhuận thu được từ việc bán mủ
cao su từ năm 2014 đến năm 2020 căn cứ để chấp nhận. Tòa án cấp sơ
thẩm căn cứ vào sản lượng số tiền đã bán mủ thu được trên thực tế theo lời
trình bày của Lưu Thị P người trực tiếp thu mua mủ cao su của Đ từ
năm 2009 đến nay thì mỗi tháng, stiền Phương trả cho Đ tiền việc mua
mủ cao su của Đ từ 60.000.000đồng đến 70.000.000đồng, sau khi trừ đi
các khoản chi phí về nhân công cạo mủ, tiền đầu phân bón, chi phí vận
chuyển mủ...thì mỗi tháng, với số cao su trên diện tích đất 225.729,6m
2
bà Đ thu
lợi được số tiền 40.000.000đồng; thời gian thủ mủ cao su tại khu vực xã SK mỗi
năm trung bình 8 tháng, trong thời gian từ năm 2014 đến m 2020 56
tháng (8 tháng/năm x 7 năm) thì số tiền thu được từ việc bán mủ cao su của bà Đ
là 2.240.000.000đồng.
14
Xét đây nghĩa vụ hoàn trả hoa lợi, lợi tức, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà
Đ hoàn trả cho bà T hoa lợi, lợi tức như trên là chưa có căn cứ theo quy định của
pháp luật dân sự. Trong khi đó quá trình chăm sóc, đầu từ khi mua giống đến
khi thu hoạch mcao su Hồ Thị T không tham gia, không có tài liệu, giấy tờ
chứng minh việc toàn bcao su trên diện tích đất ông H kết trồng cây
cao su là do ông H làm, trong khi đó tại Giấy ủy quyền ngày 24/8/2009 được Ủy
ban nhân dân Suối Tre, thị Long Khánh, tỉnh Đồng Nai chứng nhận,
nội dung giấy ủy quyền “Nay ông H đồng ý ủy quyền toàn bộ quyền
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng kinh tế về việc liên kết trồng cao su ngày
20/02/2020 lại cho bà Đ quản lý thực hiện”. Lý do ủy quyền: do sức khỏe không
đủ khả năng canh tác quản lý. Điều đó chứng tỏ bà Đ có quá trình quản lý, chăm
sóc, đầu các chi phí phát sinh từ việc trồng chăm sóc cao su từ ngày
24/8/2009.
Đồng thời, không tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc mua bán mủ
cao su, thực tế thu hoạch mủ cao su hàng năm như thế nào nên việc buộc Đ
trả cho T hoa lợi, lợi tức trên diện tích đất trồng cao su không căn cứ
pháp luật. Hội đồng xét xchấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Hồ Thị Đ
đối với phần này.
[4.3] Vyêu cầu Hồ Thị Đ phải bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn rút phản tố với phần yêu cầu này. Tòa án
cấp thẩm đình chỉ giải quyết phần yêu cầu phản tố này không bị kháng
cáo, kháng nghị nên Tòa án cấp phuc thẩm không xem xét.
[5] Về nội dung kháng cáo của bà Hồ Thị Đ, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Về năng lực hành vi của ông H; ông H Giám đốc Công ty cao
su, trong các giao dịch dân sự trước m 2010 ông đều tên ghi họ tên
mình, trong năm 2010 ông H làm giấy chứng nhận sức khỏe để làm hợp đồng
nhưng thời điểm trước, trong ngày 16/12/2012 không tài liệu, chứng cứ nào
chứng minh về sức khỏe của ông H đủ điều kiện giao dịch dân sự, thực tế ông H
đã mắc bệnh liên quan đến năng lực hành vi như đã phân tích trên.
Đ khai bắt đầu hợp tác trồng cây cao su với ông H từ năm 2001 nhưng
Đ không ký kết văn bản nào thể hiện việc hợp tác trồng cây cao su với ông H
từ năm 2001 đến năm 2012, trong khi đó giữa bà Đ và ông H lập Giấy ủy quyền
ngày 24/8/2009 nội dung ông H đồng ý ủy quyền toàn bquyền nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng kinh tế việc liên kết trồng cao su lại cho Hồ Thị Đ
quản lý thực hiện. do ủy quyền: do sức khỏe, không đủ khả năng canh tác
15
quản lý. Thời gian ủy quyền: từ ngày 24/8/2009 đến hết ngày thực hiện xong dự
án năm 2049. Giấy ủy uyền này được ông H và Đ tên, ghi rõ họ tên,
được Ủy ban nhân dân xã Suối Tre, thị xã Long Khánh chứng nhận.
Điều đó chứng tỏ ý chí của hai bên ông H ủy quyền cho Đ quản
chứ không có việc hợp tác trồng cây cao su giữa hai bên và phân chia quyền lợi
cho hai bên.
Mặt khác, trường hợp năm 2001 Đ cùng hợp tác đầu với ông H
nhưng ngày 26/6/2006 Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh B lập Biên bản khảo sát thực địa
thống nhất diện tích đất ăn chia của dự án trồng cao su. Ngày 25/8/2006 Bộ Chỉ
huy quân sự tỉnh B lập Biên bản bàn giao thực địa diện tích đất ăn chia của dự
án trồng cao su đều tên ông H nhưng Đ không ý kiến về quyền
lợi của nh trong thời gian này, không sự thỏa thuận hợp pháp nào khác
liên quan đến hợp tác trồng cao su.
[6] Từ những nhận định phân tích, đánh gia chứng cứ nêu trên. Hội
đồng t xử nhận thấy căn cứ pháp luật để chấp nhận một phần kháng cáo
của bà Hồ Thị Đ.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh LD tham gia phiên tòa là
có căn cứ pháp luật nên chấp nhận.
[7] Ván phí: c đương sự người cao tuổi được miễn án phí theo quy
định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: khoản 2 Điều 308; Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Hồ Thị Đ.
Sửa Bản án dân sự thẩm số 16/2021/DS-ST ngày 17/3/2021 của Tòa án
nhân dân huyện TL, tỉnh B (nay là Tòa án nhân dân khu vực 16 - Lâm Đồng).
Căn cứ vào:
- Khoản 3, khoản 6 Điều 26; khoản 1 Điều 35; điểm g, khoản 1 Điều 40;
các Điều 146, 147, 157, 165, 203, 227, 228 khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố
tụng Dân sự;
- Điểm a, khoản 1 Điều 122; các Điều 255, 256, 388; khoản 1 Điều 389
Điều 608 của Bộ luật Dân sự 2005;
16
- Điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hồ Thị Đ, về việc yêu cầu
công nhận hợp đồng thỏa thuận về việc hợp tác trồng cao su lập ngày
16/11/2012 giữa HThị Đ với ông H buộc bị đơn phải chấm dứt nh
vi cản trở nguyên đơn trong việc quản lý, sử dụng, sở H tài sản nguyên đơn
được phân chia theo hợp đồng.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Hồ Thị T.
Tuyên bố hợp đồng thỏa thuận hợp tác trồng cao su lập ngày 16/11/2012
giữa ông H với bà HThị Đ giao dịch n shiệu. Buộc bà HThị Đ
phải chấm dứt hành vi chiếm giữ, trả lại cho bà T quyền sở H, quản lý, thu
hoạch toàn bộ số cây cao su trên diện tích đất 225.729,6m
2
tại thôn 4, xã SK,
huyện TL, tỉnh B cho T (theo Mảnh trích đo địa chính số 54-2020 do Văn
phòng Đăng đất đai - Chi nhánh Tánh Linh duyệt ngày 02/7/2020 kèm
theo).
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Hồ Thị T, về việc buộc bà Hồ
Thị Đ phải nghĩa vụ trlại cho gia đình HThị T 2.240.000.000 (hai tỷ
hai trăm bốn mươi triệu) đồng tiền lợi tức thu được từ việc thu hoạch và bán mủ
cao su trên diện tích đất 225.729,6m
2
trồng cao su tại Thôn 4, xã SK, huyện TL,
tỉnh B (nay là xã SK, tỉnh LD) từ năm 2014 đến năm 2020.
4. Đình chỉ u cầu phản tố của HThị T, về việc buộc Hồ Thị Đ
phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cho Hồ Thị T số tiền
6.000.000.000đồng.
5. Về chi phí tố tụng:Hồ Thị Đ phải phải chịu toàn bộ chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ, chi phí đo đạc. Bà Đ đã nộp đủ chi phí tố tụng.
6. Về án phí: hoàn trả cho Hồ Thị Đ 300.000đồng tạm ng án ptheo
Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0026996 ngày 25/9/2019 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện TL.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (15/9/2025).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự tngười được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
17
hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại c Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh LD;
- TAND khu vực 16-Lâm Đồng;
- Phòng THADS khu vực 16;
- Đương sự;
- Lưu: hồ sơ; T
ổ HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lương Thanh Chín
Tải về
Bản án số 229/2025/DS-PT Bản án số 229/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 229/2025/DS-PT Bản án số 229/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất