Bản án số 17/2025/HNGĐ-ST ngày 16/04/2025 của TAND TP. Kon Tum, tỉnh Kon Tum về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 17/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 17/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 17/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 17/2025/HNGĐ-ST ngày 16/04/2025 của TAND TP. Kon Tum, tỉnh Kon Tum về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Kon Tum (TAND tỉnh Kon Tum) |
Số hiệu: | 17/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ly hôn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ KON TUM
TỈNH KON TUM
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số:17/2025/HNGĐ-ST.
Ngày: 16/4/2025
V/v:“Không công nhận vợ chồng”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KONTUM - TỈNH KONTUM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Bá Nghiên.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Trương Duy Cảnh
2. Bà Chế Thị Mai.
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Thúy An - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh KonTum
tham gia phiên toà: Bà Lê Hoàng Mỹ Vy – Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 4 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum,
tỉnh Kon Tum, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số:
223/2024/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2024 về việc “Không công nhận
vợ chồng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2025/QĐXXST- HNGĐ
ngày 06 tháng 11 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Mạnh T, sinh năm 1966.
Địa chỉ: 39 Đường Phan Huy Chú, tổ 3 phường Trường Chinh, thành phố
Kon Tum, tỉnh KonTum
Nơi ở hiện nay: Số 01/10 đường Tân Thành, phường Hòa Thạnh, quận Tân
Phú, thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Bà Lê Thị V, sinh năm 1968; Địa chỉ: 39 Phan Huy Chú, tổ 3,
phường Trường Chinh, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN

2
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn ông
Trần Mạnh T trình bày:
- Về hôn nhân: Tôi và bà Lê Thị V chung sống với nhau 1992 không đăng
ký kết hôn, chưa từng cầm giấy chứng nhận kết hôn, nếu có giấy kết hôn thì đây
là giấy kết hôn giả. Chung sống đến năm 2016, nguyên nhân mâu thuẫn là do
chúng tôi không hòa hợp cuộc sống gia đình, năm 2018 thì bà V yêu cầu làm đơn
ly hôn tôi đồng ý, tháng 03/2022 thì tôi bị tai nạn, bà V giữ hết tiền của tôi làm
tôi không có tiền chữa bệnh, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên tôi yêu
cầu giải quyết ly hôn với bà Lê Thị V.
- Về con chung: Có 02 con chung là Trần Thu Trang, sinh năm 1992 và Trần
Quốc Đạt, sinh ngày 29/01/2007. Cháu Trang đã trưởng thành có gia đình riêng,
cháu Đạt hiện đủ 18 tuổi cháu ở với ai thì ở nên tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về Tài sản chung: Có 01 tài sản chung là một căn nhà và quyền sử dụng
đất tại thửa số 32, tờ bản đồ 137, diện tích 263,7m². Đây là tài sản chung của vợ
chồng tôi để lại cho các con chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nợ chung: Không có.
Về tài liệu chứng cứ ông Trần Mạnh T đã nộp kèm theo đơn khởi kiện để
chứng minh cho việc không có đăng ký kết hôn hợp pháp là 01 Bản sao trả lời xác
minh hộ tịch của UBND xã Hải Long ngày 19/8/2024.
* Bị đơn bà Lê Thị V trình bày:
+ Trước lúc mở phiên tòa bà Lê Thị V trình bày:
- Về Hôn nhân: Bà Lê Thị V cũng thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng phát sinh
từ năm 2016 đến nay, xuất phát từ việc ông T có quan hệ sống chung với người
phụ nữ khác nên bỏ bê trách nhiệm với gia đình vợ con. Hiện tại ông T đã đi chổ
khác sinh sống nhiều năm nay nên về tình cảm vợ chồng không còn, ông T xin ly
hôn bà cũng đồng ý ly hôn với ông T.
- Về con chung: Có 02 con chung là Trần Thu Trang, sinh năm 1992 và Trần
Quốc Đạt, sinh ngày 29/01/2007. Cháu Trang đã lấy chồng có gia đình riêng, cháu
Đạt hiện đủ 18 tuổi đang sống chung với bà nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về Tài sản chung; nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.
+ Sau khi mở phiên tòa (ngày 17/3/2025) bà Lê Thị V trình bày: Bà có đơn
đề nghị về việc ly hôn vắng mặt và có yêu cầu Tòa án phân chia 01 thửa đất, diện
tích 263,7m², giá trị tạm tính 760 triệu đồng và 01 cái nhà khoảng 30 triệu đồng
và nợ chung 730 triệu đồng và phân chí cho bà V nhiều hơn.

3
Tại phiên tòa ông Trần Mạnh T giữ nguyên ý kiến đã trình bày trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử, đề nghị Tòa án giải quyết tuyên bố ông và bà Lê Thị V
không phải là vợ chồng.
*Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum tại phiên tòa
phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước
thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ
theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật của
những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về quan điểm đề nghị giải quyết vụ án:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, Điều 57 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC-
VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014.
Căn cứ Điều 24, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí
Tòa án.
Đề nghị tuyên bố:
Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận ông Trần Mạnh T và bà Lê Thị V
là vợ chồng.
Về con chung; tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên không đề cập
tới.
Về án phí: Ông Trần Mạnh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền và thủ tục tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền: Nguyên đơn ông Trần Mạnh T có đơn khởi kiện xin
ly hôn với bà Lê Thị V. Tuy nhiên, quá trình giải quyết ông T bà V không cung
cấp được giấy đăng ký kết hôn. Do đó, ông T yêu cầu Tòa án giải quyết, tuyên bố
ông và bà Lê Thị V không phải là vợ chồng. Bà Lê Thị V có hộ khẩu thường trú
tại phường Trường Chinh, Thành phố Kon Tun, tỉnh Kon Tum nên vụ án thuộc

4
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum
theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp
tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho đương sự theo quy định tại Điều 208,
209, 210, 211 của BLTTDS. Bị đơn không có yêu cầu phản tố, không cung cấp
thêm chứng cứ mới.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên hòa giải, các đương đã
thống nhất thuận tình ly hôn; về con chung và tài sản chung: không yêu cầu Tòa
án giải quyết. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết bà V cho rằng bà và ông T có
đăng ký kết hôn, nhưng bà không cung cấp được giấy đăng ký kết hôn. Do ông T
và bà V không có giấy đăng ký kết hôn hợp pháp, nên Tòa án nhân dân Thành
phố Kon Tum phải quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa lần thứ nhất ngày 21/3/2025 bị đơn bà Lê Thị V đã được Toà
án triệu tập phiên toà hợp lệ lần thứ nhất không tham gia phiên tòa và có đơn đề
nghị về yêu cầu ly hôn vắng mặt. Tại phiên toà hôm nay Toà án đã triệu tập và
tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên toà đối với bị đơn bà Lê Thị V, nhưng bà
V vắng mặt không có lý do. Vì vậy căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản
3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án xét xử vắng mặt bà V.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: ông Trần Mạnh T và bà Lê
Thị V chung sống với nhau như vợ chồng từ cuối năm 1992 đến nay nhưng không
đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, mặc dù ông bà có đủ điều
kiện đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Quá trình giải
quyết vụ án ông Trần Mạnh T và bà Lê Thị V thừa nhận trong thời gian sống
chung, hai bên đã phát sinh mâu thuẫn, không tìm được tiếng nói chung, không
có hạnh phúc nên ông T đã chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh để sinh sống, hai
người đã ly thân nhau từ năm 2016 cho đến nay. Nay ông T yêu cầu Tòa án tuyên
bố về quan hệ hôn nhân giữa ông và bà V không phải là vợ chồng.
[2.2] Căn cứ pháp lý giải quyết yêu cầu của ông Trần Mạnh T:
Căn cứ Hướng dẫn tại khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, thì: “Trường hợp nam, nữ chung sống
với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi phạm
điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc
yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của
Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa
họ...".
Khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân gia đình quy định: Nam, nữ có đủ điều
kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà

5
không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng.
Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được
giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
Khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân gia đình quy định: “Trong trường hợp
không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không
công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 luật này…”.
Tại công văn số 76/UBND-TP ngày 19/8/2024 của UBND xã Hải Long
huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa trả lời xác minh hộ tịch thì UBND xã không
đăng ký hôn và không cấp xác nhận tình trạng hôn nhân của ông Trần Mạnh T.
Tại công văn số 36/UBND-TPHT ngày 04/02/2025 của UBND phường
Trường Chinh trả lời về việc cung cấp thông tin cho Tòa án trả lời kết quả xác
minh kiểm tra sổ lưu hộ tịch tại UBND phường từ năm 2004 đến nay không có
trường hợp ông Trần Mạnh T và bà Lê Thị V đăng ký kết hôn tại địa phương.
Do đó, HĐXX xét chấp nhận quan điểm nghị của đại diện Viện kiểm sát
tại phiên tòa. Căn cứ vào Điều 9, Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và
gia đình để tuyên xử, chấp nhận yêu cầu của ông Trần Mạnh T, cụ thể như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận ông Trần Mạnh T và bà Lê Thị
V là vợ chồng.
- Về con chung: Ông Trần Mạnh T và bà Lê Thị V có 02 con chung là Trần
Thu Trang, sinh năm 1992 và Trần Quốc Đạt, sinh ngày 29/01/2007. Cháu Trang đã
trưởng thành có gia đình riêng. Cháu Đạt đã đủ 18 tuổi, có đủ năng lực hành vi dân
sự, ông T và bà V không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, HĐXX không xem
xét giải quyết về quyền nuôi con chung.
- Về Tài sản chung: Trước khi mở phiên tòa ông T và bà V đều xác định có
01 căn nhà và quyền sử dụng đất tại thửa đất số 32, tờ bản đồ 137, diện tích
263,7m² tại địa chỉ số 39 Phan Huy Chú, phường Trường Chinh, thành phố Kon
Tum, tỉnh Kon Tum. Cả ông T và bà V thống nhất để lại cho các con chung nên
không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, ngày 17/3/2025 sau khi mở phiên
tòa bà V có đơn đề nghị về việc yêu cầu ly hôn vắng mặt và có đơn yêu cầu Tòa
án phân chia thửa đất số 32, tờ bản đồ 137, diện tích 263,7m², giá trị tạm tính 760
triệu đồng và 01 cái nhà khoảng 30 triệu đồng và nợ chung 730 triệu đồng và phân
chí cho bà V nhiều hơn. Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên họp
tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải ngày 17/01/2025. Tại biên bản hòa giải
và biên bản thuận tình ly hôn (cùng ngày 17/01/2025) bà V không có yêu cầu chia
tài sản chung đối với thửa đất và căn nhà nói trên và không đề cập đến vấn đề nợ
chung. Hiện vụ án đã được quyết định đưa vụ án ra xét xử và mở phiên tòa lần
thứ nhất (ngày 21/3/2025) bà V vắng mặt không tham gia phiên tòa và không đến
Tòa án làm việc và có đơn đề nghị vắng mặt. Tại phiên tòa hôm nay (ngày
16/4/2025) bà V tiếp tục vắng mặt nên Tòa án không có cơ sở xem xét, giải quyết

6
về việc phân chia tài sản chung, nợ chung theo yêu cầu vắng mặt của bà. Do đó,
về yêu cầu phân chia tài sản chung, nợ chung, HĐXX không xem xét giải quyết
trong vụ án này. Trường hợp bà V có yêu cầu về chia tài sản chung, nợ chung thì
bà có quyền làm đơn khởi kiện ở vụ án dân sự khác.
[3] Về án phí: Ông Trần Mạnh T phải chịu án phí theo quy định của pháp
luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14,
khoản 2 Điều 53, Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC-
VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014;
Căn cứ Điều 24, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí
Tòa án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận ông Trần Mạnh T và bà Lê
Thị V là vợ chồng.
2. Về con chung: Ông Trần Mạnh T và bà Lê Thị V có 02 con chung là
Trần Thu Trang, sinh năm 1992 và Trần Quốc Đạt, sinh ngày 29/01/2007. Cháu
Trang đã trưởng thành có gia đình riêng. Cháu Đạt đã đủ 18 tuổi, có đủ năng lực
hành vi dân sự, ông T và bà V không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, HĐXX
không xem xét giải quyết về quyền nuôi con chung.
3. Về Tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết. Trường hợp bị
đơn bà Lê Thị V có yêu cầu thì khởi kiện bằng vụ án dân sự khác.
4. Về án phí: Ông Trần Mạnh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã
nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000100 ngày 04/11/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.
5. Về quyền kháng cáo: Ông Trần Mạnh T có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bà Lê Thị V vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản sao bản án
được niêm yết theo quy định của pháp luật.

7
Nơi nhận: T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
- TAND tỉnh Kon Tum;
- VKSND TP KonTum;
- Chi cục THA dân sự TP KonTum;
- UBND nơi đăng ký kết hôn;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Phạm Bá Nghiên
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm