Bản án số 178/2025/DS-PT ngày 12/05/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 178/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 178/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 178/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 178/2025/DS-PT ngày 12/05/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Nai |
Số hiệu: | 178/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phạm Nguyễn T. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 50/2024/DS-ST ngày 05/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 178/2025/DS-PT
Ngày: 12/5/2025
“Tranh chấp thay đổi mức bồi
thường thiệt hại ngoài hợp
đồng”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Mỹ Hạnh
Các Thẩm phán: Bà Bùi Lan Hương
Bà Thái Thị Thanh Bình.
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Huy Hoàng - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Ông Nguyễn Đình Thắng
– Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 5 năm 2025, tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 65/2025/TLPT-DS ngày 17 tháng 02 năm
2025 về “Tranh chấp thay đổi mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 50/2024/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 108/2025/QĐ-PT ngày
26/3/2025; Quyết định hoãn phiên toà số 318/2025/QĐ-PT ngày 22/4/2025, giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phạm Nguyễn T, sinh năm 1966
Địa chỉ: Ấp H, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1983
Đị chỉ: Ấp H, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Phạm Nguyễn T.
(Ông T, ông H có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai, trong quá trình giải
quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Phạm Nguyễn T trình bày:
Ông là chồng và là người đại diện theo pháp luật của bà Trần Thị O, sinh năm
1970, địa chỉ: ấp H, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai. Vào khoảng 09 giờ 20 phút, ngày
27/8/2017, tại ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai, ông Nguyễn Văn H điều khiển
xe ô tô tải vượt trái xe mô tô do bà Trần Thị O điều khiển đi cùng chiều gây va chạm
làm bà Trần Thị O té ngã xuống đường. Bà O bị thương nặng tỷ lệ tổn thương cơ thể
do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 76%.
Sau tai nạn, bà Trần Thị O có biểu hiện trí nhớ giảm sút, thường hay đau đầu,
nhận thức kém, không làm chủ được hành vi. Tại Quyết định số 03/2018/QĐDS-ST
ngày 18/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc đã tuyên bố bà Trần Thị O
mất năng lực hành vi dân sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2018/HS-ST ngày 26/9/2018 của Tòa án
nhân dân huyện Xuân Lộc đã tuyên bố ông Nguyễn Văn H phạm tội “Vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” và xử phạt ông Nguyễn Văn
H: 08 (tám) tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Buộc ông Nguyễn Văn H phải tiếp tục
bồi thường cho bà Trần Thị O số tiền 196.300.000 đồng; buộc ông Nguyễn Văn H
bồi thường chi phí chăm sóc về sau cho bà Trần Thị O là 2.000.000 đồng/tháng cho
đến khi bà O có có khả năng lao động. Khi xét thấy mức bồi thường chi phí chăm
sóc bà Trần Thị O không còn phù hợp thì các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay
đổi mức bồi thường. Ông H kháng cáo về phần hình phạt, các quyết định khác của
Bản án số 108/2018/HS-ST ngày 26/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc
có hiệu lực để thi hành.
Từ khi bà O bị tai nạn, chi phí chăm sóc, điều trị cho bà O rất tốn kém, kinh tế
gia đình khó khăn, nhưng ông H không thực hiện nghĩa vụ bồi thường chi phí chăm
sóc hàng tháng cho bà O. Từ năm 2018 đến nay, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều
thay đổi, vật giá leo thang, dẫn đến chi phí chăm sóc bà O cũng tăng lên, nên mức
bồi thường chăm sóc hàng tháng 2.000.000 đồng không còn phù hợp. Đến thời điểm
hiện nay, bà O vẫn bị mất năng lực hành vi dân sự, đi lại khó khăn, không lao động
được, không còn tỉnh táo. Tổng chi phí chăm sóc bà O mỗi tháng là: 13.560.000
đồng, gồm các khoản như sau: Tiền ăn sáng: 1.050.000 đồng; tiền ăn hai bữa chính:
1.200.000 đồng; tiền ăn bữa lỡ: 300.000 đồng; tiền sữa: 510.000 đồng; tiền thuốc,
thực phẩm chức năng: 900.000 đồng; chi phí khám bệnh, tiền xe, tái khám: 3.000.000
đồng; tiền công lao động của người chăm sóc người bệnh: 6.600.000 đồng (ông làm

nghề thợ hồ, từ khi vợ bị tai nạn ông chỉ ở nhà chăm sóc vợ và làm việc nhà, không
đi làm được).
Do đó, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án thay đổi mức bồi thường chi phí chăm sóc
cho bà Trần Thị O từ 2.000.000 đồng/tháng lên 5.000.000 đồng/tháng.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:
Năm 2017, ông có điều khiển ô tô tải gây tai nạn cho bà Trần Thị O gây thương
tích tại thời điểm giám định là 76%. Ông đã bị Tòa án xét xử về tội “Vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ” và bị buộc bồi thường chi phí chăm sóc về
sau cho bà Trần Thị O là 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi bà O có khả năng lao
động. Từ khi bản án của Tòa án có hiệu lực, ông đã thực hiện việc bồi thường chi
phí 2.000.000 đồng/tháng cho bà O đều tới khi dịch Covid bùng phát, thực hiện giãn
cách xã hội nên ông tạm chưa thực hiện việc bồi thường chi phí nêu trên cho bà O.
Nay ông Phạm Nguyễn T khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông có nghĩa vụ bồi thường
chi phí chăm sóc về sau cho bà O là 5.000.000 đồng/tháng thì ông không đồng ý vì:
Thứ nhất, hiện nay bà O đã khỏe, không còn mất năng lực hành vi dân sự như
trước đây nữa. Theo ông được biết, bà O hiện đã có thể chạy xe máy, bà thường chạy
xe ra ngoài mua đồ ăn, có thể đi lại bình thường.
Thứ hai, hiện thu nhập hàng tháng của ông không ổn định, ông làm lái xe tải
thuê lương trả theo ngày, ngày nào làm thì có lương, ngày nào không làm thì không
có, lương ngày là 300.000 đồng, mỗi tháng làm khoảng từ 15 đến 25 ngày. Trung
bình mỗi tháng thu nhập của ông khoảng 7.000.000 đồng. Ngoài ra, ông ở nhà phụ
gia đình làm rẫy, chăn nuôi bò, dê, thu nhập không đáng kể. Vợ ông đi làm thuê thu
nhập không ổn định. Ông còn phải lo cho hai con ăn học, vợ con ông thường xuyên
ốm đau phải đi viện. Hiện kinh tế gia đình chỉ đủ chi phí sinh hoạt hàng ngày.
Với tình hình hiện nay, ông không thể bồi thường chi phí chăm sóc về sau cho
bà O là 5.000.000 đồng/tháng được, ông yêu cầu Toà án giữ nguyên mức bồi thường
chi phí 2.000.000 đồng/tháng cho bà O.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 50/2024/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai quyết định:
Căn cứ Khoản 6 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1, khoản 2 và khoản 4 Điều
91; khoản 3 Điều 144; Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015; Điều Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 590 của Bộ luật
Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Phạm Nguyễn T về việc “Tranh chấp về yêu cầu thay đổi mức bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng” cho bà Trần Thị O đối với bị đơn ông Nguyễn Văn H.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 16/9/2024, ông Phạm Nguyễn T có đơn kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ
thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc
thẩm của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham
gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương
sự tham gia phiên tòa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định
của pháp luật.
- Về nội dung kháng cáo: Căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có
nghĩa vụ cấp dưỡng nhận thấy hiện nay ông H là lao động chính trong gia đình, có
02 người con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2015, các con của ông H hiện đang
đi học, sống phụ thuộc vào cha mẹ. Vợ ông H không có nghề nghiệp ổn định chủ
yếu ở nhà đưa đón con đi học, lo cơm nước, thỉnh thoảng vào thời gian các con được
nghỉ học chị có đi làm thuê, công lao động chỉ có 200.000đồng/ngày; kinh tế gia
đình phụ thuộc vào tiền đi làm thuê của ông H, mà mức thu nhập hiện tại theo ông
H chỉ khoảng 7.000.000đồng/tháng, còn tại Biên bản xác minh ngày 04/7/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, thì trung bình một ngày công lao động tại ấp H
xã X, huyện X là khoảng 300.000đồng/ngày, còn đối với ông H làm nghề lái xe thuê
cho người khác, không làm thuê cố định cho ai, nghề nghiệp thu nhập bấp bênh, ai
thuê chở hàng thì mới có việc làm mới có thu nhập. Như vậy, ngoài tiền bồi thường
chi phí chăm sóc về sau cho bà O là 2.000.000 đồng/tháng, ông H còn phải bảo đảm
tái tạo sức lao động, mà mức yêu cầu của ông T là 5.000.000đồng/tháng là quá cao
so với thu nhập của ông H. Việc nguyên đơn ông T trình bày do chi phí chăm sóc bà
O hàng tháng là 13.650.000đồng, tuy nhiên đây chỉ là lời trình bày của ông T, còn
ông T không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh cho yêu cầu của
mình, do vậy không có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T về việc thay
đổi mức bồi thường chi phí chăm sóc về sau cho bà O từ 2.000.000 đồng/tháng lên
5.000.000 đồng/tháng.

Từ những phân tích nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng
cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Phạm T1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số:
50/2024/DS-ST ngày 05/9/2024 của TAND huyện Xuân Lộc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét
tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Phạm Nguyễn T làm trong hạn
luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Cấp sơ thẩm đã xác định đúng và đầy đủ tư cách tố tụng của những người tham
gia tố tụng.
[2] Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết vụ án đã được Tòa án nhân
dân huyện Xuân Lộc xác định đúng và đầy đủ.
[3] Về nội dung vụ án, yêu cầu kháng cáo nguyên đơn:
Tại Quyết định số 03/2018/QĐDS-ST ngày 18/7/2018 của Tòa án nhân dân
huyện Xuân Lộc đã tuyên bố bà Trần Thị O mất năng lực hành vi dân sự. Do đó,
người đại diện hợp pháp của bà O có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi mức bồi
thường chi phí chăm sóc đối với bà O. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2018/HS-
ST ngày 26/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc đã tuyên xử “Buộc anh
Nguyễn Văn H bồi thường chi phí chăm sóc về sau cho bà Trần Thị O là 2.000.000
đồng/tháng cho đến khi bà O có khả năng lao động. Khi xét thấy mức bồi thường
chi phí chăm sóc bà Trần Thị O không còn phù hợp thì các bên có quyền làm đơn
yêu cầu thay đổi mức bồi thường”.
Ông Phạm Nguyễn T là đại diện hợp pháp của bà Trần Thị O cho rằng từ năm
2018 đến nay, tình hình kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, vật giá leo thang, dẫn đến
chi phí chăm sóc bà O cũng tăng lên, nên mức bồi thường chăm sóc hàng tháng
2.000.000 đồng/tháng không còn phù hợp. Hiện nay, tổng chi phí chăm sóc bà O mỗi
tháng là: 13.560.000 đồng. Do đó, ông T yêu cầu Tòa án thay đổi mức bồi thường
chi phí chăm sóc bà O từ 2.000.000 đồng/tháng lên 5.000.000 đồng/tháng nhưng ông
T không cung cấp được đầy đủ các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
mình.
Bà O là người mất năng lực hành vi dân sự, ngoài số tiền ông H bồi thường cho
bà O mỗi tháng 2.000.000 đồng, bà O còn đang được hưởng trợ cấp xã hội hàng
tháng theo diện đối tượng trợ cấp là người khuyết tật với số tiền là 600.000
đồng/tháng.
Ông Nguyễn Văn H là lao động chính trong gia đình, có 02 con còn nhỏ, con
lớn sinh năm 2009 và nhỏ sinh năm 2015, các con ông H hiện đang đi học, sống phụ

thuộc vào cha mẹ; thu nhập hàng tháng của ông không ổn định, khoảng 7.000.000
đồng/tháng, còn vợ ông đi làm thuê mỗi ngày công được 200.000 đồng nhưng không
ổn định. Hiện kinh tế gia đình chỉ đủ chi phí sinh hoạt hành ngày. Ngoài khoản tiền
bồi thường cho bà O là 2.000.000 đồng/tháng, ông H còn phải đảm bảo cuộc sống
cho gia đình. Do đó, mức yêu cầu của ông T bồi thường cho bà O mỗi tháng
5.000.000 đồng là không phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của ông H.
Từ những phân tích trên, cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là có căn cứ. Do đó, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là không có cơ
sở chấp nhận.
[4] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp
nhận định của Hội đồng xét xử nên được ghi nhận.
[5] Về án phí phúc thẩm: Ông T thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy
định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phạm Nguyễn T.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 50/2024/DS-ST ngày 05/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
- Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 590 của Bộ luật Dân sự năm
2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ
phí Tòa án.
Tuyên xử
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm
Nguyễn T về việc “Tranh chấp về yêu cầu thay đổi mức bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng” cho bà Trần Thị O đối với bị đơn anh Nguyễn Văn H.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm và dân sự phúc thẩm:
Ông T thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại điểm d khoản 1
Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí lệ phí Tòa án.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nơi nhận:
- TAND H. Xuân Lộc;
- VKSND T. Đồng Nai;
- VKSND H. Xuân Lộc;
- THADS H. Xuân Lộc;
- Đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Mỹ Hạnh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 04/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm