Bản án số 206/2025/DS-PT ngày 27/11/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 206/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 206/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 206/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 206/2025/DS-PT ngày 27/11/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thái Nguyên |
| Số hiệu: | 206/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 27/11/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Trần Thị L - Lê Thị L |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THÁI NGUYÊN
Bản án số: 206/2025/DS-PT
Ngày 27/11/2025
V/v Tranh chấp về việc tháo dỡ,
di dời công trình trên đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
- Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lý Thị Thúy
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thế Doanh
Ông Hà Quang Huy
- Thư ký phiên tòa: Bà Diệp Thu Trang
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tham gia phiên toà:
Bà Dương Thị Hương Liên – Kiểm sát viên
Ngày 27 tháng 11 năm 2025, tại Hội trường xét xử, Toà án nhân dân tỉnh
Thái Nguyên mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
111/2025/DS-PT ngày 06/10/2025 về việc “Tranh chấp về việc tháo dỡ, di dời
công trình trên đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2025/DS-ST ngày 25/8/2025 của Tòa án
nhân dân khu vực 1 – Thái Nguyên bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 184/2025/QĐ-PT ngày
14 tháng 11 năm 2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị L, sinh năm 1960, có mặt.
Nơi thường trú: Cụm 7, thôn TC, xã NT, huyện KĐ, tỉnh Hưng Yên (nay là xã
Hiệp Cường, tỉnh Hưng Yên).
Nơi ở: Tổ 01, phường QT, tỉnh Thái Nguyên.
Bị đơn: Bà Lê Thị L1, sinh năm 1947, có mặt.
Địa chỉ: Tổ I, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (nay là tổ D, phường
P, tỉnh Thái Nguyên).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1974, có mặt.
Địa chỉ: Tổ 9, phường Đồng Quang, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (nay
là tổ 49, phường P, tỉnh Thái Nguyên).
Nơi ở: Tổ 10, phường Thịnh Đán, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (nay là
phường QT, tỉnh Thái Nguyên).
2. Bà Võ Thị H, sinh năm 1945, vắng mặt.
Địa chỉ: Tổ I, phường Đ, TP ., tỉnh Thái Nguyên (nay là tổ D, phường P, tỉnh
Thái Nguyên).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, các biên bản lấy lời khai và tại phiên
tòa sơ thẩm nguyên đơn trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 18, tờ bản đồ số 10, tại tổ I, phường Đ, thành phố T bà
nhận chuyển nhượng của bà Lê Thị Liên T1 tháng 10/2010. Vào khoảng cuối năm
2013 bà L1 đã tự ý xây nhà tạm trên thửa đất số 18, tờ bản đồ số 10, tại tổ I,
phường Đ, thành phố T để ở và làm nhà kho. Bà đã được quản lý sử dụng và được
xác lập quyền sử dụng đất theo Bản án số 07/2022/DSST ngày 29/3/2022 của Toà
án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Tại phần quyết định của
bản án trên về phần tài sản trên đất không xem xét giải quyết. Nay bản án trên đã
có hiệu lực pháp luật, nhưng bà L1 vẫn chưa tháo dỡ công trình và bàn giao lại đất
cho bà, gây khó khăn cho bà trong việc làm hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Hơn nữa, bản án không giải quyết về phần tài sản trên đất do vậy không
thể tiến hành tháo dỡ nhà của bà L1 để bà làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất được.
Nay bà đề nghị Tòa án nhân dân Khu vực 1 – Thái Nguyên giải quyết buộc bà
Lê Thị L1 phải tháo dỡ công trình xây dựng nhà cấp 4 bà L1 sử dụng làm nhà ở là
22,8m
2
và tháo dỡ phần nhà cấp 4 bà L1 sử dụng làm kho là 52,4m
2
tại thửa số 18,
tờ bản đồ số 10, địa chỉ: Tổ I, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên để trả cho
bà quản lý sử dụng thửa đất số 18 tờ bản đồ số 10, địa chỉ: Tổ I, phường Đ, thành
phố T, tỉnh Thái Nguyên.
* Tại bản tự khai, các biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn
trình bày:
Bà và bà Trần Thị L hiện nay đang tranh chấp thửa đất số 18, tờ bản đồ số 10,
tại tổ I, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên có nguồn gốc do Hợp tác xã
Nông nghiệp phường Đ giao cho bà quản lý sử dụng từ năm 1973. Năm 2010, bà
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đất trồng lúa. Sau đó, do ngập lụt
nên bà đắp vào để làm ao trồng rau muống. Năm 2008 bà có chuyển nhượng cho bà
L 2 thửa đất là thửa 256 diện tích 73,1m
2
và thửa 179 diện tích 188,5m
2
tờ bản đồ
số 10 đất nông nghiệp. Đối với thửa đất số 18, tờ bản đố số 10, diện tích 183,8m
2
bà không chuyển nhượng cho bà L.
Năm 2020, bà L khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên
công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà L ký ngày
8/10/2010 (gồm hợp đồng viết tay và Hợp đồng theo mẫu với diện tích 183,8m
2
tại
thửa đất số 18 tờ bản đồ số 10 đất trồng lúa) do UBND thành phố T cấp ngày
28/9/2010 cho bà và Hợp đồng có hiệu lực bà không nhất trí. Sau khi bản án có
hiệu lực do không hiểu biết nên bà không làm đơn kháng cáo, sau đó bà cũng đến
Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên đề nghị giải quyết lại và được hướng dẫn làm
đơn đến Tòa án nhân dân cấp cao để làm thủ tục giám đốc thẩm. Bà cũng làm đơn
gửi qua đường bưu điện, nhưng không rõ Tòa án cấp cao có nhận được đơn của bà
không.
Nay bà L yêu cầu bà phải di dời, tháo dỡ 2 ngôi nhà xây tạm trên thửa đất số
18, tờ bản đồ số 10, địa chỉ: Tổ I, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên để trả
đất cho bà L bà không nhất trí. Bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật. Do tuổi cao sức yếu, không đi lại được bà đề nghị Tòa án không triệu
tập bà tham gia các phiên họp, hòa giải, xét xử của Tòa án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
1. Chị Nguyễn Thị T trình bày: Theo biên bản lấy lời khai ngày 18/12/2024
chị T có ý kiến trình bày như bà L1. Chị xác định bà L1 không chuyển nhượng thửa
đất số 18, tờ bản đồ số 10, địa chỉ tại tổ I, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái
Nguyên cho bà L. Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết đúng theo quy định của pháp
luật.
2. Bà Võ Thị H trình bày tại biên bản làm việc ngày 18/12/2024 như sau:
Bà có quan hệ với bà L là hàng xóm, với bà L1 là họ hàng xa và cùng chung
sống tại tổ dân phố. Việc bà L khởi kiện bà L1 bà chỉ nghe nói nhưng không rõ cụ
thể nội dung thế nào. Đối với thửa đất hiện nay bà L và bà L1 đang tranh chấp, năm
2021 bà có đổi đất với bà L1 và đã xây một tường rào bằng gạch xi chiều dài
15,5m, cao 1,2m, dày 0,1m để ngăn không cho gà, chó vào đào bới. Nay bà L và bà
L1 xảy ra tranh chấp, đối với tường rào bà đã xây bà không có ý kiến gì, nếu ai
được quyền sử dụng đất và đề nghị tháo dỡ để trả lại đất bà sẽ tự nguyện tháo dỡ và
không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng thời, bà đề nghị Tòa án không triệu tập bà
đến Tòa án và từ chối tham gia tố tụng.
Tại Bản án sơ thẩm số 25/2025/DS-ST ngày 25/8/2025 của Tòa án nhân dân
khu vực 1-Thái Nguyên đã tuyên xử: Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 157, 158,
165, 166, 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 166, 169 của
Bộ luật dân sự năm 2015; các điều 12, 166, 170 Luật Đất đai năm 2015; các Điều
11, 17, 26, 31, 236 Luật Đất đai năm 2024; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Toà án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L về việc yêu cầu bà Lê Thị
L1 phải tháo dỡ, di dời công trình, tài sản trên thửa đất số 18, tờ bản đồ số 10 tại
phường Đ, thành phố T (nay là phường P), tỉnh Thái Nguyên).
2. Buộc bà Lê Thị L1 có trách nhiệm tháo dỡ, di dời các công trình, tài sản
trên đất, trả lại hiện trạng thửa đất số 18 tờ bản đồ số 10 có tổng diện tích 183,8m
2
cho bà Trần Thị L quản lý, sử dụng. Cụ thể như sau:
+ 01 ngôi nhà xây tường, mái lợp tôn theo vị trí "8, 9, 10, 28, 29, 7-8" có tổng
diện tích 35,0m²: nằm trong thửa đất số 18 theo vị trí "9, 10, 28, 29-9" có diện tích
32,1m²; nằm ngoài thửa đất 18 theo vị trí “B, 7, 8, 9-B” có diện tích 2,9m
2
; 01 trần
nhựa diện tích 32,1m
2
; Nền lát gạch 40x40
diện tích 32,1m
2
;
+ 01 nhà vách tôn, mái lợp tôn theo vị trí "10, 11,12, 23, 24, 26, 27, 28-10" có
tổng diện tích 63,4m
2
: nằm trong thửa đất 18 theo vị trí "10, 11, 12, 23, 24, 27, 28-
10" có diện tích 61,0m²; nằm ngoài thửa đất 18 theo vị trí “24, 26, 27-24” có diện
tích 2,4m
2
; phần mái lợp tôn 61,0m
2
; phần nền láng bê tông 6m
3
; phần tường quây
tôn 50m
2
;
+ 01 sân lợp mái tôn theo vị trí "6, 25, 26, 27, 28, 29, B-6" có tổng diện tích
13,9 m²: nằm trong thửa đất 18 theo vị trí "B, 27, 28, 29-B" diện tích 3,7m²; nằm
ngoài thửa đất 18 theo vị trí “6, 25, 26, 27, B-6” có diện tích 10,2m
2
.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng
cáo của các đương sự.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm, bị đơn kháng cáo đối với Bản án dân sự sơ
thẩm số 25/2025/DS-ST ngày 25/8/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1-Thái
Nguyên .
Tại phiên toà phúc thẩm:
Bị đơn có ý kiến: Giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo. Yêu cầu HĐXX sửa
phần quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2025/DS-ST ngày 25/8/2025 của
Tòa án nhân dân khu vực 1-Thái Nguyên theo hướng không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của bà Trần Thị L với lý do nội dung bản án sơ thẩm không đúng nội
dung, tính chất vụ việc.
Nguyên đơn: Không có ý kiến gì khác đã trình bày tại giai đoạn xét xử sơ
thẩm. Nhất trí với bản án sơ thẩm, không nhất trí với nội dung kháng cáo của bị
đơn.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị T: Giữ nguyên ý
kiến đã trình bày tại giai đoạn xét xử sơ thẩm, đề nghị HĐXX chấp nhận theo ý
kiến của bà L1.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của người tiến hành tố tụng là
đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người
tham gia tố tụng: các đương sự thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân
sự. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn; giữ nguyên Bản án dân sự sơ
thẩm số 25/2025/DS-ST ngày 25/8/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1-Thái
Nguyên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[I] Về thủ tục tố tụng:
[1]. Xét kháng cáo của bị đơn: làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên được
xem xét theo trình tự, thủ tục phúc thẩm.
[2]. Về việc vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị H,
đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tuy nhiên từ giai đoạn sơ thẩm bà H xác định không
liên quan và từ chối tham gia tố tụng. HĐXX căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của
Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
[II]. Về nội dung:
[2.1]. Xét nội dung kháng cáo của bị đơn về việc không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải tháo dỡ, di dời các công trình
trên đất nằm trong tổng diện tích 183,8m
2
thuộc thửa đất số 18 tờ bản đồ số 10 địa
chỉ tại phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (nay là phường P, tỉnh Thái
Nguyên) của nguyên đơn là bà Trần Thị L đối với bị đơn là bà Lê Thị L1, Hội đồng
xét xử thấy rằng:
Tại Bản án số 07/2022/DSST ngày 29/03/2022 của Tòa án nhân dân thành phố
Thái Nguyên về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
nguyên đơn bà Trần Thị L với bị đơn bà Lê Thị L1 đã quyết định: Chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của bà Trần Thị L: “Công nhận phần Hợp đồng thật trong Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất do bà Trần Thị L và bà Lê Thị L1 ký kết ngày
08/10/2010 (gồm hợp đồng viết tay và hợp đồng theo mẫu) đối với 183,8m
2
đất tại
thửa đất số 18 tờ bản đồ số 10; loại đất trồng lúa, thời hạn sử dụng đến năm 2030
tọa lạc tại tổ I phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (nay là phường P, tỉnh
Thái Nguyên) – có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 800190, mang tên
người sử dụng là Lê Thị L1 do UBND thành phố T cấp ngày 28/9/2010 là hợp
đồng có hiệu lực”. Về tài sản trên đất do bà L1 xây dựng gồm: 01 ngôi nhà xây
tường, mái lợp tôn có diện tích 35,0 m²: nằm vào thửa đất số 18: là 32,1 m²; 01 nhà
vách tôn, mái lợp tôn có diện tích 63,4m
2
: nằm vào thửa 18: 61,0 m²; 01 Sân lợp
mái tôn có diện tích 13,9 m²: nằm vào thửa 18 3,7 m².Quá trình giải quyết vụ án bà
L không yêu cầu giải quyết, tự thỏa thuận và hỗ trợ bà L1 thực hiện việc tháo dỡ, di
dời các công trình trên đất nên Tòa án đã không xem xét giải quyết.
Sau khi xét xử sơ thẩm, các đương sự không kháng cáo đối với Bản án số
07/2022/DSST ngày 29/03/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên và
bản án có hiệu lực pháp luật.
Nay, bà L và bà L1 không tự thỏa thuận được việc tháo dỡ tài sản trên thửa đất
số 18, tờ bản đồ số 10 và bà L1 vẫn đang quản lý sử dụng thửa đất và tài sản trên
đất.
Quá trình giải quyết vụ án bà L1 xác định, tại biên bản xác minh thẩm định tại
chỗ và định giá tài sản các công trình xây dựng trên đất bà xây dựng năm 2015,
như vậy sau khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà L thì bà L1 đã tự ý xây
nhà trên thửa đất đã chuyển nhượng cho bà L từ năm 2010.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà L1 cho rằng thửa đất số 18 bà không mua bán
chuyển nhượng cho bà L nên bà không nhất trí trả đất và di dời các công trình do
bà xây dựng trên đất theo đề nghị của của bà L. Xét thấy 02 ngôi nhà và một phần
mái tôn xây dựng trên trên thửa đất bà L nhận chuyển nhượng của bà L1 và đã
được Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên công nhận giao dịch dân sự là hợp
pháp. Việc bà L1 tự ý lấn chiếm và xây nhà trên thửa đất đã chuyển nhượng cho bà
L đất là trái quy định pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở
hữu. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.
Tại Công văn số 335/UBND-ĐC về việc cung cấp thông tin tài liệu ngày
22/4/2025 của UBND phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên xác định: Đối với
công trình xây dựng trên đất của bà L1 gồm nhà xây tường, mái lợp tôn, nhà vách
tôn và mái tôn có một phần nằm vào đất giao thông đề nghị bà L1 tháo dỡ công
trình đã dựng lấn chiếm vào các thửa đất trên để trả lại hiện trạng thửa đất như
trước khi lắp dựng. Xét thấy các tài sản, công trình này không thể tháo dỡ, tách rời
vì vậy, cần buộc bà L1 tháo dỡ cả phần công trình đã dựng lấn chiếm vào đất giao
thông như Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã thu
thập, đánh giá đầy đủ chứng cứ và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L
là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn bà Lê
Thị L1 không cung cấp thêm được tài liệu, chứng cứ mới do đó kháng cáo của bị
đơn là không có căn cứ để chấp nhận, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
25/2025/DS-ST ngày 25/8/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1- Thái Nguyên.
[III]. Về án phí:
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14,
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị đơn là người cao tuổi nên Hội
đồng xét xử miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bị đơn.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 26, Điều 38, Điều 148 và Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều
308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị L1, giữ nguyên
Bản án sơ thẩm số 25/2025/DS-ST ngày 25/8/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1-
Thái Nguyên.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Bị đơn được miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 7a, 7b và 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự”
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND khu vực 1;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

- VKSND tỉnh Thái Nguyên;
- THADS khu vực 1;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Lý Thị Thúy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng