Bản án số 177/2025/DS-PT ngày 17/09/2025 của TAND tỉnh Khánh Hòa về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 177/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 177/2025/DS-PT ngày 17/09/2025 của TAND tỉnh Khánh Hòa về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Khánh Hòa
Số hiệu: 177/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp lối đi chung giữa bà Nguyễn Thị K và ông Võ Tân C
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH KHÁNH HÒA Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 177/2025/DS-PT
Ngày: 17-9-2025
V/v tranh chấp quyền về lối đi qua
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
A ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thu Hằng
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị Dịu
Phạm Thị Anh Trang
- Thư ký phiên tòa: Nguyễn Thị Tuyết Nhung Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Khánh Hòa.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa: Ông Nguyễn Văn
Thắng - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, ti trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 152/2025/TLPT-DS ngày 08 tháng
8 năm 2025 về việc “Tranh chấp quyền về lối đi qua”.
Do Bản án dân sự thẩm số 23/2025/DS-ST ngày 20/6/2025 của Tòa án
nhân dân huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận (nay Tòa án nhân dân Khu vực 7
Khánh Hòa) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 214/2025/QĐXXPT-DS
ngày 26/8/2025 gia các đương sự:
Nguyên đơn: Nguyễn Thị K, sinh năm 1963; địa chỉ: Khu phố 5, thị trấn
Tân Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận (nay Thôn 5, xã N, tỉnh Khánh
Hòa). (có mặt).
Bị đơn: Ông Tân C, sinh năm 1965; địa chỉ: Khu phố 5, thị trấn Tân
Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận (nay là Thôn 5, xã N, tỉnh Khánh Hòa). (có
mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1969; (có mặt).
2. Bà Võ Thị Lệ H, sinh năm 1992;
3. Ông Võ Hoài T, sinh năm 1995;
4. Bà Võ Lệ Hoài T, sinh năm 2008
2
Cùng địa chỉ: Khu phố 5, thị trấn Tân Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh
Thuận (nay là Thôn 5, xã Ninh S, tỉnh Khánh Hòa).
Bà H, ông T, bà Th có đơn xin xét xử vắng mặt.
5. Ủy ban nhân dân thị trấn Tân Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của Ủy ban nhân dân thị trấn Tân
Sơn: Ủy ban nhân dân Ninh Sơn, tỉnh Khánh Hòa; địa chỉ: Số 219 đường Lê
Duẩn, xã Ninh Sơn, tỉnh Khánh Hòa. (có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, q trình giải quyết ván tại Tòa án cấp sơ thẩm,
nguyên đơn Nguyễn Thị K trình bày:
Nguồn gốc đất của gia đình bà do Hợp tác xã cấp khoảng năm 1985-1986 và
khai hoang thêm canh tác sử dụng từ đó đến nay. Con đường mà gia đình tranh
chấp với bà Nguyễn Thị T, ông Võ Tân C đã có từ trước, chiều rộng khoảng 6 mét,
dài thẳng ra đến mương, đường không được bằng phẳng, phía Tây con ơng
nước nhỏ để tưới tiêu nay được xây mương tông. Ngoài gia đình , còn nhiều
hộ dân khác đều đi con đường này để vận chuyển máy móc vào canh tác, vận
chuyển nông sản thu hoạch. Diện tích đất T, ông C đang canh tác đu do nhận
chuyển nhượng của các hdân gồm của gia đình bà, ông Hồ Văn T, ông Nguyễn
Văn K... Đến tháng 6/2023, ông C, bà T rào lại lối đi chung, không cho các hộ dân
đi vì cho rằng con đường này do gia đình ông đổ đất làm đường. Do đó, yêu
cầu ông C bà T tháo d hàng rào, trả lại lối đi chung vào nội đồng lúa thuộc
Khu phố 5, thị trấn T, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.
Bà Nguyễn Thị T người đại diện theo ủy quyền của bđơn ông Tân C
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Con đường Nguyễn Thị K tranh chấp của gia đình đổ đất công
sức ra làm, chkhông phải đường đi chung. Năm 1993, gia đình nhận chuyển
nhượng của ông Hoài T, Thị P khai hoang thêm, trong đó một số
diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn một số diện tích
đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, gia đình làm
hàng rào ngang đường để bảo vệ, không cho dê vào phá hoa màu của gia
đình. Diện tích con đường này đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho gia đình bà nên bà không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà K.
Nhng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Lệ H, ông Võ Hoài
T và bà Võ Lệ Hoài T thống nhất ý kiến với ông Võ Tân C và bà Nguyễn Thị T.
Bản án dân sự thẩm số 23/2025/DS-ST ngày 20/6/2025 của Tòa án nhân
dân huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 7 – Khánh
Hòa) quyết định:
Căn cứ vào Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, 147,
157, Điều 271, 273 và 483 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 166, 170, 171 và Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;
3
Căn cứ Điều 175, 176 và Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban tờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị K. Buộc ông
Võ Văn T, bà Nguyễn Thị T tháo d 02 trụ bê tông, lưới B40 trả li lối đi chung ra
vào đường nội đồng tại khu vực Xứ đồng núi Bà Sơ ở Khu phố 5, thị trấn Tân Sơn,
huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thun (Theo đo đạc chỉnh thửa đất của Văn phòng
đăng ký đất đai - chi nhánh huyện Ninh Sơn ngày 22/4/2025).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng, quy định
chung về thi hành án và quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Ngày 07/7/2025, Nguyễn Thị T đại diện ủy quyền của bị đơn ông
Tân C có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Nguyễn Thị K gi nguyên toàn bộ
yêu cầu khởi kiện, bị đơn ông Võ Tân C gi nguyên toàn bộ nội dung kháng cáo.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa:
Về tố tụng: Kể từ khi thụ vụ án phúc thẩm đến trước thời điểm Hội đng
xét xử vào phòng nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa đã tuân
thủ đúng quy định của Bộ luật Ttụng dân sự; đương sự đã thực hiện quyền
nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Tại phiên a, đại diện theo y
quyền của bị đơn vn gi nội dung kháng cáo nên xem xét giải quyết vụ án theo
thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung: Cấp thẩm chấp nhận toàn byêu cầu khởi kiện buộc bị
đơn thực hiện tháo dỡ, trả lại lối đi chung không đúng quy định đối với bản chất
pháp của vụ việc, quan hệ pháp luật theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 192
Bộ luật Ttụng dân sự, dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng thẩm quyền, vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.
Đề nghị Hội đồng t xhủy bản án thẩm đình chỉ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận
định:
[1] V th tc t tng:
Nguyễn Thị T đại diện ủy quyền của bị đơn ông Tân C mặt tại
phiên tòa thẩm. Ngày 07/7/2025, T đơn kháng cáo. Nvậy, đơn kháng
cáo của T hợp lệ theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên
Tòa án tiến hành xem xét, giải quyết đơn kháng o nêu trên theo thủ tục phúc
4
thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn ông Võ Tân C xác định tự tham gia tố tụng,
không yêu cầu bà Nguyễn Thị T làm đại diện ủy quyền của ông na.
[2] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn Nguyễn Thị K khởi kiện yêu cầu
Tòa án buộc vợ chồng ông Võ Tân C và bà Nguyễn Thị T tháo dỡ hàng rào, trả lại
lối đi chung cho mọi người, trong đó gia đình bà. Tòa án cấp thẩm xác định
quan hệ tranh chấp là “Tranh chp lối đi qua” không chính xác. Quan hệ tranh
chấp trong vụ án này là tranh chấp lối đi chung do nhà nước quản lý.
[3] Xét nội dung kháng cáo của bị đơn ông Võ Tân C:
Ông Tân C kháng cáo toàn bộ bản án thẩm cho rằng toàn bộ diện
tích đất làm con đường là của gia đình bà nhận chuyển nhượng và khai hoang năm
1993, con đường này do gia đình bđơn bđất làm đường tu sửa, chứ không
phải con đường của nhà nước và bị đơn đã được cấp giấy chứng quyền sử dụng đất
một phần nên không đồng ý tháo dỡ.
Theo Văn bản số 225/CV-UBND ngày 19/6/2025 của Ủy ban nhân dân thị
trấn T, huyện Ninh Sơn về việc rà soát hồ sơ địa chính thị trấn và tổ chức họp lấy ý
kiến tham vấn người am hiểu nguồn gốc đất, canh tác lâu năm tại khu vực liên
quan đến con đường đang phát sinh tranh chấp gia hộ Nguyễn Thị K
Nguyễn Thị T, thể hiện:
Về nguồn gốc, thời điểm hình thành con đường nội đồng: Vùng đất này
được hình thành từ thời chế độ cũ, cấp đất sản xuất nông nghiệp cho dân. Do vậy,
con đường cũng được hình thành từ thời chế độ để phục vụ sản xuất nông
nghiệp (trước năm 1975). Đặc điểm con đường thi điểm trước đây được quy
hoạch khoảng 8-10m ngang. Tuy nhiên, quá trình sử dụng đất, người dân đã làm
biến dạng con đường. Tại cuộc họp tham vấn ý kiến, nhân dân khẳng định tại khu
vực phát sinh tranh chấp có con đường nội đồng, do nhà nước quản lý, không phải
là đường do hộ gia đình, cá nhân tự mở. Con đường này phục vụ khoảng 20 hộ dân
canh tác nông nghiệp, đi lại tháo nước sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, xung
quanh con đường này các hộ dân đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Tại tờ bản đồ địa chính số 09, chỉ thể hiện có con mương thủy lợi, kng
thể hiện con đường. Theo ý kiến tham vấn của nhân dân, thời điểm hình thành con
mương sau khi đã đường nội đồng này, đến năm 2014 nhà nước tông hóa
mương đất.
Hành vi xây dựng hàng rào tạm (02 trụ tông, lưới B40) của ông Tân
C, bà Nguyễn Thị T để ngăn chặn lối đi chung ra vào cánh đồng lúa tại khu vực Xứ
đồng núi thuộc Khu phố 5, thị trấn T, huyện Ninh Sơn xâm phạm đất do
Nhà nước quản lý, không phải là phát sinh quan hệ tranh chấp quyền sở hu tài sản
gia các nhân. Lối đi nguyên đơn khởi kiện đường đi công cộng, không
thuộc quyền sử dụng của bất kỳ hộ gia đình nào, đất giao thông nông thôn, thể
hiện rõ trong hồ địa chính thị trấn T.
Căn cứ vào hđịa chính của Ủy ban nhân dân thị trấn T, lời khai nhng
người làm chứng nội dung giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các đương
5
sự thể hiện, con đường đang tranh chấp đường đi chung, được xác lp từ trước
tồn ti ổn định trong cộng đồng dân địa phương. Đây tuyến đường không
nằm trong quyền sử dụng của bất kỳ cá nhân nào, mà thuộc quản lý chung của Nhà
nước theo quy định của pháp luật đất đai. Việc ông C, bà T tự ý rào chắn, ngăn cản
việc đi lại của hộ lin kề không phát sinh tmâu thuẫn dân sự vquyền sử dụng
đất hay quyền tài sản, hành vi xâm phạm phần đất công, hành vi vi phạm
pháp luật hành chính trong lĩnh vực đất đai, phải được xử bằng chế quản
nhà nước, thông qua các biện pháp cưỡng chế hành chính hoặc xphạt vi phạm
hành chính. Do đó, nguyên đơn không quyền khởi kiện theo quy định tại Điều
186 của Bộ luật Ttụng dân sự năm 2015, vì đất tranh chấp là đường chung, thuộc
quyền quản lý của Nhà nước.
Điều 12 của Luật Đất đai năm 2013 nghiêm cấm hành vi lấn, chiếm, sử dụng
đất trái pháp luật. Theo Điều 203 Luật Đất đai, thẩm quyền xử nhng hành vi
như vậy thuộc về Ủy ban nhân dân cấp thẩm quyền. Mặt khác, theo quy định
của Bộ luật Ttụng dân sự năm 2015, Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết nhng
tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự, quan hệ gia các nhân, tổ chức với
nhau về quyền tài sản hoặc nhân thân. Trường hợp này, do phần đất tranh chấp
không phải là tài sản thuộc quyền sở hu, quyền sử dụng của các đương sự, không
mâu thuẫn phát sinh tquan hệ dân sự, nên Tòa án không căn cứ thụ lý
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Việc chiếm dụng, xây dựng trên phần đất
công đều hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, chịu sự điều chỉnh
của Luật Đất đai năm 2013 Điều 3 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Tòa án cấp thẩm xác định đây tranh chấp dân sự vlối đi chung theo
quy định của Bộ luật Dân sự và thụ lý quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp quyền về
lối đi qua”, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện và buộc bị đơn thực hiện tháo dỡ,
trả lại lối đi chung không không đúng quy định đối với bản chất pháp của vụ
việc, quan hệ pháp luật theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 192 của Bộ luật T
tụng dân sự, dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng thẩm quyền nên cần hủy
toàn bộ bản án thẩm đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nội dung
kháng cáo của bị đơn có căn cứ để chấp nhận.
[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên ông Tân C không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Về chi phí thẩm định tại chỗ, trích lục tại giai đoạn phúc thẩm: Do kháng
cáo của bị đơn được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu chi phí 3.065.000
đồng. Bà K có nghĩa vụ hoàn lại cho bà T số tiền 3.065.000 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
6
Căn cứ Điều 12, Điều 203 Luật Đất đai;
Căn cứ Ngh quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Tờng vQuốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng
án p lphí Tòa án,
Tuyên x:
1. Chấp nhận kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông
Tân C. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2025/DS-ST ngày 20/6/2025
của Tòa án nhân dân huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận (nay Tòa án nhân dân
Khu vực 7 – Khánh Hòa) và đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Khẩn.
2. Về án phí:
Về án phí sơ thẩm: Buộc ông Võ Tân C, bà Nguyễn Thị T phải chịu
300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Về án phí phúc thẩm: Ông Tân C không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm. Hoàn lại cho ông Tân C 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm
đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án s0000161 ngày 14/7/2025
tại Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 7 – Khánh Hòa.
3. Về chi phí tố tụng:
Chi phí tố tụng tại cấp thẩm: Buộc ông Tân C, Nguyễn Thị Tình
phải chịu 2.705.000 đồng. Hoàn trả cho Nguyễn Thị K số tiền 2.705.000 đồng
mà bà Khẩn đã nộp chi phí tạm ứng xem xét thẩm định tại chỗ.
Chi phí tố tụng tại cấp phúc thẩm: Nguyễn Thị K nghĩa vụ hoàn lại
cho bà Nguyễn Thị T số tiền 3.065.000 đồng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- VKSND tỉnh Khánh Hòa;
- TAND Khu vực 7;
- Phòng THADS Khu vực 7;
- Lưu: hồ sơ, VP.
Trần Thị Thu Hng
Tải về
Bản án số 177/2025/DS-PT Bản án số 177/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 177/2025/DS-PT Bản án số 177/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất