Bản án số 22/2021/HSPT ngày 16/03/2021 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 22/2021/HSPT

Tên Bản án: Bản án số 22/2021/HSPT ngày 16/03/2021 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Tội danh:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Long
Số hiệu: 22/2021/HSPT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/03/2021
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 22/2021/HSPT NGÀY 16/03/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 16 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 20/2021/HSPT ngày 28/01/2021 đối với các bị cáo Đoàn Lê T. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự số 81/2020/HSST ngày 10/12/2020 Tòa án nhân dân huyện L.

Bị cáo có kháng cáo:

Bị cáo Đoàn Lê T, sinh năm 1999; tại Cà Mau; Nơi cư trú: khóm 1, thị trấn C, huyện P, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: sinh viên; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn H và bà Trương Kim M; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đoàn Lê T là sinh viên trường Đại học Cửu Long, ngày 23/7/2020 sau khi đã uống bia cùng bạn tại thành phố V. Đến khoảng 03 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 69K1-221.53 đi từ xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long về ký túc xá trường Đại học Cửu Long thuộc ấp Y, xã Q, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.

T điều khiển xe trên quốc lộ 1A theo hướng Vĩnh Long Cần Thơ. Khoảng 4 giờ 15 phút cùng ngày, T điều khiển xe đến đoạn km 2045+100 thuộc ấp Y, xã Q, huyện L, tỉnh Vĩnh Long với vận tốc khoảng 70-80km/h cách lề phải khoảng 03 mét. Do thiếu quan sát nên T không phát hiện phía trước cùng chiều có xe mô tô biển kiểm soát 64ET 032.55 đang lưu thông do anh Lê M, sinh năm 1977 điều khiển chở vợ chị Võ Thị Ngọc B, sinh năm: 1983, cùng địa chỉ: ấp 4, xã PL, huyện B, tỉnh Vĩnh Long.

Khi xe T cách xe anh T khoảng 02 – 03 mét thì T mới phát hiện. Nhưng do khoảng cách quá gần không kịp xử lý nên phần phía trước xe của T va chạm vào phần sau xe mô tô do anh T điều khiển dẫn đến tai nạn. Hậu quả chị Võ Thị Ngọc B tử vong. Anh Lê M và Đoàn Lê T xây xát nhẹ.

Kết luận giám định pháp y tử thi số 41/2020/TTh ngày 28/7/2020 của Trung tâm pháp y tinh Vĩnh Long kết luận nguyên nhân tử vong của Võ Thị Ngọc B do ngạt bít tắc đường hô hấp/ Đa chấn thương vùng mặt.

Kết quả xét nghiệm nồng độ cồn lúc 06 giờ 20 phút ngày 23/7/2020 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Long thể hiện nồng độ cồn trong máu Đoàn Lê T là 150 miligam/100 mililít máu, vượt quá mức quy định ( theo quy định là 50 miligam/100/mililit máu).

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường thẳng được trải nhựa bê tông bằng phẳng, có dải phân cách cố định chia mặt đường thành hai chiều xe chạy. Hiện trường được đo vẽ vào lề phải hướng Vĩnh Long - Cần Thơ có 03 vạch màu trắng chia làm 03 làn xe lưu thông. Vạch liên màu trắng thứ nhất đo vào lề lm70; vạch kẻ đứt quãng thứ hai đo vào lề 5m27; vạch liên màu trắng thứ ba đo vào lề là 9m10; tâm vùng va chạm đo vào lề 3m10.

Căn cứ vào biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, biên bản khám nghiệm phương tiện và các tài liệu chứng cứ khác do cơ quan điều tra thu thập được. Xác định nguyên nhân xảy ra tai nạn giao thông là do Đoàn Lê T điều khiển xe thiếu chú ý quan sát dẫn đến tai nạn. Vi phạm khoản 8 Điều 23 Luật Giao thông đường bộ.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình chị Võ Thị Ngọc B yêu cầu bồi thường tiền mai táng, tiền tổn thất tinh thần, tiền cấp dưỡng nuôi 02 con, tiền sửa xe, tổng số tiền 280.000.000 đồng. Hiện tại Đoàn Lê T đã khắc phục, bồi thường xong cho gia đình bị hại. Đại diện gia đình bị hại có đơn bãi nại đối với Đoàn Lê T.

Tại bản án sơ thẩm số: 81/2020/HSST ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện huyện L đã quyết định tuyên bố bị cáo Đoàn Lê T phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đoàn Lê T 01 (Một) năm tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định. Ngày 21/12/2020, bị cáo Đoàn Lê T có đơn kháng cáo với nội dung: xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung án sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo. Ngày 23/7/2020, sau khi uống bia, có nồng độ cồn trong máu vượt quá quy định bị cáo điều khiển xe mô tô lưu thông trên quốc lộ 1A hướng Vĩnh Long – Cần Thơ, do thiếu chú ý quan sát bị cáo dẫn đến tai nạn làm bị hại tử vong. Bị cáo đã biết lỗi rất ăn năn hối cải, bản thân đang là sinh viên, bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo để được tiếp tục học tập, làm lại cuộc đời.

Kiểm sát viên nêu quan điểm giải quyết vụ án: Sau khi phân tích hành vi phạm tội, nguyên nhân, hậu quả mà bị cáo đã gây ra; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.

Đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đoàn Lê T mức án 01 năm tù.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi xét xử sơ thẩm, trong hạn luật định bị cáo Đoàn Lê T kháng cáo đối với bản án sơ thẩm xin hưởng án treo nên được đưa ra xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Bị cáo thừa nhận bị cáo có hành vi điều khiển xe môtô khi đã uống rượu bia, nồng độ cồn trong máu vượt quá mức quy định, do bị cáo thiếu chú ý quan sát nên xe của bị cáo điều khiển va chạm vào xe mô tô của anh T đang chở vợ là chị B lưu thông cùng chiều phía trước dẫn đến tai nạn giao thông, hậu quả làm cho bị hại B tử vong.

Trên cơ sở lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường, cùng với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Đoàn Lê T phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của bị hại một cách trái pháp luật, không những gây đau thương tang tóc cho gia đình nạn nhân không gì bù đắp được mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, lỗi chính trong vụ án thuộc về bị cáo.

Xét án sơ thẩm khi quyết định hình phạt đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức án đối với bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên xét thấy xét thấy kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo là không có căn cứ để chấp nhận. Đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để răn đe giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo là có cơ sở để chấp nhận.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn Lê T. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 81/2020/HSST ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện L.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đoàn Lê T 01 (Một) năm tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án.

2. Về án phí: căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đoàn Lê T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Tải về
Bản án số 22/2021/HSPT Bản án số 22/2021/HSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất