Bản án số 185/2024/DS-PT ngày 14/01/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 185/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 185/2024/DS-PT ngày 14/01/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 185/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Đặng Công T khởi kiện Bà Đặng Thị Vy B về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, công nhận di sản thừa kế”.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Bản án số: 185/2024/DS -PT
Ngày 27 tháng 9 năm 2024
V/v “Tranh chấp quyền sử dụng đất,
công nhận di sản thừa kế”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Hữu Thị Hảo Hảo
Các Thẩm phán: Ông Trương Chí Trung
Bà Trần Thị Thanh Mai
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Văn Vỹ - Thư ký Tòa án nhân dân thành phố Đà
Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Lê Anh Pha - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét
xử phúc thẩm ng khai
vụ án thụ lý số: 125/2023/TLPT-DS ngày 16 tháng 10 năm
2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, công nhận di sản thừa kế”.
Do Bản án sơ thẩm số 48/2023/DS-ST ngày 24 tháng 8 năm 2023 của Tòa án
nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng bị kng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 62/2023/QĐ-PT ngày 12
tháng 3 năm 2024 và Thông báo v/v mở lại phiên toà số 409/TB-TA ngày 13 tháng
9 năm 2024, giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Ông Đặng Công T, sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện
H, thành phố Đà Nẵng. Địa chỉ liên hệ: Số B đường P, quận H, thành phố Đà Nẵng.
(Ông T có mặt).
2. Bị đơn: Bà Đặng Thị Vy B, sinh năm 1968; địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H,
thành phố Đà Nẵng. (Bà B có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên nguyên
đơn (là các anh chị em của nguyên đơn) gồm:
- Đặng Trương Thị T1, sinh năm 1957; địa chỉ: Số C đường Đ, phường T,
quận H, thành phố Đà Nẵng. (Bà T1 có mặt).
- Ông Đặng Công N, sinh năm 1961; địa chỉ: Số C đường N, thị trấn Á, huyện
Đ, tỉnh Quảng Nam. (Ông N có mặt).
2
- Bà Đặng Thị T2, sinh năm 1965; địa chỉ: Số H đường N, thị trấn Á, huyện Đ,
tỉnh Quảng Nam. (Vắng mặt).
- Ông Đặng Công T3, sinh năm 1968; địa chỉ: Số C đường N, thị trấn Á, huyện
Đ, tỉnh Quảng Nam. (Vắng mặt).
- Đặng Thị Kim T4, sinh năm 1970; địa chỉ: Số A đường H, thị trấn Á, huyện
Đ, tỉnh Quảng Nam. (Vắng mặt).
- Ông Đặng Công T5, sinh năm 1974; địa chỉ: Số F đường H, phường T, quận
T, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt).
Người đại diện cho bà T2, ông T3, bà T4, ông T5 tham gia tố tụng tại Toà án
là: Ông Đặng Công N tham gia tố tụng theo Hợp đồng ủy quyền được Công chứng
ngày 25/02/2021. (ông N có mặt).
- Ông Đặng Công T6, sinh năm 1972; địa chỉ: Số A đường Q, thành phố N, tỉnh
Khánh Hòa, địa chỉ thường trú: Số I đường L, phường I, quận T, thành phố Hồ Chí
Minh. (Vắng mặt).
Người đại diện ông T6 tham gia tố tụng tại Toà án là: Ông Đặng Công N tham
gia tố tụng theo Hợp đồng ủy quyền được T18 tại S- Úc chứng nhận ngày 29/3/2021.
(Ông N có mặt).
3.2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên bị đơn (
các em của bị đơn) gồm:
- Bà Đặng Thị Lệ H, sinh năm 1972. (Bà H có mặt).
- Bà Đặng Ngọc Thùy T7, sinh năm 1984. (Bà T7 có mặt).
- Bà Đặng Thanh Bảo T8, sinh năm 1990. (Bà T8 có mặt).
Cùng địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng.
- Đặng Ngọc Hoàng T9, sinh năm 1979; địa chỉ: Tổ C, phường T, quận T,
thành phố Đà Nẵng hoặc thôn T, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. Hiện đang bị
tạm giam tại Trại Tạm giam Công an thành phố Đ. (Bà T9 vắng mặt).
4. Người kháng cáo:
- Bị đơn: Bà Đặng Thị Vy B.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đặng Trương Thị T1
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm nội dung vụ án như sau:
* Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Đặng Công
T trình bày:
Cha mẹ ông Đặng Công T cụ ông Đặng T10, sinh năm 1934 (chết năm 2000)
và cụ bà Trương Thị N1, sinh năm 1934 (chết năm 2016) sinh được 09 người con
các ông (bà) Đặng Trương Thị T1, Đặng Công N, Đặng Công T, Đặng Thị T2, Đặng
Công T3, Đặng Thị Kim T4, Đặng Công T6, Đặng Công T5 Đặng Công T11,
sinh năm 1959 (chết năm 1969, không vợ con). Cha mcủa cụ T10 cụ Đặng
3
T12 chết năm 1948 cụ Phạm Thị L chết năm 1986, cha mẹ của cụ N1 cụ Trương
H1 chết năm 1954 cụ Thị L1 chết năm 2015 (đều chết trước cụ T10 và cụ N1).
Khi còn sống cụ T10 cụ N1 tạo lập được khối tài sản 1.141m
2
đất kê khai
theo Chỉ thị 299/TTg, thửa 139, tờ bản đồ số 01 nhà, tài sản trên đất tọa lạc tại
Thôn T, H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. Đăng khai lại theo Nghị định
64/CP thửa 302, tờ bản đồ số 7, diện tích 770m
2
. m 2000 cụ T10 chết, ông T
cụ N1 trực tiếp quản lý, sử dụng nhà, đất tài sản. Năm 2016, cụ N1 chết (cụ
T10, cụ N1 chết không để lại di chúc). Thửa đất cụ T10 và cN1 tứ cận như sau:
Đông giáp với nhà đất của ông Đặng Thanh V do con gái là bà Đặng Thị Vy
B hiện đang quản lý, sử dụng. Tây giáp đất của bà Võ Thị T13 (chết) nhà thờ T19
Nam giáp đường Q. Bắc giáp đường bê tông.
Quá trình quản lý, sử dụng đất, nhà Đặng Thị Vy B đã hành vi đỗ
tông làm nền lấn chiếm sang phần đất của cụ T10 cụ N1 khoảng 22,5m
2
(ngang
1,5m, dài 15m) xây dựng mái tôn lấn chiếm sang phần đất khoảng 12m
2
(ngang
3m, dài 4m); tổng diện tích đất B lấn chiếm và xây dựng khoảng 34,5m
2
. Ông T
đã nhiều lần đề nghị B tháo dỡ vật kiến trúc và hoàn trả lại diện tích đất lấn chiếm
nhưng B không thực hiện. Đồng thời, B các con của ông V gồm các bà:
Đặng Thị Vy B, Đặng Thị Lệ H, Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng Thanh Bảo T8, Đặng
Ngọc Hoàng T9 có hành vi cản trở quyền sử dụng toàn bộ thửa đất, tài sản trên đất
cho rằng toàn bộ diện tích đất, nhà của cụ T10 cụ N1 tạo lập, khai của
ông Đặng Thanh V. Do đó, ông T khởi kiện bà Đặng Thị Vy B, đề nghị Tòa án giải
quyết với các nội dung:
- Đề nghị Tòa án công nhận nhà, đất và tài sản trên đất tại tha 139, tờ bản đồ
số 01, diện tích 1.141m
2
(kê khai theo 299/TTg và khai 64/CP thửa 302, tờ bản
đồ số 7), tọa lạc thôn T, H, huyện H, thành phố Đà Nẵng di sản của cụ ông
Đặng T10 và cụ bà Trương Thị N1.
- Xác định hàng thừa kế thứ nhất của c T10 và cụ N1 gồm các ông (bà): Đặng
Công T, Đặng Trương Thị T1, Đặng Công N, Đặng Thị T2, Đặng Công T3, Đặng
Thị Kim T4, Đặng Công T6, Đặng Công T5. Anh, chị em trong gia đình thống nhất
tạm giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản trên đất cho ông Đặng Công
T trực tiếp quản lý, sử dụng.
- Buộc các đồng thừa kế của ông Đặng Thanh V gồm các Đặng Thị Vy B,
Đặng Thị Lệ H, Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng Thanh Bảo T8, Đặng Ngọc Hoàng T9
chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng, quyền shữu trả lại toàn bộ diện tích
đất lấn chiếm tại thửa số 139, tờ bản đồ số 01, diện tích 1.141m
2
(kê khai theo
299/TTg) tại thôn T, H, huyện H, thành phố Đà Nẵng cho các ông (bà): Đặng
Công T, Đặng Trương Thị T1, Đặng Công N, Đặng Thị T2, Đặng Công T3, Đặng
Thị Kim T4, Đặng Công T6, Đặng Công T5.
- Buộc các Đặng Thị Vy B tháo dỡ công trình xây dựng (nhà mái tôn,
nên bê tông) khoảng 34,5m
2
lấn chiếm trái phép tại thửa đất số 139, tờ bản đồ số 01
4
(kê khai theo 299/TTg khai 64/CP thửa 302, tờ bản đồ số 7) để trả lại mặt
bằng đất cho các ông (bà): Đặng Công T, Đặng Trương Thị T1, Đặng Công N, Đặng
Thị T2, Đặng Công T3, Đặng Thị Kim T4, Đặng Công T6, Đặng Công T5.
Sau khi có kết quả đo đạc bản đồ, sau khi thu thập được tài liệu chứng cứ, ông
Đặng Công T xin điều chỉnh một phần yêu cầu khởi kiện như sau:
- Ông T xin điều chỉnh một phần yêu cầu, đề nghị Tòa án căn cứ sơ đồ và hồ
pháp cụ T10 khai theo Nghị định 64/CP thửa 302, tờ bản đồ số 7, diện
tích 770m
2
làm căn cứ giải quyết vụ án, cụ thể:
+ Xin điều chỉnh một phần yêu cầu từ việc đề nghị Tòa án công nhận diện tích
đất 1.141m
2
khai theo Chỉ thị 299/TTg thửa 139, tờ bản đồ số 01 xuống chỉ còn
đề nghị a án công nhận diện tích 770m
2
đất đăng khai theo Nghị định 64/CP,
hồ sơ pháp lý là thửa 302, tờ bản đồ số 7 làm căn cứ giải quyết.
+ Xin điều chỉnh một phần yêu cầu đề nghị Tòa án buộc Đặng Thị Vy B
tháo dỡ công trình xây dựng (nhà mái tôn, bê tông làm nền) lấn chiếm khoảng
34,5m
2
tại thửa đất số 302, tờ bản đồ số 7 của cụ T10 cụ N1. Nay chỉ còn yêu cầu
bà B tháo dỡ công trình xây dựng 2,56m
2
(mái tôn, nền bê tông).
Các nội dung ông T đề nghị giải quyết tại phiên tòa cụ thể như sau:
- Đề nghị Tòa án công nhận nhà, đất và tài sản trên đất tại thửa số 302, tờ bản
đồ số 7, diện tích 770m
2
(công nhận theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp
cho hộ ông Đặng T10 tại đồ 64/CP năm 1996) tại thôn T, xã H, huyện H, thành
phố Đà Nẵng là của cụ ông Đặng T10 và cụ bà Trương Thị N1.
- Xác định hàng thừa kế của cụ T10 và cụ N1 gồm các ông (bà): Đặng Công
T, Đặng Trương Thị T1, Đặng Công N, Đặng Thị T2, Đặng Công T3, Đặng Thị Kim
T4, Đặng Công T6, Đặng Công T5. Công nhận nhà, quyền sử dụng 770m
2
đất và tài
sản trên đất tại thửa số 302, tờ bản đồ số 7 di sản của cụ ông Đặng T10 cụ bà
Trương Thị N1 để lại cho các ông (bà): Đặng Công T, Đặng Trương Thị T1, Đặng
Công N, Đặng Thị T2, Đặng Công T3, Đặng Thị Kim T4, Đặng Công T6, Đặng
Công T5.
- Giao nhà, đất tài sản trên đất tại thửa số 302, tờ bản đồ số 7, diện tích
770m
2
cho các ông (bà): Đặng Công T, Đặng Trương Thị T1, Đặng Công N, Đặng
Thị T2, Đặng Công T3, Đặng Thị Kim T4, Đặng Công T6, Đặng Công T5. Ghi nhận
việc các anh chị em trong gia đình thống nhất tạm giao quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nvà tài sản trên đất cho ông Đặng Công T trực tiếp quản lý, sử dụng. Đối với
phần nhà dưới đã xuống cấp nằm ngoài thửa đất 302, tờ bản đồ số 7, không yêu cầu
Tòa án giải quyết.
- Buộc các Đặng Thị Vy B, Đặng Thị Lệ H, Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng
Thanh Bảo T8, Đặng Ngọc Hoàng T9 chấm dứt hành vi cản trở và trả lại toàn bộ
diện diện tích đất lấn chiếm 770m
2
tại thửa số 302, tờ bản đồ số 7 tại thôn T,
H, huyện H, thành phố Đà Nẵng cho các ông (bà): Đặng Công T, Đặng Trương Thị
5
T1, Đặng Công N, Đặng Thị T2, Đặng Công T3, Đặng Thị Kim T4, Đặng Công T6,
Đặng Công T5.
- Buộc các Đặng Thị Vy B tháo dỡ công trình xây dựng (mái tôn, nền
tông) diện tích 2,56m
2
lấn chiếm tại thửa đất số 302, tờ bản đồ số 7 đtrả lại mặt
bằng đất cho c ông (bà): Đặng Công T, Đặng Trương Thị T1, Đặng Công N, Đặng
Thị T2, Đặng Công T3, Đặng Thị Kim T4, Đặng Công T6, Đặng Công T5.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn bà Đặng Thị Vy B, ông T cho rằng không
có căn cứ nên không chấp nhận.
Đối với kết quả đo đạc bản đồ, xem xét thẩm định tại chỗ và thẩm định giá tài
sản, ông T thống nhất, đề nghị căn cứ vào kết quả đó để giải quyết vụ án không
có ý kiến gì thêm.
Về án phí, về chi pxem xét thẩm định tại chỗ, thẩm định giá tài sản đo
đạc bản đồ, ông T đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Bị đơn bà Đặng Thị Vy B trình bày như sau:
Ông nội cụ Đặng N2 (liệt sỹ) để lại cho cha ông Đặng Thanh V
(chết năm 2011) diện tích đất hơn 2.000m
2
tại thôn T, xã H, huyện H, thành phố Đà
Nẵng. Từ những năm 1975, gia đình bà gồm: Cha ông Đặng Thanh V (sinh năm
1944, chết năm 2011), mẹ là bà Thị H2 (sinh năm 1949, chết năm 2005) các
con của ông V, bà H2 là các ông (bà): Đặng Thị Vy B, Đặng Công P (chết năm 1987,
không vợ con), Đặng Công Anh T14 (chết năm 1987, không vợ con), Đặng Thị Lệ
H, Đặng Ngọc Hoàng T9, Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng Thanh Bảo T8 tiếp tục khai
hoang, sinh sống, sử dụng, quản lý mảnh vườn này.
Trước năm 2002, mặt trước nhà (phía nam) là đường Quốc lộ 14B cũ và cánh
đồng ruộng lúa, phía đông giáp nhà Đặng Thị T15, phía tây giáp nhà Thị
T13, phía bắc là vườn chuối, bờ tre ruộng lúa. m 1994, cha bà khai diện tích
sử dụng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 209998 ngày
23/9/1995 ngày 08/4/1996 được quan thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở số 06H/QSHN. Như vậy, cha bà là ông Đặng Thanh V đã quản
lý, sử dụng mảnh đất tại thôn T, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng từ những năm
1975 đến nay. Bà B không biết vì lý do gì mà cụ Đặng T10 đi kê khai mảnh đất cha
bà quản lý, sử dụng. Sau khi kê khai thì cụ Đặng Thân B1 đi không sinh sống ở đây,
còn ông Đặng Công T Trương Thị N1 hoàn toàn không sinh sống trên thửa đất
này. Năm 2009, cha bà B có làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
và được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày
07/8/2009. Gia đình bà B vẫn tiếp tục sinh sống, quản lý, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
thuế theo quy định của nhà nước đối với thửa đất.
Đến năm 2010, ông V đã làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất cho các con của ông gồm 05 người là các bà: Đặng Thị Vy B, Đặng
Thị Lệ H, Đặng Ngọc Hoàng T9, Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng Thanh Bảo T8.
6
Năm 2010, UBND H giấy mời ông V tham dự buổi họp công bố quy
hoạch tuyến Quốc lộ A (cũ) đoạn Nba đường ĐT 604 đến chợ T20 và gia đình
được nhận số tiền đền giải tỏa để làm hành lang vỉa với số tiền 20.000.000đ
(hai mươi triệu đồng).
Năm 2011 ông V chết, chị em B vẫn tiếp tục sử dụng mảnh vườn do ông
V để lại không xảy ra tranh chấp với bất kỳ nhân hay hộ gia đình nào xung
quanh. Do đó, bà B không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đặng
Công T.
Trong quá trình tố tụng, B có đơn yêu cầu phản tố với các nội dung sau:
- Yêu cầu Tòa án công nhận nhà, đất và tài sản trên đất tại thửa đất số 139, tờ
bản đồ số 01, diện tích 1.141m
2
; tọa lạc tại thôn T, H, huyện H, thành phố Đà
Nẵng đất của ông Đặng Thanh V, bà Thị H2 và đề nghị công nhận đó di sản thừa
kế của ông Đặng Thanh V và bà Lê Thị H2.
- Xác định hàng thừa kế thứ nhất của ông V bà H2 gồm các bà: Đặng Thị Vy
B, Đặng Thị Lệ H, Đặng Ngọc Hoàng T9, Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng Thanh Bảo
T8. Đề nghị công nhận nhà, tài sản trên đất (bao gồm nhà trệt và toàn bộ khuôn viên
đất còn lại trong bờ rào ranh giới kể cả ngôi nhà thờ, giếng) 1.141m
2
đất cho hàng
thừa kế thứ nhất ca ông V, H2 bao gồm các bà: Đặng Thị Vy B, Đặng Thị Lệ H,
Đặng Ngọc Hoàng T9, Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng Thanh Bảo T8.
- Yêu cầu Tòa án công nhận công trình trên đất B đã xây dựng khoảng
22,5m
2
(chiều ngang 1.5m, chiều dài 15m) phần xây dựng mái tôn, nền bê tông
khoảng 12m
2
(chiều ngang 3m, chiều dài 4m), tổng diện tích là 34,5m
2
là của bà B.
Sau khi có kết quả đo đạc bản đồ và thu thập được tài liệu chứng cứ, bà Đặng
Thị Vy B xin điều chỉnh lại một phần yêu cầu khởi kiện phản tố từ diện tích đất
1.141m
2
xuống còn 770m
2
(rút phần đất đã cấp cho bà Võ Thị T13) theo đó B chỉ
còn yêu cầu khởi kiện như sau:
Yêu cầu Tòa án công nhận 770m
2
đất, nhà tài sản trên đất tại thửa đất số
139, tờ bản đồ số 01, diện tích 770m
2
; tọa lạc tại thôn T, H, thành phố Đà Nẵng
là của ông Đặng Thanh V và bà Lê Thị H2 chết để lại (bao gồm nhà trệt và toàn b
khuôn viên đất còn lại trong bờ rào ranh giới kể cả ngôi nhà thờ, giếng nước). Xác
định hàng thừa kế thứ nhất của ông V bà H2 gồm các bà: Đặng Thị Vy B, Đặng Th
Lệ H, Đặng Ngọc Hoàng T9, Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng Thanh Bảo T8. Đề nghị
công nhận 770m
2
đất, nhà tài sản trên đất tại thửa 139, tờ bản đsố 01 khai
Chỉ thị 299/TTg (cấp đổi lại theo Nghị định 64/CP thửa 1208, tờ bản đồ số 7, diện
tích770m
2
) cho hàng thừa kế thứ nhất của ông V, bà H2 bao gồm: Đặng Thị Vy B,
Đặng Thị Lệ H, Đặng Ngọc Hoàng T9, Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng Thanh Bảo T8.
Đối với kết quả đo đạc bản đồ, xem xét thẩm định tại chỗ và thẩm định giá tài
sản, bà B thống nhất, đề nghị căn cứ vào kết quả đó để giải quyết vụ án và không
ý kiến gì thêm.
7
Về án phí, chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, thẩm định giá tài sản và đo đạc
bản đồ, bà B đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
- Đặng Trương Thị T1 trình bày: Bà không đồng ý với yêu cầu phản tố của
bị đơn Đặng Thị Vy B; việc ông T điều chỉnh xuống còn 770m
2
diện tích đề
nghị giải quyết theo sơ đồ cấp cho thửa 302, tbản đồ số 7 bà đồng ý, nhưng vẫn đề
nghị giải quyết luôn phần ông T đã khởi kiện đề nghị công nhận diện tích đất
1.141m
2
theo kê khai 299/TTg, thửa 139, tờ bản đồ số 01; đề nghị các bà Đặng Thị
Vy B, Đặng Thị Lệ H, Đặng Ngọc Hoàng T9, Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng Thanh
Bảo T8 bồi thường do hành vi cản trở, chiếm giữ nhà trái phép của gia đình bà; mời
UBND xã H, UBND huyện H tham gia tố tụng để làm rõ tại sao lại cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho cha không ghi ngày tháng năm, kể cả giấy chứng
nhận quyền sdụng đất cấp cho em trai ông Đặng Công N cũng không ghi
ngày tháng năm; Đề nghị Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho
hộ ông Đặng Thanh V (Đặng Công M) Thị T13 do cấp nhầm lên đất
cha cụ T10 đã kê khai theo Chỉ thị 299/TTg. T1 thống nhất hàng thừa kế
của cụ T10, cụ N1 như ông T trình bày. Bà T1 đề nghị, sau khi công nhận nhà, đt
tài sản trên đất là di sản thừa kế của cụ T10, cụ N1 thì đề nghị Tòa án tạm giao cho
ông T thực tiếp quản lý, sử dụng nhưng diện tích đất đề nghị phải 1.141m
2
theo
kê khai 299/TTg, thửa 139, tờ bản đồ số 01.
Không đồng ý với kết quả định giá đề nghị Hội đồng xét xử định giá lại.
Đối với đo đạc bản đồ, xem xét thẩm định tại chỗ bà không có ý kiến gì.
- Ông Đặng Công N, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bà Đặng
Thị T2, ông Đặng Công T3, Đặng Thị Kim T4, ông Đặng Công T5, ông Đặng
Công T6 trình bày: Thống nhất với phần trình bày và yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn ông Đặng Công T.
- Các Đặng Thị Lệ H, Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng Thanh Bảo T8 cùng
thống nhất trình bày: Các thống nhất với phần trình bày và yêu cầu phản tố của
bị đơn bà Đặng Thị Vy B. Không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Đặng Ngọc Hoàng T9 vắng mặt tại phiên tòa nên không có ý kiến, nhưng
quá trình giải quyết vụ ý kiến thống nhất với phần trình bày yêu cầu phản tố
của bị đơn bà Đặng Thị Vy B. Không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Theo kết quả đo đạc của của Trung tâm kthuật tài nuyên môi trường thành
phố Đ, diện tích đất thực tế các bên chỉ dẫn 1.199,5m
2
. Tuy nhiên, sau khi đối
chiếu với hồ pháp cấp cho thửa 302, tờ bản đồ số 7 thì các đương sự đề nghị
căn cứ đồ pháp cấp cho thửa 302, tờ bản đồ số 7 với diện tích 770m
2
để giải
quyết.
Với nội dung trên, Bản án thẩm số 40/2023/DS-ST ngày 31/7/2023 của
Toà án nhân dân huyện Hoà Vang đã tuyên xử:
8
Căn cứ: Điều 166, khoản 1 Điều 167, Điều 168, 203 của Luật Đất đai năm
2013; Điều 164, 166, 169, khoản 5 Điều 221, các điều 234, 609, 613, 616, 617, 618,
649, 650, 651 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 147, khoản 2 Điều 227, các điều
271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đăng Công T16 về việc “Tranh chấp
quyền sử dụng đất, công nhận di sản thừa kế” đối với bà Đặng Thị Vy B.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bđơn Đặng Thị Vy B đối với
“Tranh chấp quyền sử dụng đất, công nhận di sản thừa kế”.
Xử:
1. Công nhận quyền sử dụng diện tích 770m
2
đất, tại thửa số 302, tờ bản đồ số
7; tại thôn T, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng của c ông Đặng T10 (chết năm
2000) và cụ bà Trương Thị N1 (chết năm 2016).
2. Công nhận quyền sở hữu tài sản, sử dụng nhà (có kết cấu: ờng xây gạch,
hệ thống điện nổi, cửa đi chính bằng gỗ lồng nh) tài sản trên đất (trong đó
giếng nước, tường rào, cổng ngõ) trên thửa số 302, tờ bản đồ số 7; tại thôn T, xã H,
huyện H, thành phố Đà Nẵng của cụ ông Đặng T10 (chết năm 2000) và cụ
Trương Thị N1 (chết năm 2016). Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ T10 và cụ
N1 bao gồm các ông (bà): Đặng Công T, Đặng Trương Thị T1, Đặng Công N, Đặng
Thị T2, Đặng Công T3, Đặng Thị Kim T4, Đặng Công T6, Đặng Công T5.
3. Công nhận nhà, đất tài sản trên đất tại thửa số 302, tờ bản đồ số 7, diện
tích 770m
2
; tại thôn T, H, huyện H, thành phố Đà Nẵng cho các ông (bà): Đặng
Công T, Đặng Trương Thị T1, Đặng Công N, Đặng Thị T2, Đặng Công T3, Đặng
Thị Kim T4, Đặng Công T6, Đặng Công T5.
4. Giao nhà, đất tài sản trên đất tại thửa s302, tbản đồ số 7, diện tích
770m
2
cho các ông (bà): Đặng Công T, Đặng Trương Thị T1, Đặng Công N, Đặng
Thị T2, Đặng Công T3, Đặng Thị Kim T4, Đặng Công T6, Đặng Công T5 quản lý,
sử dụng. Ghi nhận sự tự nguyên của các ông (bà) Đặng Công T, Đặng Trương Thị
T1, Đặng Công N, Đặng Thị T2, Đặng Công T3, Đặng Thị Kim T4, Đặng Công T6,
Đặng Công T5 về việc tạm giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản trên
đất cho ông Đặng Công T trực tiếp quản lý, sử dụng.
5. Buộc các Đặng Thị Vy B, Đặng Thị Lệ H, Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng
Thanh Bảo T8, Đặng Ngọc Hoàng T9 chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu tài sản và trả lại toàn bộ diện diện tích đất lấn chiếm 770m
2
tại thừa số
302, tờ bản đồ số 7; tại thôn T, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng cho các ông (bà):
Đặng ng T, Đặng Trương Thị T1, Đặng Công N, Đặng Thị T2, Đặng Công T3,
Đặng Thị Kim T4, Đặng Công T6, Đặng Công T5, đất có tứ cận như sau:
9
Đông giáp thửa đất 1208 hiện Đặng Thị Vi B2 đang sử dụng, các cạnh
dài 14,63m, 4,72m, 19,12m, 3,36m và 29,07m.
Tây giáp thửa đất 301 của Thị T13, các cạnh dài 18,79m, 3,64m,
3,59m, 15,27m, 4,97m, 25,93m.
Nam giáp thửa đường nhựa Quảng Xương dài 12,76m.
Bắc giáp đường tông, dài 12,22m.
6. Buộc bà Đặng Thị Vy B tháo dcông trình đã xây dựng với diện tích 2,56m
2
(mái tôn, nền tông) lấn chiếm tại thửa đất số 302, tờ bản đồ số 7 để trả lại mặt
bằng đất cho các ông (bà): Đặng Công T, Đặng Trương Thị T1, Đặng Công N, Đặng
Thị T2, Đặng Công T3, Đặng Thị Kim T4, Đặng Công T6, Đặng Công T5, tứ cận
như sau: Đông giáp nhà B, dài 1,58m; Tây giáp đất cụ T10 và cụ N1 dài 1,88m;
Nam giáp đất cụ T10 và cụ N1 dài 1,47m; Bắc giáp thửa đất 1208 hiện bà Đặng Thị
Vy B đang sử dụng dài 1,87m. Ông T không phải thối trả giá trị xây dựng cho B.
(Có sơ đồ đất và tài sản trên đất kèm theo Bản án).
Khi bản án hiệu lực pháp luật, các đương sự được giao quyền quản lý, sử
dụng đất tài sản trên đất theo quyết định của bản án, quyền đến quan
thẩm quyền để đăng ký, cập nhật hoặc làm các thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật.
7. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Miễn tiền án phí (án phí thua kiện và án phí phản tố) cho bà Đặng Thị Vy B.
- Ông Đặng Công T phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí công
nhận di sản thừa kế, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông T đã nộp
1.000.000 đồng tại biên lai thu số 0008018 ngày 08/12/2020 của Chi Cục thi hành
án dân sự huyện Hòa Vang.
Hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn ông Đặng Công T 7000.000đ
(bảy trăm ngàn đồng) đã nộp tại biên lai thu số 0008018 21.000.000đ (hai mốt
triệu đồng) đã nộp tại biên lai thu số 0008017 cùng ngày 08/12/2020 tại Chi Cc thi
hành án dân sự huyện Hòa Vang.
8. Chi phí tố tụng:
- Về chi phí thẩm định giá tài sản: 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) Đặng
Thị Vy B phải chịu, hiện đã nộp và chi xong nên không xem xét.
- Về chi phí trưng cầu đo đạc bản đồ: 12.086.000đ (mười hai triệu không trăm
tám sáu đồng), buộc bà Đặng Thị Vy B phải trả lại cho ông Đăng Công T16.
- Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: 2.000.000đ (hai triệu đồng), buộc
Đặng Thị Vy B phải trả lại cho ông Đăng Công T16.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử thẩm, bị đơn bà Đặng Thị Vy B người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan là bà Đặng Trương Thị T1 kháng cáo cụ thể như sau:
10
- Bị đơn bà Đặng Thị Vy B kháng cáo toàn bộ Bản án thẩm đề nghị cấp phúc
thẩm công nhận di sản thừa kế của ông Đặng Thanh V và bà Lê Thị H2 là quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền trên đất tại thửa số 139, tờ bản đồ s01 diện tích 770m
2
tại thôn T, H, thành phố Đà Nẵng (bao gồm nhà trệt toàn bộ khuôn viên đất
còn lại trong bờ rào ranh giới kể cả ngôi nhà thờ) cho các đồng thừa kế thứ nhất của
ông V, H2 bao gồm: Đặng Thị Vy B, Đặng Thị Lệ H, Đặng Ngọc Hoàng T9,
Đặng Ngọc Thùy T7, Đặng Thanh Bảo T8.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Trương Thị T1 kháng
cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm vì cho rằng cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng và nội
dung phán quyết xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của nên đề nghị cấp
phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.
Tại phiên toà phúc thẩm, các bên đương sự vẫn giữ nguyên nội dung kháng
cáo, không ai cung cấp tài liệu chứng cứ gì thêm và các bên không thoả thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ án.
Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà phúc thẩm như sau:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư
phiên tòa của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án giai
đoạn phúc thẩm là đảm bảo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử, căn sứ khoản 3
Điều 308, Điều 310 của Bộ luật tố tụng dân sự huỷ toàn bộ Bản án dân sự thẩm
số: 48/2023/DS-ST ngày 24/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang và giao
hồ sơ cho Toà án nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi xét xử thẩm, bị đơn bà Đặng Thị Vy B
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Trương Thị T1 kháng cáo trong
thời hạn luật định và đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên được xem xét theo trình
tự phúc thẩm được quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung giải quyết vụ án: Xét kháng cáo của bị đơn người quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan thì thấy:
[2.1] Theo đăng ký khai 299/TTg thì thửa đất số 139, tờ bản đồ số 01, tại
thôn T, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng có diện tích tổng cộng 4.920m
2
gồm 05
hộ kê khai chung là: Bà Võ Thị T13, ông Đặng T10, bà Lê Thị H2, bà Tán Thị T17
ông Đặng Thoàn . Trong đó, 02 (hai) diện tích đất bằng nhau 1.141m
2
của
hai người kê khai là: Ông Đặng T10 và bà Lê Thị H2 (vợ ông Đặng Thanh V).
[2.2] Tuy nhiên, qua khai 64/CP thì thửa đất của ông Đặng T10 là thửa 302
tờ số 7 diện tích 770m
2
. Thửa của ông Đặng Thanh V là thửa 1208 diện tích 770m
2
,
11
cả hai thửa đất đều đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, nhưng Giấy
chứng nhận của ông Đặng T10 bị thu hồi và huỷ bỏ theo Quyết định số 55/QĐ-UB
ngày 18/01/1999 của UBND huyện H do mở rộng Quốc lộ A hiện chưa được cấp
lại. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các bên không thể hiện hình thể thửa
đất nên sau khi sao lục các tài liệu quản đất đai của địa phương tại Chi nhánh Văn
phòng Đ tại huyện H so sánh với thực tế quản của các chủ sử dụng đất thấy
biến động lớn về hình thể thửa đất.
[2.3] Toà án cấp thẩm đã căn cứ vào đồ khai theo Nghị định 64/CP
để xác định tứ cận thửa đất 302 tờ bản đồ số 7 của cụ Đặng T10 như sau: Đông giáp
thửa đất 1208 diện tích 777m
2
của ông Đặng Thanh V hiện Đặng Thị Vy B
đang sử dụng, có các cạnh dài 14,63m, 4,72m, 19,12m, 3,36m và 29,07m; Tây giáp
thửa đất 301 của Thị T13, các cạnh dài 18,79m, 3,64m, 3,59m, 15,27m,
4,97m, 25,93m; Nam giáp đường nhựa Quảng Xương dài 12,76m; Bắc giáp đường
bê tông, dài 12,22m.
[2.4] Tuy nhiên, qua xem xét, thẩm định tại chỗ thể hiện thửa đất 302 của ông
Đặng T10 thửa đất 1208 hiện Đặng Thị Vy B đang quản sử dụng liền kề
nhau và không có tường rào để phân định ranh giới, hiện trạng sử dụng đất đã có sự
thay đổi lớn so với sơ đồ kê khai theo Nghị định 64/CP mà bản án sơ thẩm sử dụng
để làm căn cứ giải quyết vụ án.
[2.5] Tòa án cấp phúc thẩm đã tiến hành xác minh thu thập tài liệu chứng cứ.
Theo Văn bản số 3964/CNHV-ĐKCGCN ngày 20/9/2024 của Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai tại huyện H hồ sơ kèm theo thể hiện: Bản đồ địa chính xã H (đo
đạc dự án tổng thể thửa đất 370, 412 tờ số 32) bản đồ 64/CP (thửa đất số 302,
1208 tờ bản đồ số 7) thì thông tin về số thửa đất, số tờ bản đồ, diện tích thửa đất có
sự thay đổi.
Thửa đất 302 của ông Đặng T10 theo bản đồ 64/CP đối chiếu với bản đồ địa
chính đo đạc dự án tổng thể thì có phần ranh giới thuộc thửa số 370, 412 tờ bản đồ
số 32.
Thửa đất 1208 của ông Đặng Thanh V theo bản đồ 64/CP đối chiếu bản đồ
địa chính đo đạc tổng thể thì có phần ranh giới thuộc thửa đất số 370, 374 và 412 tờ
bản đồ số 32.
[2.6] Qua lồng ghép, phát họa các thửa 302 và 1280 theo sơ đồ 64/CP với các
thửa 370, 412 theo bản đồ đo đạc dự án tổng thể thì hiện trạng sử dụng đất thực tế
của các thửa sự chồng khớp lên nhau. Như vậy, giữa hiện trạng thực tế sử dụng
đất và sơ đồ kê khai các thửa đất theo Nghị định 64/CP mà cấp sơ thẩm sử dụng để
giải quyết vụ án sự chồng lấn, cấp sơ thẩm chưa làm rõ. Do đó cần phải xác minh
thu thập chứng cứ giải quyết mâu thuẫn này đo đạc theo hiện trạng thực tế sử
dụng đất để làm cơ sở giải quyết vụ án.
[2.7] Xét thấy, cấp thẩm chưa thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ tại phiên
toà phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
12
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Do đó, căn cứ khoản 3 Điều 308 và khoản 1
Điều 310 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét thấy cần huỷ Bản án thẩm chuyển
hồ cho Toà án nhân dân huyện Hoà Vang giải quyết lại vụ án theo thủ tục
thẩm.
[3] Do huỷ Bản án thẩm để giải quyết lại nên Hội đồng xét xử phúc thẩm
không xem xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
[4] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ khoản 3 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng Dân
sự, đương sự kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.
[5] Nhận thấy, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Đà Nẵng tham gia phiên toà phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên
chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng:
- Khoản 3 Điều 308 và khoản 1 Điều 310 của Bộ luật T tụng Dân sự.
- Khoản 3 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Tuyên xử:
1. Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số: 48/2023/DS-ST ngày 24/8/2023 của Tòa án nhân
dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng chuyển hồ sơ cho Toà án nhân dân
huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Về án phí phúc thẩm:
- Hoàn trả lại cho Đặng Thị Vy B số tiền án phí phúc thẩm đã nộp
300.000đ theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0000491 ngày 27/9/2023
của Chi cục thi hành án huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng.
- Hoàn trả cho Đặng Trương Thị T1 số tiền án phí phúc thẩm đã nộp
300.000đ theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ pToà án số 0000488 ngày 21/9/2023
của Chi cục thi hành án huyện Hoà Vang thành phố Đà Nẵng.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND TP Đà Nẵng;
- TAND huyện Hoà Vang;
- Chi cục THADS huyện Hoà Vang;
- Lưu hồ sơ, VP.
Nguyễn Hữu Thị Hảo Hảo
13
Tải về
Bản án số 185/2024/DS-PT Bản án số 185/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 185/2024/DS-PT Bản án số 185/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất