Bản án số 10/2025/DS-ST ngày 04/06/2025 của TAND huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 10/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 10/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 10/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 10/2025/DS-ST ngày 04/06/2025 của TAND huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Lương Sơn (TAND tỉnh Hòa Bình) |
Số hiệu: | 10/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Buộc chị Nguyễn Thị Thu H phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị Th số tiền... |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LƯƠNG SƠN
TỈNH HÒA BÌNH
Bản án số: 10/2025/DS-ST
Ngày: 04/6/2025
V/v: Tranh chấp bồi thường
thiệt hại sức khỏe.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Mai
- Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trần Ánh Hồng và bà Hoàng Thị Huyền
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Ngọc Anh - Thư ký Toà án nhân dân
huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn tham gia phiên toà:
Bà Bùi Thị Huyền - Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 6 năm 2025 tại Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa
Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 74/2024/ TLST- DS ngày 25 tháng
11 năm 2024 về việc: “Bồi thường thiệt hại về sức khoẻ ”, theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số: 05/2025/QĐXXST - DS ngày 4 tháng 3 năm 2025; Quyết định hoãn
phiên tòa số 05/2025/QĐST-DS ngày 24 tháng 03 năm 2025 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1980; Trú tại: thôn CĐ, xã CD,
huyện LS, tỉnh Hoà Bình. Có mặt
* Bị đơn: 1. Bà Đỗ Thu H1, sinh năm 1969; Trú tại: thôn CB, xã TC, huyện
LS, tỉnh Hoà Bình. Có mặt
2. Bà Nguyễn Thị Thu H2, sinh năm 1979; Trú tại: xóm 4, thôn SK,
xã SS, huyện QO, TP Hà Nội. (Bị đơn có yêu cầu phản tố). Có mặt
*Người làm chứng:
1/ Ông Sầm Văn H, sinh năm 1978. Vắng mặt
2/Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1963. Vắng mặt
3/Bà Trần Thu Th, sinh năm 1979. Vắng mặt
Cùng trú tại: thôn CB, xã TC, huyện LS, tỉnh Hoà Bình
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Th
trình bày:Gia đình bà Th được UBND huyện Kim Bôi cấp giấy CNQSDĐ số
E0034571, với diện tích 318m2 đất ở lâu dài tại xã Cao Thắng, huyện Kim Bôi, tỉnh
Hòa Bình nay là xã Thanh Cao, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, tờ bản đồ số 03,
thửa đất số 53. Ngày 10/8/2003, gia đình bà Th chuyển nhượng cho bà Đỗ Thị H1,
ở thôn CB, xã TC, huyện LS, tỉnh Hòa Bình với tổng diện tích đất là 61m2 đất ở lâu
dài, trích trên tờ bản đồ số 16, trong đó diện tích thực tế là 97,8 m2.
Tuy nhiên, ngày 15/8/2023, gia đình bà Đỗ Thị H đã tự ý xây dựng trái phép
tường bao trên đất nhà bà Th được được nhà nước giao cho gia đình bà sử dụng.
Ngày 24/01/2021, bà Th đã xuống gặp gỡ yêu cầu bà H1 dừng việc xây dựng thì xảy
ra xô sát, bà H1 và bà H2 đánh bà Th, làm bà Th bị tím mắt bên phải, chảy máu má
bên trái và bà H1 xịt nước lạnh vào người bà Th trong khi trời rất lạnh 6, 7 độ. Sau
khi bà Th bị bà H1 và bà H2 đánh, bà Th được gia đình người em đưa đi cấp cứu và
điều trị tại bệnh viện Mỹ Đức, Hà Nội.
Bà Th nằm việc 09 ngày tại bệnh viện và đã báo cáo công an xã TC giải quyết.
Công an đã cho bà Th đi giám định thương tích, kết quả bà Th bị tổn hại 5% sức
khỏe.
Tại phiên toà, bà có yêu cầu buộc bà Đỗ Thị H1 và bà Nguyễn Thị Thu H2 phải
bồi thường thương tích tổng số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng), cụ thể:
- Tiền viện phí: 1.600.000 đồng
- Tiền thuốc: 1.000.000 đồng
- Tiền xe đi từ xe đi, về bệnh viện: 1.500.000 đồng
- Giám định thương tích: 1.215.000 đồng
- Ngày nằm viện mất thu nhập nhập 9 ngày x 500.000 đồng/ngày = 4.500.000
đồng
- Người trông nom, chăm sóc 9 ngày x 400.000 đồng/ngày = 3.600.000 đồng
- Tiền bồi thường phục hồi sức khoẻ:16.480.000 đồng.
Theo bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa
bị đơn bà Đỗ Thu H1 và bà Nguyễn Thị Thu H2 trình bày:
Bà Đỗ Thu H1 trình bày: Vào ngày 24 tháng 01 năm 2024, bà H thuê bốn
thợ xây đến sửa chữa nhà. Trong quá trình thi công, bà Th liên tục ngăn cản bằng
cách ném gạch xuống đất, không cho thợ tiếp tục làm việc, vì cho rằng công trình
xây dựng của bà H1 trên phần đất thuộc quyền sở hữu của gia đình bà Th. Bà H1 đã
báo công an xã TC đến giải quyết. Sau khi công an yêu cầu bà Th rời đi, bà Th vẫn
tiếp tục ngăn cản, khiến nhóm thợ xây bỏ về. Lúc này, bà Nguyễn Thị Thu H2, cháu
ruột của bà H1, đến thăm và được bà H1 nhờ giúp đỡ. Khi bà H2 xúc vữa, bà Th tiếp
tục xô đẩy bà H2 và hất xẻng khỏi tay bà, ngăn cản công việc. Khi bà H2 xúc vữa,
bà Th cũng xô đẩy khiến tay bà H2 bị kẹp vào quai xô, dẫn đến xô xát giữa bà H2
và bà Th. Bà H1 can thiệp ngăn cản việc xô xát giữa bà H2 và bà Th thì vụ việc kết
thúc. Sau đó, bà H1 đã gọi công an đến lập biên bản và mời các bên về làm việc.
Bà H1 khẳng định không có hành vi tác động vật lý nào đối với bà Th và cho
rằng chính bà Th là người gây sự, cản trở việc xây dựng.
Tại phiên toà, bà H1 không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn và đề nghị Tòa án giải quyết vụ việc theo pháp luật.
- Bà Nguyễn Thị Thu H trình bày: Ngày 24 tháng 01 năm 2024, bà có về
thăm mẹ đẻ là bà Đỗ Thị M tại xã TC, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Trên đường
đi, bà H đi ngang qua nhà của dì ruột là bà Đỗ Thu H1 và thấy bà Nguyễn Thị Th
đang ngăn cản việc xây dựng tại đây. Thời điểm đó, công an địa phương cũng có
mặt để đảm bảo trật tự. Sau khi công an và nhóm thợ xây rời đi, bà Th vẫn tiếp tục
cản trở không cho gia đình bà Đỗ Thu H1 xây dựng, lúc này bà H2 từ nhà mẹ đẻ về
nhà bà H1, bà H2 cùng chồng là ông Nguyễn Hữu H và em trai là ông Nguyễn Duy
Th đã vào phụ giúp bà H1 tiếp tục xây dựng. Trong quá trình xúc vữa xây nhà, bà
H2 bị bà Th đến xô đẩy, dẫn đến việc bà bị kẹp tay vào quai xô và trẹo cổ chân bên
phải. Dù bị đau, bà vẫn cố gắng tiếp tục công việc. Theo lời bà H2, bà không chủ
động gây sự mà chỉ vung tay phản kháng lại khi bị xô đẩy. Bà H2 khẳng định không
sử dụng bất kỳ vật dụng gì như xẻng hay công cụ, đồ vật gì khác để tấn công bà Th
và cũng không xịt nước lạnh để xịt vào người bà Th, hành động của bà chỉ mang tính
chất phản kháng và bức xúc khi bị bà Th ngăn cản không cho xây dựng, giằng co xô
vữa khiến bà H2 bị kẹt đau tay nên bà H2 mới dùng tay cào, đánh nhiều cái vào vùng
mặt và vùng đầu của bà Th. Sự việc chỉ chấm dứt khi bà Đỗ Thu H1 can ngăn. Ngay
sau sự việc, bà H1 đã gọi công an xã Thanh Cao đến lập biên bản. Bà H2 cũng được
công an đưa đến Trạm Y tế xã để khám và được chẩn đoán bị chấn thương cổ chân.
Sau đó, đến ngày 31/01/2024, bà H2 tiếp tục đi khám tại Bệnh viện Quốc Oai, được
bác sĩ yêu cầu nhập viện điều trị nhưng bà xin điều trị ngoại trú do thời điểm cận
Tết. Từ tháng 2 đến tháng 6 năm 2024, bà H2 điều trị bằng thuốc Tây theo đơn và
kết hợp thuốc nam nhưng không khỏi. Đến ngày 17/06/2024, do đau nặng, bà H2
nhập viện điều trị bằng châm cứu tại Bệnh viện Quốc Oai và ra viện ngày
01/07/2024. Tuy nhiên, tình trạng đau cổ chân vẫn kéo dài. Ngày 18/12/2024, bà H2
đi khám lại và được chẩn đoán có dịch ở bao gân cơ chày sau của cổ chân phải.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà ngày hôm nay, bà H2 giữ nguyên
yêu cầu phản tố, yêu cầu bà Nguyễn Thị Th phải bồi thường tổng số tiền 38.021.825
đồng, bao gồm:
- Tiền viện phí: 502.825 đồng
- Nghỉ không đi làm việc 05 tháng 01 tuần số tiền mất thu nhập là 36.750.000
đồng (mức lương giúp việc 7.000.000 đồng/tháng)
- Thuê xe đi chụp XQ ngày 31/01/2024 cả đi cả về: 100.000 đồng
- Thuê xe đi viện và ra viện (17/06/2024, 01/07/2024) là 160.000 đồng
- Tổng tiền thuốc theo đơn: 509.000 đồng
Bà H2 không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vì cho
rằng mình không phải là người khởi đầu gây sự, mà chỉ có hành vi phản kháng trước
hành động xô đẩy liên tục từ phía nguyên đơn. Bà H2 đề nghị Toà án giải quyết theo
quy định pháp luật
Theo lời khai của những người chứng kiến vụ việc xô xát xảy ra ngày
24/01/2024:
- Lời khai của bà Nguyễn Thị H: Vào ngày 24/01/2024, khi đang ở nhà, bà
Nguyễn Thị H nghe thấy tiếng cãi nhau phát ra từ khu vực nhà bà H1 đang xây
dựng. Khi chạy sang xem, bà chứng kiến cảnh bà H2 và bà Th đang xô xát nhau. Bà
H2 vung tay đánh bà Th trước, bà Th không chống trả, chỉ ôm đầu đỡ đòn, sau đó
choáng váng ngồi sụp xuống đất với tình trạng đầu tóc bù xù, mặt mũi đỏ, có vết
trầy xước và có máu. Sau đó, bà H1 còn lấy vòi nước lạnh xịt thẳng vào người bà
Th, mặc dù thời điểm đó nhiệt độ rất rét. Việc xịt nước còn bắn sang cả người bà và
bà Trần Thu T, khiến họ bị ướt quần áo. Khi bà T có phản ứng, bà H1 trả lời rằng:
“Đất nhà tao tao xịt.”. Sau khi sự việc xô xát kết thúc, chị Th đi đứng loảng choảng,
có biểu hiện mệt mỏi, đầu tóc bù xù, người bị ướt do bà H1 xịt nước lạnh vào, trên
mặt có vết xước, bà thấy chị Th có vẻ rất đau đớn. Trong khi đó, bà H1 và bà H2
vẫn tiếp tục làm việc như bình thường, không có biểu hiện bị thương tích. Bà Nguyễn
Thị H khẳng định: Bà Th không có hành động đánh trả hay gây thương tích cho bà
H; Bà chỉ thấy bà Th dùng lời nói ngăn cản việc xây dựng và có giằng co nhau.
Lời khai của bà Trần Thu T : Vào sáng ngày 24/01/2024, trên đường đi chợ về,
bà Trần Thu T đã chứng kiến sự việc xô xát xảy ra tại khu vực nhà bà H1 đang xây
dựng. Bà H2 liên tục dùng tay đánh vào mặt và vào đầu bà Th , bà Th không có
hành động chống trả nào, chỉ ôm đầu chịu đòn. Sau khi bị đánh, bà Th ngồi xuống
đất trong tình trạng choáng váng, mặt đỏ tấy, tóc tai rối bù, có dấu hiệu xây xước và
chảy máu trên mặt. Tưởng sự việc đã kết thúc, bà T quay về nhà trông cháu. Tuy
nhiên, khi quay ra, bà thấy bà H1 đang dùng vòi nước lạnh xịt thẳng vào người bà
Th, trong khi trời rét dưới 10 độ C. Nước còn bắn trúng vào người bà T, khiến bà
phải lên tiếng thì bà H1 trả lời: “Đất nhà tao tao xịt.” Sau khi sự việc kết thúc, bà Th
đi đứng loạng choạng, người ướt sũng, đầu tóc rối, trên mặt có vết xước, mũ len và
dép bị văng, bà T phải giúp nhặt lại. Ngược lại, bà H1 và bà H2 sau sự việc vẫn tiếp
tục công việc xây dựng, không có dấu hiệu bị thương tích hay ảnh hưởng sức khỏe.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ
đã xác minh được như sau:
- Biên bản xác minh ngày 15/5/2025 của Công an xã Thanh Cao, tỉnh Hoà
Bình cho biết: Có đủ căn cứ để cơ quan Công an huyện ra quyết định xử phạt hành
chính về hành vi gây thương tích của bà H2 cho bà Th; không có đủ tài liệu chứng
cứ để xác định thương tích trên người bà H2 (trẹo cổ chân) do ai gây ra, quá trình
xảy ra xô xát chỉ có bà H2 đánh bà Th, bà H1 không đánh bà Th, bà H2 chỉ dùng tay
đánh bà Th không dùng xẻng hay đồ vật gì khác đánh bà Th, bà Th chỉ ôm đầu đỡ
đòn không đánh đánh trả và cũng không tác động vật lý lại đối với bà H2 hay ai
khác.
Xác minh thu nhập tại địa phương: Biên bản xác minh ngày 15/5/2025 tại UBND
xã CD và UBND xã TC cho biết, thu nhập bình quân đầu người trong độ tuổi lao động
trên địa bàn xã CD, xã TC được xác định vào khoảng từ 280.000 đồng – 300.000
đồng/người/ngày
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn phát biểu quan điểm:
Về việc tuân thủ pháp luật trong tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành pháp luật của đương
sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng
quy định của pháp luật.
Về tố tụng: Các hành vi và quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và
Tòa án đều thực hiện theo đúng quy định pháp luật
Về nội dung vụ án: Lời khai giữa các đương sự và người làm chứng có nhiều
mâu thuẫn, chứng cứ các đương sự cung cấp chưa đủ cơ sở xác định rõ sự việc, xác
định lỗi thuộc về ai để có căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tại phiên
tòa các bên đương sự đều khai nhận còn có chứng cứ chưa giao nộp. Mặt khác, theo
biên biên bản xác minh ngày 15/5/2025 của Tòa án, Công an xã TC xác nhận đã
giải quyết đơn khiếu nại đề nghị của bà H, chị H2 về quyết định xử phạt vi phạm
hành chính số 985/QĐ-XLHC và sẽ cung cấp cho Tòa án toàn bộ tài liệu, chứng cứ
liên quan đến việc tiếp nhận và giải quyết đơn khiếu nại. Tuy nhiên đến nay Công
an xã TC vẫn chưa cung cấp tài liệu liên quan. Thấy rằng, kết quả xác minh, giải
quyết đơn khiếu nại của công dân xã TC có ý nghĩa trong việc xác định lỗi của các
bên để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Mặt khác, các đương sự đều khẳng
định còn có chứng cứ để giao nộp. Do vậy, Viện kiểm sát đề nghị Tòa án tạm ngừng
phiên tòa để thu thập thêm tài liệu chứng cứ từ đương sự và tài liệu liên quan đến
kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Điều 259
Bộ luật tố tụng dân sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án yêu cầu bồi thường thiệt hại
về sức khỏe giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Th với các bị đơn bà Đỗ Thu H1 và bà
Nguyễn Thị Thu H2 là đúng quy định tại khoản 6 điều 26; điểm a khoản 1 điều 35;
điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về chấp hành pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Trong quá
trình giải quyết vụ án nguyên đơn, các bị đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa
vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung vụ án:
- Xét sự kiện pháp lý xảy ra ngày 24/01/2024, mâu thuẫn giữa bà Nguyễn Thị
Th với bà Đỗ Thu H1, Nguyễn Thị Thu H2 là đúng, điều đó được thể hiện qua nội
dung đơn khởi kiện, bản tự khai của Nguyên đơn, bị đơn, biên bản ghi lời khai do
Công an xã TC, tỉnh Hoà Bình và Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn đã thu thập,
cũng như các ý kiến trình bày của các đương sự tại phiên tòa đã thể hiện: Do mâu
thuẫn kéo dài về tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Th và bà Đỗ Thu H1, gia
đình bà Th cho rằng bà H1 đang xây dựng trên phần đất thuộc quyền sử dụng của
gia đình bà Th. Bà H1 cho rằng gia đình mình đang xây dựng trên phần đất hợp pháp
đã được chuyển nhượng từ trước.
Bà Th khai bị bà H1 và bà H2 đánh trước gây thương tích 5% sức khỏe theo
kết luận giám định của trung tấm pháp y tỉnh Hòa Bình, bà Th không có hành vi
đánh trả, chỉ yêu cầu dừng xây dựng.
Bà H1 và bà H2 khai: bà Th chủ động gây sự, cản trở việc bà H1 và bà H2
xây dựng nhà. Bà H1 khẳng định không đánh, chỉ can ngăn lúc bà H1 và bà H2 xảy
ra xô xát. Tuy nhiên bà H1 không gây thương tích cho bà Thuý, bà H1 xịt nước chỉ
để làm ướt sân nhà của mình sau khi xây chứ không chủ đích xịt nước vào người bà
Th. Bà H2 thừa nhận có dùng đánh tay bà Th 02 cái chỉ để phản kháng, tự vệ do bị
bà Th xô đẩy nhiều lần, bà Th xô đẩy làm kẹp tay và trẹo cổ chân bà H2. Tuy nhiên
bà H2 không giám định thương tích nên không xác định tỷ lệ thương tích.
- Xét về lỗi gây nên thương tích: Theo kết luận giám định pháp y, bà Nguyễn
Thị Th bị tổn hại sức khỏe ở mức 5%, chấn động não điều trị ổn định, có các vết
biến đổi sắc tố trên da. HĐXX nhận thấy các vết biến đổi sắc tố trên da này có thể
là bầm tím, thâm hoặc sẹo do va đập. Những tổn thương này phù hợp với lời khai,
kết luận giám định và các tài liệu có trong hồ sơ. Căn cứ biên bản vi phạm hành
chính về lĩnh vực an ninh trật tự của Công an xã Thanh Cao lập ngày 20/4/2024 xác
định ngày 24/01/2024 tại CB, xã TC, huyện LS, Hoà Bình, bà Nguyễn Thị Thu H2
đã có hành vi cố ý gây thương tích cho bà Th. Bà H2 xác nhận có dùng tay đánh 02
cái vào mặt bà Th cho rằng bà H2 chỉ “phản kháng”, “tự vệ” là không có cơ sở, bởi
lẽ bà Th không có hành vi tấn công mà chỉ phản ứng bằng lời nói yêu cầu dừng xây
dựng trên phần đất đang tranh chấp và ngăn cản phía bà H1, bà H2 xúc vữa xây nhà;
Mặt khác bà H1, bà H2 có ưu thế về số lượng, không có dấu hiệu nào cho thấy bà
H2 bị uy hiếp tính mạng hay sức khỏe để mà cần phải phản kháng hay tự vệ đến mức
gây thương tích cho bà Th;
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ thấy rằng: Người gây ra thương tích cho bà
Th trong lúc xô sát vào ngày 24/01/2024 là bà Nguyễn Thị Thu H1. Bà Đỗ Thu H1
không gây ra thương tích cho bà Th. Do vậy bà Nguyễn Thị Thu H2 là người có lỗi
trong việc gây ra thương tích và phải bồi thường thiệt hại sức khỏe gây ra cho bà
Nguyễn Thị Th. Tuy nhiên, việc bà Th tự ý đến hiện trường để ngăn cản hoạt động
thi công xây dựng khi chưa thông qua cơ quan có thẩm quyền là hành vi không đúng
quy định, gây mất trật tự và tạo điều kiện dẫn đến xô xát. Tuy nhiên, qua hồ sơ,
không có căn cứ rõ ràng để xác định được mức độ lỗi cụ thể của từng bên nên trách
nhiệm bồi thường được chia đều. Do đó, bà Nguyễn Thị Thu H2 phải có trách nhiệm
bồi thường 50% thiệt hại về sức khỏe cho bà Nguyễn Thị Th. Bà Nguyễn Thị Th tự
chịu trách nhiệm đối với 50% còn lại
[3] Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại của bà Nguyễn Thị Th:
Căn cứ yêu cầu của bà Nguyễn Thị Th và các tài liệu chứng cứ kèm theo
HĐXX xét thấy chấp nhận một phần yêu cầu của người khởi kiện gồm các khoản
cho phí điều trị và chi phí hợp lý khác cụ thể như sau:
- Chi phí điều trị tại bệnh viện và điều trị gồm:
+ Tiền viện phí là 962.972 đồng.
+ Đơn thuốc Bệnh viện đa khoa Vân Đình ngày 02/02/2024, chỉ định mua
thuốc Cilexic 500mg cùng Hóa đơn thanh toán của Hệ thống thuốc Hồng Vân ngày
02/02/2024 đối với 01 hộp Cilexic 500mg với số tiền là 660.000 đồng và Đơn nhà
thuốc Bệnh viện đa khoa Vân Đình ngày 05/02/2024, chỉ định mua 03 loại thuốc là
Levofloxacin 250mg, Celecoxib 400mg, Bropa 50mg số tiền là 479.000 đồng. Tuy
nhiên bà Th chỉ yêu cầu bồi thường là 1.000.000 nên chấp nhận.
- Chi phí thuê xe ô tô 01 chuyến đi viện Vân Đình và 01 chuyền về nhà bà Th
là 1.000.000 đồng.
- Tiền mất thu nhập trong thời gian nằm viện 09 ngày x 300.000đ/ngày =
2.700.000 đồng.
- Tiền thuê người chăm sóc trong thời gian nằm viện 09 ngày x
300.000đồng/ngày = 2.700.000 đồng.
- Tiền bồi thường tổn thất tinh thần bằng 02 tháng lương cơ bản:
2.340.000đồng/tháng x 02 tháng = 4.680.000 đồng.
Tổng các khoản chi phí điều trị thương tích và các khoản chi phí hợp lý khác
cho bà Nguyễn Thị Th là 12.042.972 đồng (Mười hai triệu không trăm bốn mươi
hai nghìn, chín trăm bảy mươi hai đồng). Bà Nguyễn Thị Thu H2 phải có trách
nhiệm bồi thường 50% thiệt hại về sức khỏe cho bà Nguyễn Thị Thúy tương đương
với số tiền là 6.021.486 đồng (Sáu triệu, không trăm hai mươi mốt nghìn, bốn trăm
tám mươi sáu đồng).
- Đối với số tiền giám định thương tích bà Th cung cấp cho Tòa án 02 hóa đơn
gồm: Hóa đơn ngày 12/3/2024 thu tiền giám định là 680.000 đồng và Hóa đơn ngày
12/3/2024 thu tiền giám định là 535.000 đồng.
Tại Điều 36 Luật Giám định tư pháp năm 2012 (sửa đổi năm 2020) quy định:
“Người trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có trách nhiệm trả chi phí
giám định tư pháp cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp theo quy định
của pháp luật về chi phí giám định tư pháp”. Trong vụ án này, Cơ quan ra quyết định
trưng cầu giám định là Công an xã TC. Do đó, Công an xã TC có trách nhiệm trả chi
phí giám định. Không có căn cứ buộc bà Nguyễn Thị Thu H2 phải trả chi phí giám
định thương tích.
- Đối với khoản tiền bồi thường phục hồi sức khỏe, thương tật: Căn cứ vào
Bệnh án ngoại khoa của Bệnh viện đa khoa Vân Đình thấy rằng: Bà Th vào viện
ngày 27/01/2024 và ra viện ngày 05/02/2024; Khi vào viện có các dấu hiệu là sưng
đau vùng đỉnh phải, xây sát vùng mặt phải; Kết quả xét nghiệm cận lâm sàng CLVT
chưa phát hiện bất thường; Phương pháp điều trị là kháng sinh giảm đau, TD tri toàn
trạng; Tình trạng người bệnh khi ra viện tỉnh táo, không nôn không sốt, hết đau. Như
vậy, tại bệnh án của bệnh viện đa khoa Vân Đình không thể hiện bà Thúy có chức
năng nào của cơ thể bị mất hoặc giảm sút do chấn thương. Mặt khác, tại Kết luận
giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 66/KLTTCT-TTPY ngày 20/3/2024
của Trung tâm pháp y tỉnh Hòa Bình cũng không thể hiện bà Thúy có chức năng nào
của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút.
Quá trình giải quyết vụ án, bà Th cũng không cung cấp được tài liệu chứng
minh chi phí cho việc phục hồi chức năng cơ thể bị mất hoặc giảm sút. Do đó không
có căn cứ để chấp nhận yêu cầu bồi thường của bà Th đối với khoản tiền này.
[4] Xét yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H2. Quá trình điều tra
xác minh của các nhân chứng, cơ quan Công an xã và các tài liệu chứng cứ đều
không thể hiện bà Th không có hành vi tác động vật lý xâm phạm sức khỏe của bà
H2, mặc dù bà H2 khai báo rằng mình bị chấn thương cổ chân và kẹp tay, nhưng
không cung cấp được bất kỳ chứng cứ y khoa nào có tính xác thực, rõ ràng để chứng
minh rằng những chấn thương này là kết quả trực tiếp từ hành vi của bà Th, cũng
không có giám định thương tích hay kết luận chuyên môn nào từ cơ quan chức năng
xác định nguyên nhân của những tổn thương này là do hành vi của bà Th gây ra. Do
đó, không thể xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của bà Th và tổn thương
của bà H2, không có cơ sở pháp lý để yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ việc này.
HĐXX xét thấy yêu cầu phản tố của bà H2 đối với bà Th không có căn cứ pháp lý
nên không chấp nhận.
Đối với việc giải quyết đơn khiếu nại về quyết định xử phạt vi phạm hành
chính của bà H2, quá trình xác minh thu thập tài liệu chứng cứ tại Cơ quan công an
xã TC, tỉnh Hòa Bình xác định được như sau: Công an xã TC đã tiếp nhận đơn khiếu
nại của bà H2 khiếu nại về quyết định xử phạt hành chính số 985/QĐ-XPHC của
Công an huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, sự việc xô xát xảy ra giữa các đương sự
(Th, H1, H2) xảy ra ngày 24/01/2024 là có thật, có đủ căn cứ để cơ quan Công an
huyện ra quyết định xử phạt hành chính đối với bà H2 về hành vi gây thương tích
cho chị Th; không có đủ tài liệu chứng cứ để xác định thương tích trên người bà H2
(trẹo cổ chân) do ai gây ra; trong quá trình xảy ra xô xát chỉ có bà H2 đánh bà Th,
bà Th chỉ ôm đầu, không đánh trả và cũng không tác động vật lý bà H2, không tác
động vật lý bà H1; Bà H1 không đánh hay tác động vật lý đối với bà H2. Trường
hợp bà H1, H2 không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại của công an xã TC thì có
thể làm đơn khiếu nại lên cơ quan có thẩm quyền hoặc khởi kiện hành vi hành chính
bằng một vụ án khác theo quy định pháp luật.
[5] Đối với đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa: HĐXX nhận thấy, Tòa án
đã tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ liên quan từ các đương sự và các cơ quan tổ
chức theo quy định pháp luật trong suốt quá trình giải quyết, xét xử vụ án. Tại phiên
toà ngày 24/3/2025 các đương sự đều trình bày là không cung cấp thêm tài liệu chứng
cứ nào khác, tuy nhiên tại phiên toà ngày hôm nay (4/6/2025) bà H1, bà H2 đã cung
cấp thêm tài liệu chứng cứ chứng minh như đơn đề nghị, đơn khiếu nại của bà H1,
bà H2 đã nộp tại cơ quan có thẩm quyền, ngoài các tài liệu chứng cứ này ra thì bà
H1 và bà H2 không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ nào khác. Đối với việc tiếp nhận
và giải quyết giải quyết khiếu nại của công an xã TC, tỉnh Hòa Bình. HĐXX nhận
thấy, Công an xã TC đã tiếp nhận đơn khiếu nại của bà H1, bà H2, tuy Công an xã
Thanh Cao chưa có văn bản trả lời về đơn khiếu nại của bà H1, bà H2 nhưng quá
trình làm việc với Toà án, Công an xã TC đã khẳng định có đủ căn cứ để cơ quan
Công an huyện ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi gây thương tích cho chị
Th; không có đủ tài liệu chứng cứ để xác định thương tích trên người bà H (trẹo cổ
chân) do ai gây ra. Tại phiên tòa bà H2 xác nhận có dùng tay đánh bà Th 02 cái, bà
H1 không đánh hay tác động vật lý đối với bà Th. Theo quy định của pháp luật Tòa
án có quyền tự mình xác minh, thu thập chứng cứ, trưng cầu giám định, lấy lời khai
các bên, nhân chứng, yêu cầu công an cung cấp hồ sơ, biên bản, tài liệu liên quan để
làm rõ sự việc mà không nhất thiết phải chờ kết quả giải quyết khiếu nại hành chính.
Mặc khác, đây là vụ án tranh chấp dân sự về bồi thường thiệt hại về sức khỏe nên
HĐXX cho rằng, dựa trên các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn
cứ để giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, việc đề nghị tạm dừng
phiên tòa để chờ kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền là không
cần thiết nên HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án theo quy định pháp luật.
[6] Về án phí: Đây là vụ án yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm
hại nên nguyên đơn được miễn án phí. Yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Th
được chấp nhận một phần nên bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H2 phải chịu án phí đối
với phần yêu cầu được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 điều 584, điều 585, điều 586 và điều 590 của Bộ luật dân
sự năm 2015; Khoản 6 điều 26, điểm a khoản 1 điều 35, điều 39, điều 174, điều
271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Điểm d khoản 1 điều 12, khoản 2
điều 26 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Th.
2. Buộc bà Nguyễn Thị Thu H2 phải phải bồi thường chi phí điều trị thương
tích và các khoản chi phí hợp lý khác cho bà Nguyễn Thị Th tổng số tiền là 6.021.486
đồng (Sáu triệu, không trăm hai mươi mốt nghìn, bốn trăm tám mươi sáu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu
cầu thi hành án mà người thi hành án chậm thi hành thì phải chịu lãi suất đối với số
tiền chậm thi hành án theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự,
trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Trường hợp quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
3. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Thu H2
4. Về án phí: Buộc bà Nguyễn Thị Thu H2 phải nộp 301.074 đồng (ba trăm
linh một nghìn không trăm bảy mươi bốn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Th, bị đơn bà Đỗ Thu H1
và bà Nguyễn Thị Thu H2 có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên
án sơ thẩm.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Hòa Bình; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- VKSND tỉnh Hòa Bình;
- VKSND huyện Lương Sơn;
- Chi cục THADS huyện Lương Sơn;
- Các đương sự;
- Lưu HS. Nguyễn Thị Thu Mai
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 24/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm