Bản án số 98/2025/DS-PT ngày 08/12/2025 của TAND tỉnh Ninh Bình về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 98/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 98/2025/DS-PT ngày 08/12/2025 của TAND tỉnh Ninh Bình về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Ninh Bình
Số hiệu: 98/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 08/12/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: bà Trần Thị Minh T kiện tranh chấp hợp đồng đặt cọc với ông Nguyễn Văn T2 và bà Nguyễn Thị Thanh T3
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NINH BÌNH
Bản án số: 98/2025/DS-PT
Ngày: 08 - 12- 2025
V/v tranh chấp về hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Nguyễn Thị Phượng.
Các Thẩm phán:
- Ông Tạ Văn Vinh;
- Ông Nguyễn Đức Thủy.
- Thư ký phiên tòa: bà Lương Thị Hòa - Thư của Tòa án nhân dân tỉnh
Ninh Bình.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình: Bùi Thị Thúy Hằng
- Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 08/12/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ số 53/2025/TLPT-DS ngày 01/10/2025 về Tranh
chấp về hợp đồng đặt cọc”.
Do Bản án dân sự thẩm số 19/2025/DS-ST ngày 30/6/2025 của Toà án
nhân dân thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình (nay là Tòa án nhân dân khu vực 1
- Ninh Bình) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 85/2025/QĐPT-DS ngày
30/10/2025, Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm số 71/2025/QĐ-PT ngày
18/11/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Trần Thị Minh T, sinh năm 1960; địa chỉ: số nhà B, đường
T, phường V, thành phố N, tỉnh Nam Định; nay phường N, tỉnh Ninh Bình. (Có
mặt)
*. Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Nguyễn Thị C, sinh năm
1959; địa chỉ: số B, đường T, phường V, thành phố N, tỉnh Nam Định; nay
phường N, tỉnh Ninh Bình. người đại diện theo ủy quyền (văn bản uỷ quyền
ngày 24/5/2025). (Có mặt)
*. Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: ông Trọng
Đ, ông Nguyễn Văn H, bà Diệm Thị Phương T1 - đều là Luật sư của Công ty L1
và Cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư thành phố H; địa chỉ: tầng B, Tòa nhà B, ngõ E,
đường T, phường C, thành phố Hà Nội. (Ông H có mặt; ông Đ, bà T1 vắng mặt).
2
2. Bị đơn: ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị Thanh T3,
sinh năm 1962; địa chỉ: số nhà C, đường N, xã N, thành phố H; nay là phường H,
tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
*. Người đại diện hợp pháp của bị đơn: anh Nguyễn Đức T4, sinh năm 1991;
địa chỉ: số nhà C, đường N, P, N, thành phố H; nay phường H, tỉnh Ninh
Bình. người đại diện theo ủy quyền (văn bản uỷ quyền ngày 10/6/2025). (Vắng
mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
3. Người quyền lợi, nghĩa vliên quan: anh Nguyễn Đức T4, sinh năm
1991; địa chỉ: số nhà C, đường N, P, N, thành phố H; nay phường H, tỉnh
Ninh Bình. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
4. Người làm chứng: ông Văn N, sinh năm 1982. Nơi làm việc: Công ty
TNHH A, địa chỉ: số nhà F, nB, đường T, phường T, thành phố H; nay
phường H, tỉnh Ninh Bình. (Có mặt tại phiên tòa, vắng mặt khi tuyên án).
5. Người kháng cáo: Trần Thị Minh T (nguyên đơn).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm,
nguyên đơn là bà Trần Thị Minh T trình bày:
Nguyễn Thị C được ông Vũ Văn N làm môi giới nhà đất, giới thiệu
cho các bà 2 nhà đất của vợ chồng ông Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thị
Thanh T3 và con trai là anh Nguyễn Đức T4 về lô đất L11 diện tích 360,3m
2
, trên
đất có nhà 3 tầng và lô đất số 341 tờ số 5 diện tích 432m
2
thuộc khu dân cư phía
Tây đường trục N, thành phố H, tỉnh Ninh Bình. C uỷ quyền cho bà chịu
trách nhiệm giao dịch chuyển nhượng.
Sau khi xem nhà và đất, các bà đã thống nhất nhận chuyển nhượng 2 đất
trên với giá 28.000.000.000 đồng. Bà được ông N và bên chuyển nhượng cho biết
2 sổ (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) đang cầm trong Ngân hàng Nông
nghiệp Phát triển nông thôn huyện Y, tỉnh Ninh Bình với số tiền
14.000.000.000 đồng. Ông N anh T4 cho xuống gặp đại diện Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Y, bà gặp một anh cán bộ Ngân hàng
nói 2 sổ cầm ở đây. Sau đó hai bên có thỏa thuận đặt cọc, cùng ra Ngân hàng
thanh toán stiền trên tại Ngân hàng ông T2, T3 rút sổ, xóa thế chấp rồi
công chứng cho bên mua, xong các trả nốt số tiền còn lại. Đến chiều ngày
13/01/2025 bà có đặt cọc cho ông T2, bà T3 số tiền 900.000.000 đồng thông qua
tài khoản của anh T4 (con trai ông T2, bà T3), có ông N làm chứng, sau 40 ngày
từ ngày 13/01/2025 đến 24 giờ ngày 22/02/2025 thì kết thúc hợp đồng chuyển
nhượng. Ông T2, bà T3 có nói công việc này ủy quyền cho anh T4 thực hiện.
Đến ngày 20/01/2025, anh T4 gặp bà ông N ý kiến cho trả tiền trước
1 sổ, còn 1 sổ cho nợ đến 25/12/2025 thì thanh toán hết. Bà về trao đổi với bà C
nhưng bà C không đồng ý và thống nhất vẫn làm theo đúng hợp đồng đã ký ngày
13/01/2025. Đến ngày 21/02/2025 các thông báo với ông N gia đình ông
3
T2, T3 đã chuẩn bị đủ tiền đến sáng ngày 22/02/2025 sẽ vào trả tiền, làm thủ
tục chuyển nhượng xoá thế chấp.
Ngày 22/02/2025, C với ông N đến nhà ông T2, bà T3 để thanh
toán, có 2 người phụ nữ nói người của Ngân hàng mang theo sổ đỏ; do vào ngày
nghỉ của Ngân hàng nên các trả tiền thì cũng không xoá thế chấp được. Vì
do bất khả kháng, các thống nhất đến ngày 24/02/2025 thứ 2 thì thực hiện
chuyển nhượng hợp đồng. Công việc này giao cho ông N giao dịch tiếp cho
bà. Ông N báo lại gia đình ông T2, bà T3 và anh T4 phải đi Hà Nội việc gấp cần
giải quyết nên hẹn đến thứ 4 (ngày 26/02/2025) sẽ về giải quyết. Sau ngày m
đó, ông N mới biết thông tin 2 người phụ nữ hôm trước các bà gặp ở nhà ông T2,
T3n T5 người của bên thi hành án không phải người của Ngân hàng. Các
đến gặp chị T5 được biết: Phòng của chị đang giữ hồ thi hành án của 2 sổ
đỏ trên. Ông T2 nói với ông N, bà T cứ mang tiền đến nộp vào thi hành án.
đến gặp chị T5 để nộp tiền thì chị T5 nói để mời ông T2, T3, anh T4 đến để
làm việc. Sau đó chị T5 nói chờ ông T6 (Cục trưởng) đi họp về thì mới giải quyết.
Sau hôm đó các đến gặp ông T6 trình bày về việc mua bán chuyển nhượng nhà
và đất của ông T2, T3 thì ông T6 nói gia đình ông T2, bà T3 đang làm đơn xin
giảm lãi suất, việc này chờ cũng hơi lâu, chị số điện thoại để lại đây. Sáng ngày
hôm sau được biết ông T2, T3 đã chuyển nhượng bán 2 đất trên cho người
khác.
Ông N đã thay bà liên tục tìm gặp ông T2, bà T3 và anh T4. Họ toàn hẹn sẽ
bố trí ngày gặp sau. thấy họ biểu hiện bất thường nên ng ông N đến
nhà ông T2, bà T3 nhưng ông bà không tiếp và đuổi các bà. Các bà có gửi đơn đề
nghị được thực hiện hợp đồng chuyển nhượng này cho bên thi hành án. Để chuẩn
bị mua một tài sản lớn, gia đình các bà đã phải bán đi rất nhiều tài sản để lấy tiền
mua. Gia đình ông T2 lợi dụng cơn sốt thổi giá bất động sản tại Ninh Bình do sáp
nhập tỉnh nên quay xe bán với giá cao hơn rất nhiều. Số tiền các bà chuẩn bị mua
tài sản của ông T2, T3 đã bị mất grất nhiều. Các nguyện vọng được
tiếp tục thực hiện giao dịch chuyển nhượng 2 lô đất trên.
Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/3/2025, bà T đề nghị Toà án buộc ông T2
T3 phải trả cho số tiền đặt cọc là 900.000.000 đồng stiền phạt
900.000.000 đồng, số tiền thiệt hại về kinh tế 200.000.000 đồng. Tổng số tiền
T đề nghị ông T2 và T3 phải trả cho 2.000.000.000 đồng. Trong quá
trình giải quyết vụ án, T đơn đề nghị thay đổi yêu cầu khởi kiện, đề nghị
Toà án giải quyết: công nhận hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 13/01/2025 giữa và vợ chồng ông T2,
T3. Buộc vợ chồng ông T2, T3 tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc ngày
13/01/2025 về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản trên đất. Ngày
17/6/2025, bà T có đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung đề nghị Toà án: tuyên huỷ hai
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 05/3/2025 giữa ông T2, bà
T3 ông Phạm Trần Thanh N1, chứng thực s42 số 43 quyển số 01/2025-
SCT/HĐ,GD tại Ủy ban nhân dân xã N.
4
Bà T không nhất trí với yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn T2 yêu cầu
độc lập của anh Nguyễn Đức T4.
*. Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi
ích của nguyên đơn cũng nhất trí với ý kiến trình bày của T đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận yêu cầu thay đổi yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Minh
T.
Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp thẩm, bị đơn ông Nguyễn
Văn T2, Nguyễn Thị Thanh T3 người đại diện hợp pháp của bđơn trình
bày:
Ông T2, bà T3 có tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại
thửa đất số 341, tờ bản đồ số 05 và thửa đất số L11. Tổng diện tích đất sử dụng:
792,3m
2
. Tài sản gắn liền với đất nhà mái bằng 03 tầng toàn bộ công trình
xây dựng trên đất; đất đã được cơ quan Nhà nước thẩm quyền cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Toàn btài sản trên, ông T2
T3 đã thế chấp tại Ngân hàng N - Chi nhánh huyện Y (sau đây viết tắt là Ngân
hàng); được sự đồng ý của Ngân hàng cho phép ông được tự tìm khách bán tài
sản để thanh toán nợ.
Thông qua môi giới nhà đất là Công ty TNHH A do ông Văn N làm đại
diện pháp luật, ông được giới thiệu T người muốn tìm hiểu để mua tài sản
trên. Quá trình tiếp xúc, làm việc với bà T, Công ty A, gia đình ông đã nói rõ
tình trạng pháp lý của tài sản nhà đất đã thế chấp Ngân hàng, đã dẫn bà T, ông N
cùng nhân viên của ông Nghĩa L ông S xuống Ngân hàng để xác minh tình trạng
pháp lý tài sản.
Sau khi tìm hiểu được Ngân hàng giải thích rõ các quy định của Ngân hàng
về việc mua tài sản thế chấp, hai bên đã thỏa thuận thống nhất gmua bán tài sản
trên là 28.000.000.000 đồng. Ngày 13/01/2025, các bên đã ký hợp đồng đặt cọc,
bà T có đặt cọc số tiền 900.000.000 đồng, số tiền còn lại là 27.100.000.000 đồng
trong thời hạn chậm nhất 40 ngày (cụ thể thời hạn cuối cùng 24 giờ ngày
22/02/2025) T phải thanh toán toàn bộ số tiền 28.000.000.000 đồng cho gia
đình ông thì hai bên sẽ hợp đồng chuyển nhượng tài sản công chứng theo
quy định. Trách nhiệm của T nộp tiền vào Ngân hàng để được giải chấp tài
sản thuộc về bên mua, còn trách nhiệm của gia đình ông hoàn thành các thủ
tục công chứng sang tên bìa đất đã được giải chấp, sau khi nhận đầy đủ tiền bán
tài sản.
Từ khi đặt cọc đến gần thời điểm thanh toán, T không liên lạc, thông
tin về thời điểm hay phương thức thực hiện hợp đồng, ông bà phải chủ động liên
hệ đôn đốc thanh toán số tiền còn lại theo hợp đồng 27.100.000.000 đồng
thông qua ông N. Thậm chí vào thời điểm sau Tết Nguyên đán, gia đình ông
trực tiếp đến Văn phòng của Công ty TNHH A để gặp ông N, ông N vẫn khẳng
định rằng T sẽ tiến hành thanh toán bình thường đúng hẹn. Tuy nhiên, trước
thời điểm thanh toán khoảng hơn 1 tuần, T chủ động liên hệ với gia đình ông
bà, nói rằng hiện không thể lo được tiền nên xin gia hạn 3 tuần so với thời hạn
cam kết nhưng ông không đồng ý. Những ngày sau đó, T tiếp tục liên lạc
5
với gia đình ông trả tiền vào Ngân hàng đgiải chấp tài sản nhưng gia đình
ông bà không đồng ý vì không đúng với thoả thuận. Nhận thấy việc làm, đề nghị
của bà T có dấu hiệu không ổn trong việc thực hiện hợp đồng đặt cọc mua bán tài
sản, ông bà đã tiếp tục nói lại với bà T, ông Nghĩa L ông bà không đồng ý với đề
nghị của bà T, yêu cầu bà T phải thực hiện đúng theo thỏa thuận đã ký trong hợp
đồng đặt cọc. Ông N ghi nhận và nói rằng cũng đang rất bức xúc với sự lật lọng
của bà T, khẳng định sẽ cùng ông bà giải quyết vấn đề theo đúng thoả thuận hợp
đồng ban đầu. Sau đó ông N liên lạc với ông bà, thông báo rằng bà T đã sẵn sàng
tài chính để thanh toán nốt hợp đồng vào ngày 22/02/2025, thậm chí vào tối ngày
21/02/2025, bà T tiếp tục chủ động nhắn tin khẳng định mình đã lo đủ tiền và hẹn
ông bà ngày mai, tức 22/02/2025 đến để tất toán tiền mua tài sản.
Theo đề nghị của T, ông bà đã liên hệ với Ngân hàng để thực hiện việc
thu tiền, giải chấp tài sản vào ngày 22/02/2025. Tuy nhiên ngày 22/02/2025 bà T
đến gia đình ông bà, nhưng không thực hiện thanh toán số tiền theo thỏa thuận.
Bà T xác định bản thân đã sai, không thực hiện được đúng như thỏa thuận, khẳng
định mình không có đủ tiền để thực hiện giao dịch và xin gia hạn, nhưng ông
không đồng ý, không thỏa thuận nào khác hay gia hạn hợp đồng. Buổi làm việc
này đầy đủ phía Công ty TNHH A gồm ông N, ông S và bà P (buổi làm việc
đã được ông quay video và ghi âm lại). Khoảng nửa đêm ngày 22/02/2025, ông
N quay lại nhà ông xin nói chuyện, ông N khẳng định T không đủ tiền
mua tài sản, ở thế yếu toàn diện và xin gia đình có phương án hỗ trợ, gia đình ông
bà cũng không đồng ý và yêu cầu thực hiện theo đúng hợp đồng. Vì lý do bà T vi
phạm hợp đồng, ông bà không có tiền để trả cho Ngân hàng, vi phạm thỏa thuận
về thời hạn thanh toán cho Ngân hàng nên sau khi hợp đồng kết thúc, bà T không
nộp tiền, ông tiếp tục tìm các đối tác khác để chuyển nhượng tài sản nhằm
thanh toán trả nợ cho Ngân hàng theo đúng thời gian cam kết, để Ngân hàng xem
xét miễn, giảm lãi cho gia đình ông bà. Ngay sau khi tìm được người mua tài sản,
được sự đồng ý của Ngân hàng, ngày 05/3/2025 gia đình ông bà đã ký hợp đồng
chuyển nhượng tài sản trên cho ông Phạm Trần Thanh N1 theo đúng quy định của
pháp luật.
Sau khi ông giao dịch thành công, trả nợ xong c khoản nợ cho Ngân
hàng, bà T đã có nhiều động thái để ngăn cản ngửi đơn đề nghị cho Văn phòng
Đ1, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình không cho ông bà chuyển nhượng tài
sản, đăng biến động tài sản; làm đơn khởi kiện yêu cầu gia đình ông phải
thanh toán số tiền 2.000.000.000 đồng. Việc làm của T đã ảnh hưởng đến quyền
lợi hợp pháp của gia đình ông người mua i sản. Việc chuyển nhượng tài
sản của ông bà hiện vẫn chưa thể thực hiện được, gây thiệt hại về kinh tế, uy tín,
danh dự cũng như tình cảm và các mối quan hệ xã hội khác của ông bà.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp thẩm, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Đức T4 trình bày:
Anh Nguyễn Đức T4 đồng ý với ý kiến của ông T2 T3. Anh không
đồng ý yêu cầu khởi kiện cũng như yêu cầu thay đổi yêu cầu khởi kiện của
Trần Thị Minh T.
6
Ngày 12/6/2025 ông Nguyễn Văn T2 đơn phản tố đề nghị Toà án đình chỉ
việc giải quyết vụ án do bà T không thể thanh toán số tiền còn lại trong ngày
22/02/2025. Bà T không thể thực hiện đúng cam kết hợp đồng không thoả
thuận nào khác, hai bên không văn bản gia hạn thực hiện hợp đồng, vậy hợp
đồng đặt cọc đã chấm dứt, số tiền đặt cọc thuộc về người bán tài sản.
Ngày 12/6/2025, anh Nguyễn Đức T4 yêu cầu độc lập, đề nghị Toà án
chuyển hồ sơ sang Cơ quan cảnh sát điều tra do hành vi của bà Trần Thị Minh T
có dấu hiệu của tội hình sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp thẩm, người làm chứng
là ông Vũ Văn N trình bày:
Công ty có tìm hiểu được nguồn hàng là vợ chồng ông T2, bà T3 có rao bán
02 đất có tổng diện tích 792,3m
2
; tài sản gắn liền với đất: nhà mái bằng 03 tầng
toàn bộ công trình xây dựng trên đất, cụ thể Lô đất số L11 thửa đất số
341.
Công ty ông đã rao bán và giới thiệu với T mua 02 lô đất trên của ông T2
bà T3. nhân ông phía Công ty chỉ nắm được tài sản trên đang thế chấp
tại Ngân hàng. Để đảm bảo an toàn giao dịch, ông cùng bà T bà C cũng đã gặp
trực tiếp trao đổi với lãnh đạo Ngân hàng. Lãnh đạo Ngân hàng nói cứ nộp đủ tiền
sẽ được rút bìa ra làm chuyển nhượng.
Sau đó T đã nhất trí về giá chuyển nhượng 02 đất 28.000.000.000
đồng, ông sắp xếp cho bà T và vợ chồng ông T2 gặp nhau để thực hiện giao dịch
thỏa thuận ngày 13/01/2025 sẽ tiến nh đặt cọc, sau 40 ngày vào ngày
22/02/2025 sẽ trả nốt số tiền mua đất cho ông T2, bà T3.
Ngày 13/01/2025, ông có lập hợp đồng đặt cọc theo thỏa thuận của các bên,
T đặt cọc số tiền là 900.000.000 đồng cho bà T3 và ông T2. Vợ chồng T3,
ông T2 yêu cầu phải chuyển tiền vào tài khoản của anh T4. Ngày 22/02/2025,
ông, bà C và bà T đã tới nhà ông T2 để làm việc. Vì số tiền mua tài sản cũng lớn,
bên T muốn được tiếp cận xem bìa đỏ gốc của 02 thửa đất trước khi giao
tiền. Hai bên bàn bạc và đã đi đến thống nhất vào 24/02/2025 bà T phải bàn giao
toàn bộ số tiền mua tài sản thì vợ chồng ông T2 sẽ nghĩa vụ làm thtục chuyển
nhượng. Khi đó ngoài ông chứng kiến thì còn 02 người khác (người này đã cho
ông xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông hỏi tên nhưng lúc đó không
nói gì). Ông T2 còn nói cứ liên hệ với con trai ông anh T4 vì ông ủy quyền
hết cho anh T4. Đến lúc này cả ông bà T, C đều chưa hề biết tài sản đang
do Cục thi hành án tỉnh Ninh Bình xử lý. Ông T2, T3 cũng không hề nói cho
ông bà về tình trạng của tài sản.
Đến ngày 24/02/2024, ông chủ động liên hệ với anh T4 đT giao nốt tiền
mua tài sản theo đúng thỏa thuận. Tuy nhiên ông T2, anh T4 đều nói bận, chưa đi
Nội về. Theo ông nắm được thửa đất T đặt cọc vẫn được rao chuyển
nhượng trên các trang buôn bán bất động sản. Tìm hiểu kỹ mới biết tài sản này
thực chất đang bị Cục Thi hành án tỉnh Ninh Bình xlý. Gặp chị T5 (là một trong
2 người phụ nxuất hiện tại nhà ông T2), chT5 nói lãnh đạo đi vắng. Đến
7
chiều ông gặp được ông T6 (Cục trưởng) nhưng ông T6 nói cứ về gặp bên phía
nhà ông T2 để 2 bên thỏa thuận. Ngay hôm sau ông biết đã công văn chấp nhận
cho ông T2, T3 xóa thế chấp. Quá trình từ ngày 24/02/2025 đến nay ông thường
xuyên chủ động liên hệ làm việc với vchồng ông T2 nhưng không được hồi âm.
Ông xác định việc bà T đã đặt cọc để mua tài sản của ông T2, bà T3 là đúng. Bản
thân T ngày 24/02/2025 cũng liên tục nhắc ông liên lạc với anh T4 vợ chồng
ông T2 để giao tiền. Nay T khởi kiện về vi phạm nghĩa vụ đặt cọc, ông nhất
trí, ông mong muốn các bên thể thỏa thuận với nhau về phương án giải quyết
sao cho hợp lý và cũng tránh ảnh hưởng đến uy tín của cá nhân, Công ty ông.
Tại Bản án dân sự thẩm số 19/2025/DS-ST ngày 30/6/2025 của Toà án
nhân dân thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình (nay là Toà án nhân dân khu vực 1-
Ninh Bình) đã quyết định: căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản
1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015; Điều 117, Điều 119, khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015;
điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Xử: không chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc: “Công nhận hợp đồng đặt cọc về việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất ngày 13/01/2025
giữa Trần Thị Minh T, ông Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thị Thanh T3”
“Yêu cầu buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn T2, bà Nguyễn Thị Thanh T3 tiếp tục
thực hiện hợp đồng đặt cọc ngày 13/01/2025 về việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất tài sản gắn liền với đất”. Ngoài ra, bản án còn tuyên án phí, quyền
kháng cáo cho các bên đương sự, quyền, nghĩa vụ thi hành án.
Tại đơn kháng cáo ngày 30/6/2025 (bản viết tay) đơn kháng cáo ngày
30/6/2025 (bản đánh máy) của bà T có nội dung: bà đã gửi đơn khởi kiện sửa đổi
bổ sung nhưng không được Tòa án cấp thẩm thbổ sung đơn khởi kiện về
các yêu cầu sau: công nhận hợp đồng đặt cọc ngày 13/01/2025 về việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà, vợ chồng ông T2,
T3. Buộc vợ chồng ông T2, T3 tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc ngày
13/01/2025 về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Tuyên hủy hai hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất ngày 05/3/2025
giữa ông T2 T3 ông N1, chứng thực số 42 số 43, quyển số 01/2025-
SCT/HĐ, GD tại Ủy ban nhân dân xã N. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản
án dân sự sơ thẩm và xét xử lại vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
T, C, người bảo vệ quyền lợi ích của nguyên đơn trình bày: T
vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo. Đồng thời Luật H đề nghị ngừng
phiên tòa để giám định chữ ký của anh T4 tại văn bản ngày 20/01/2025 (có ông N
làm chứng).
Ông N trình bày: ông vẫn giữ nguyên quan điểm đã trình bày tại Tòa án cấp
sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát như sau: trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm,
8
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng
đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét
xử áp dụng: khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Không chấp nhận nội dung kháng cáo của T. Giữ nguyên Bản án dân s
thẩm số 19/2025/DS-ST ngày 30/6/2025 của Toà án nhân dân thành phố Hoa Lư,
tỉnh Ninh Bình (nay là Toà án nhân dân khu vực 1 - Ninh Bình). Miễn án phí dân
sự phúc thẩm choT.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng.
[1.1] Đơn kháng cáo của Trần Thị Minh T làm trong thời hạn pháp luật
quy định và đúng hình thức, nội dung nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Nguyên đơn khởi kiện vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng đặt cọc,
việc bà T chuyển 900.000.000 đồng cho ông T2, bà T3 theo hợp đồng đặt cọc là
quan hệ dân sự, vụ việc không có dấu hiệu tội phạm. Nếu bà T có các tài liệu liên
quan có dấu hiệu tội phạm, thể gửi đơn sang quan Cảnh sát điều tra Công
an tỉnh N giải quyết.
Đối với văn bản ngày 20/01/2025 giữa T với anh T4 đã được làm tại
Tòa án cấp thẩm nên không cần thiết phải giám định chữ của anh T4. Do
đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận ý kiến của người bảo vệ quyền lợi ích
của nguyên đơn đề nghị ngừng phiên tòa để giám định chữ ký của anh T4 tại văn
bản ngày 20/01/2025 nêu trên.
Tại phiên toà, ông T2, bà T3, anh T4 vắng mặt nhưng đều Đơn đề nghị
xét xvắng mặt. Luật Đ, Luật sư T1 đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ
hai mà vẫn vắng mặt.
Do đó, căn cứ Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử phúc
thẩm xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[1.3] Về xác định tư cách người tham gia tố tụng.
Bà T có đơn yêu cầu đưa ông Phạm Trần Thanh N1 Ủy ban nhân dân xã
N vào tham gia tố tụng với cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xét
thấy, yêu cầu khởi kiện của T liên quan đến hợp đồng đặt cọc độc lập, không
liên quan đến tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
T2, bà T3 với ông N1.
Ngoài ra, phía bà T còn yêu cầu đưa Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình,
ông Nguyễn Văn T6 (Cục Trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình), T5
(cán bộ của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình), bà Nguyễn Thị C vào tham
gia tố tụng với cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xét thấy, nguồn
gốc tiền đặt cọc của T do bà T chịu trách nhiệm, ông T2T3 chỉ thỏa thuận,
ký hợp đồng đặt cọc với bà T, bà C không liên quan đến hợp đồng đặt cọc. Bà T
gặp ông T6 trình bày sự việc mua bán nhà đất của ông T2, T3 nên Cục Thi
9
hành án dân sự tỉnh Ninh Bình, ông T6, bà T5 không liên quan đến hợp đồng đặt
cọc ngày 13/01/2025.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông N1, y ban nhân dân xã N, Cục
Thi hành án dân stỉnh Ninh Bình (nay Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình),
ông T6, T5, C vào tham gia tố tụng với cách người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan là có căn cứ, đúng pháp luật.
[1.4] Về phạm vi xét xử phúc thẩm:
Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm xem
xét bản án sơ thẩm theo yêu cầu kháng cáo của bà T.
[2] Về nội dung kháng cáo của bà Trần Thị Minh T.
[2.1] Về xác định phạm vi, yêu cầu khởi kiện.
Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/3/2025, bà T yêu cầu Tòa án giải quyết: buộc
ông T2 T3 phải trả cho số tiền 2.000.000.000 đồng, bao gồm: tiền đặt cọc
900.000.000 đồng, số tiền phạt cọc 900.000.000 đồng, số tiền thiệt hại về kinh tế
200.000.000 đồng.
Tại đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung đngày 02/6/2025, T đề nghị được
thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể: công nhận hợp đồng đặt cọc về việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 13/01/2025 giữa bà T
và vợ chồng ông T2, bà T3. Buộc vợ chồng ông T2, bà T3 tiếp tục thực hiện hợp
đồng đặt cọc ngày 13/01/2025 vviệc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài
sản gắn liền với đất.
Tại đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung đề ngày 17/6/2025, bà T đề nghị bổ sung
yêu cầu khởi kiện, cụ thể: tuyên hủy hai hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ký ngày 05/3/2025 giữa ông T2, bà T3 và ông N1, chứng thực s42 và số 43,
quyển số 01/2025-SCT/HĐ,GD tại Ủy ban nhân dân N, thành phố H, tỉnh Ninh
Bình.
Xét thấy: theo quy định tại Điều 5, khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều 71, khoản
2 Điều 210, Điều 243, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Tòa án chấp nhận
việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung
được thực hiện trước thời điểm mphiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chng cứ và hòa giải. Trong vụ án này, ngày 11/6/2025 Tòa án cấp sơ
thẩm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa
giải. Đến ngày 17/6/2025 (sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ hòa giải), nguyên đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện đề ngày
17/6/2025 vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu.
Do đó, Tòa án cấp thẩm không chấp nhận việc nguyên đơn bổ sung yêu
cầu khởi kiện theo đơn khởi kiện sửa đổi bổ sung đề ngày 17/6/2025 của bà T là
đúng pháp luật. T kháng cáo cho rằng đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung
nhưng không được Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý bổ sung đơn khởi kiện là không có
căn cứ.
10
Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định phạm vi, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
đúng pháp luật, cụ thể nguyên đơn đề nghị Tòa án giải quyết vviệc công nhận
hợp đồng đặt cọc ngày 13/01/2025 giữa T ông T2, bà T3; buộc vchồng
ông T2, bà T3 tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc ngày 13/01/2025.
[2.2] Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất do Ủy ban nhân dân thành phố N cấp ngày 12/6/2017 mang
tên ông Nguyễn Văn T2 Nguyễn Thị Thanh T3 thể hiện: ông T2, T3 được
quyền sử dụng 360,3m
2
đất ở nông thôn, tại thửa đất số L11, tờ bản đồ quy hoạch,
địa chỉ thửa đất: khu dân phía Tây, đường trục xã N, thành phố N, tỉnh Ninh
Bình (sau đây viết tắt là thửa đất số L11). Trên thửa đất L11 có nhà 3 tầng.
Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N cấp ngày 14/5/2018 mang
tên ông Nguyễn Văn T2 Nguyễn Thị Thanh T3 thể hiện: ông T2, T3 được
quyền sử dụng 432m
2
đất ở nông thôn, tại thửa đất số 341, tờ bản đồ số 5, địa chỉ
thửa đất: khu dân cư mới phía Tây đường trục xã N, N, thành phố N, tỉnh Ninh
Bình (sau đây viết tắt là thửa đất số 341).
Như vậy, 02 thửa đất nêu trên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông T2, bà
T3. Ông T2, bà T3 có đầy đủ các quyền của người sử dụng đất.
Quá trình giải quyết ván tại Tòa án cấp thẩm, các đương sự đều thừa
nhận về vấn đề sau: ngày 13/01/2025, ông T2, bà T3 và bà T đã ký kết hợp đồng
đặt cọc về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất
nội dung chính: ông T2 bà T đồng ý bán nhà và đất cho bà T, tại thửa đất số L11
thửa đất s341 với giá chuyển nhượng là 28.000.000.000 đồng; bà T đặt cọc
trước s tiền 900.000.000 đồng; số tiền còn lại 27.100.000.000 đồng; thời hạn đặt
cọc là 40 ngày, kể từ ngày 13/01/2025 đến hết 24 giờ ngày 22/02/2025…Sau khi
hợp đồng được ký kết, quá thời hạn thoả thuận trên, nếu ông T2 bà T không bán,
chuyển nhượng tài sản đặt cọc trên cho T thì bên ông T2 T3 phải bồi thường
cho T gấp 02 lần số tiền T đã đặt cọc, tổng số tiền hoàn trả và bồi thường
1.800.000.000 đồng. Ngược lại, nếu T không tiến hành mua thì phải chịu
mất số tiền đã đặt cọc trên. Ngày 13/01/2025, phía ông T2T3 đã nhận số tiền
900.000.000 đồng bằng hình thức chuyển khoản vào tài khoản của anh Nguyễn
Đức T4. Ông T2, bà T3 không văn bản gia hạn thời hạn thanh toán số tiền
27.100.000.000 đồng. Căn cứ khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự, các
tình tiết nêu trên là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh.
[2.3] Xét giao kết hợp đồng đặt cọc ngày 13/01/2025 giữa bà T với ông T2,
T3 hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, mục đích nội dung của giao
dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật nên việc giao kết hợp đồng đặt cọc
ngày 13/01/2025 giữa nguyên đơn và bđơn có hiệu lực pháp luật. Thỏa thuận về
đặt cọc là giao dịch dân sự. Khi ký kết hợp đồng đặt cọc, T thừa nhận biết
về hiện trạng tài sản đặt cọc đang được thế chấp tại Ngân hàng. Ông T2T3 đã
nhận 900.000.000 đồng tiền đặt cọc để đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất với giá chuyển
nhượng là 28.000.000.000 đồng. Ngân hàng đồng ý không đưa tài sản nêu trên ra
11
bán đấu giá, tạo điều kiện cho ông T2 T3 anh T4 được tự bán toàn bộ tài
sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ thi hành án trả ncho Ngân hàng. Như vậy,
hợp đồng đặt cọc giữa ông T2, T3 với T hiệu lực pháp luật. Các bên
đương sự phải thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung đã cam kết.
Tại Vi bằng số 574/2025/VB-TPLTH ngày 10/6/2025 của Văn phòng T7 thể
hiện: tại ứng dụng Zalo trên điện thoại của T nhắn tin cho anh T4 qua tài khoản
Toàn Ninh B” vào hồi 03 giờ 26 phút ngày 23/02/2025 như sau: “Sáng nay thứ
7 ngày 22/2/ chú cùng môi giới vào làm việc theo đúng hợp đồng đặt cọc
Nhưng vào ngày hành chính nhà nước nghỉ sổ đỏ ngân hàng đang gữi cũng chưa
xóa thế chấp được chưa công chứng được nên chưa giao dịch dc nên lùi chậm lại
vài ngày để cùng nhau giải quyết cháu nhé”.
Trong quyển sổ do T giao nộp cho Tòa án cấp thẩm thể hiện nội
dung của văn bản ngày 20/01/2025 giữa bà T, anh T4 như sau: …T chuyển 12
tỷ vào Ngân hàng để lấy sổ, còn 3 tỷ từ 15 đến hết tháng 1 âm T giao nốt
nhà em T4 sẽ giao nhà theo hợp đồng đặt cọc…
Xét thấy nội dung của văn bản thoả thuận ngày 20/01/2025 giữa bà T, anh
T4 không có giá trị pháp lý, không có chứng cứ chứng minh ông T2T3 đã
uỷ quyền cho anh T4 thoả thuận về vấn đề trên. Thực tế, đến hết tháng 01 âm lịch
(tức hết ngày 27/02/2025 dương lịch) T cũng không thực hiện được việc chuyển
tiền vào Ngân hàng như T đã đồng ý nội dung tại văn bản ngày 20/01/2025 nêu
trên.
Tại Toà án cấp sơ thẩm, bị đơn trình bày: trước thời điểm thanh toán khoảng
hơn 01 tuần, bà T chủ động liên hệ với gia đình ông bà, nói rằng hiện không thể
lo được tiền nên xin gia hạn 3 tuần so với thời hạn cam kết nhưng ông bà không
đồng ý.
Nguyên đơn bị đơn cũng không văn bản gia hạn thực hiện hợp đồng
đặt cọc. T không có căn cứ chứng minh hai bên đã thống nhất chuyển thời hạn
thanh toán từ ngày 22/02/2025 sang thứ hai, ngày 24/02/2025. Mặt khác, trong
hợp đồng đặt cọc, các bên cũng không thoả thuận việc bị đơn phải thực hiện việc
xoá thế chấp tại Ngân hàng trước khi bà T thanh toán 27.100.000.000 đồng.
Tại Điều 3 của hợp đồng đặt cọc thể hiện nội dung: ông T2 T3 nhận đủ
tiền cọc sẽ cùng với T làm thủ tục công chứng, chuyển nhượng tại quan Nhà
nước thẩm quyền. Khi thủ tục công chứng hoàn tất, bà T phải giao đủ số tiền
còn lại cho ông T2T3. Tuy nhiên, sau đó hai bên lại thỏa thuận tại Điều 4 của
hợp đồng đặt cọc bằng dòng chữ viết tay, không phải dòng chữ đánh máy sẵn như
sau: bên mua sẽ thanh toán toàn bộ số tiền 28 tỷ đồng cho bên bán trước khi bên
bán ký công chứng. Căn cứ vào ý chí của các bên được thể hiện trong toàn bộ quá
trình trước, tại thời điểm xác lập, thực hiện hợp đồng, xét thấy thỏa thuận tại Điều
4 nêu trên là thỏa thuận sau, phủ nhận thỏa thuận tại Điều 3 của hợp đồng đặt cọc.
Do đó, Hội đồng xét xử xác định thỏa thuận cuối cùng của hai bên T sẽ thanh
toán toàn bộ số tiền 28.000.000.000 đồng cho ông T2T3 trước khi bên bị đơn
ký công chứng.
12
Đến ngày 22/02/2025, bà T không giao đủ số tiền 27.100.000.000 đồng cho
bị đơn. giải về việc không thanh toán số tiền nêu trên, phía T cho rằng do
hai bên văn bản ngày 20/01/2025 ngày 22/02/2025 vào thứ 7, Ngân hàng
không làm việc và không thực hiện được xóa thế chấp đối với 02 tài sản là không
có cơ sở, vì ngày 22/02/2025 là ngày các bên đã tự thoả thuận trong hợp đồng đặt
cọc, không thuộc skiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan; văn bản thoả
thuận ngày 20/01/2025 giữa T, anh T4 không giá trị pp như đã nhận
định nêu trên. T vi phạm thời hạn thoả thuận trong hợp đồng đặt cọc, không
giao đủ số tiền 27.100.000.000 đồng vào ngày 22/02/2025, dẫn đến không thực
hiện đúng hợp đồng đặt cọc, lỗi hoàn toàn thuộc về nguyên đơn.
Tại khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “…nếu bên
đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên
nhận đặt cọc…”. Mặt khác, tại mục cam kết chung của hợp đồng đặt cọc, các bên
cũng đã thoả thuận: …nếu bên T không tiến hành mua thì phải chịu mất số tiền
đã đặt cọc.
Như vậy, hợp đồng đặt cọc chấm dứt hiệu lực, không còn giá trị thực hiện
đối với các bên tham gia kết hợp đồng đặt cọc, k từ sau 24 giờ ngày
22/02/2025. Do đó số tiền đặt cọc 900.000.000 đồng thuộc về bị đơn. Toà án cấp
thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ.
[3] Như vậy, các do kháng cáo do phía T, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nguyên đơn đề nghị Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án dân sự sơ
thẩm để giải quyết lại vụ án không căn cứ. Từ những nhận định trên, Hội
đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn; giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
[4] Tại Đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 13/11/2025, anh T4 đề nghị
Tòa án chuyển hồ sơ vụ việc sang cơ quan điều tra để khởi tố vụ án.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, yêu cầu nêu trên của
anh T4 không liên quan đến vụ án tranh chấp về hợp đồng đặt cọc. Tòa án cấp sơ
thẩm đã nhận định: nếu anh T4 căn cứ và các tài liệu liên quan có dấu hiệu tội
phạm, anh thể gửi đơn sang quan điều tra đúng pháp luật. Do đó, Hội
đồng xét xkhông chấp nhận đề nghị của anh T4 về việc chuyển hồ vụ việc
sang cơ quan điều tra để khởi tố vụ án.
[5] Án phí dân sự phúc thẩm: do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận
nên T phải chịu án phí dân sphúc thẩm. Tuy nhiên, bà T thuộc trường hợp
người cao tuổi, xin miễn nộp tiền án phí phúc thẩm, thuộc trường hợp được miễn
nộp án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15, khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
13
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí lệ phí Tòa
án. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị Minh T.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm s19/2025/DS-ST ngày 30/6/2025 của
Toà án nhân dân thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình (nay là Toà án nhân dân khu
vực 1- Ninh Bình).
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Trần Thị Minh T được miễn nộp án phí
dân sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
08/12/2025).
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND tỉnh Ninh Bình;
- Phòng Giám đốc, kiểm tra,
thanh tra và thi hành án;
- TAND khu vực 1 - Ninh Bình;
- THADS tỉnh Ninh Bình;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án. VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Phượng
Tải về
Bản án số 98/2025/DS-PT Bản án số 98/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 98/2025/DS-PT Bản án số 98/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất